Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục đạo thần quang

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 17898)
Lục đạo thần quang

Dưới bóng râm của cây phượng tím trong sân trường Đại học, hai sinh viên, một nam, một nữ đang giúp nhau ôn bài. Bỗng nhiên, người nữ ngước nhìn đôi chim sẻ ríu rít trên cành cao, gương mặt nàng chợt ủ dột. Người nam nhận ra ngay, lên tiếng hỏi:

- Sao vậy?


- Ơ... A ...

- Đừng trả lời theo kiểu tiểu thuyết là “bụi bay vào mắt” nhé!

Người nữ biết không thể giấu bạn nhưng nàng sẽ không nói rõ điều bất an trong lòng mà sẽ chỉ chia sẻ cảm nghĩ, biết đâu bạn nàng sẽ mở cho nàng một lối đi. Nghĩ thế, nàng thở mạnh một hơi dài rồi nói bâng quơ:

- Em không nhớ đã đọc ở đâu câu Tổ Lâm Tế nói rằng “Lục đạo thần quang chưa từng bao giờ vắng mặt”. Anh hiểu câu đó thế nào?

Biết bạn sẽ vòng vo nên người nam liền giải thích:

- Anh nghĩ Tổ nói Lục đạoLục căn đó.

- Lục căn là sáu cửa ải của đầu mối tạo nghiệp sao lại là lục đạo được?

Không biết nàng thực sự không hiểu hay muốn đào sâu điều gì, người nam cứ giữ tâm an nhiên trả lời:

- Thiện còn chứa ác, có còn hàm không thì sao lục căn lại chẳng thể là lục đạo? Có lúc nào mắt, tai, mũi, lưỡi, khẩu, ý rời khỏi ta không? Cảnh hiện ra là mắt thấy, tiếng vọng lên là tai nghe, hương thoảng tới là mũi ngửi... và cảm thọ khởi lên sau khi thấy, nghe, ngửi... là vì ta để căn qua lăng kính phân biệt mới kết luận đẹp xấu, hay dở. Nếu khi ta thấy, nghe, ngửi, mà chỉ nhận biết đơn thuần bản chất đối tượng thì ta sẽ không bị đồng hóa với đối tượng.

Nàng thở dài:

- Làm sao khi đối cảnh mà tâm không động được?

- Ấy, lẽ đạo dễ mà khó là ở ngay chỗ đó. Sở dĩ chúng ta đối cảnh động tâm là vì ta quen huân tập như thế rồi nên tâm thức lúc nào cũng sẵn sàng khởi niệm phân biệt. Muốn tâm thức đi chỗ khác chơi để lục căn ghi nhận được thuần khiết bản chất đối tượng thì chúng ta phải tập, phải sửa những thói quen đã bám rễ đó. Tu là sửa. Dễ hay khó tùy thuộc công lựcquyết tâm của người muốn sửa.

- Tâm thức vốn vô hình, sửa đã khó, anh lại bảo hắn đi chỗ khác chơi là đi đâu? Tâm thức tuy vô hình nhưng có đó, vì nếu không có, ai làm việc phân biệt? Nếu ta sửa thành công, nghĩa là tâm thức sẽ thất nghiệp, thì nó đi đâu?

Chàng thong thả gấp sách lại. Học gì nỗi nữa với cô bạn rắc rối thế này! Nàng tưởng chàng bí. Nhưng không, chàng điềm tĩnh phản công:

- Anh chàng tâm thức này rất tội! Khi đã thất nghiệp rồi là lập tức vô gia cư. Đúng thế, anh chàng không còn chỗ trụ, bèn tự biến mình, nhẹ như tơ, thoắt một sát-na, tâm thức biến mất; hay nói khác đi, khi căn làm chủ được mình để chỉ nhận chân bản chất đối tượng thì thức hòa vào mênh mông, bát ngát, thức không còn hiện hữu trong thời gian, không gian nữa! Những gì có mặt trong không gian, thời gian thì còn quẩn quanh với sinh diệt; ngược lại cái đã thoát ra ngoài không gian, thời gian mới có thể hùng tráng đi ngang ba cõi mà không bị Mất-Còn, Sinh-Tử trói buộc.

Nàng cúi đầu, trầm ngâm. Chàng bồi thêm để mong kéo nàng ra khỏi “điều gì đó” đang khiến nàng phiền não. Chàng chỉ lên chùm phượng tím ngay trước mặt, hoa và lá đang lay động trước gió và gió ấy đang làm rơi dăm cánh hoa tàn:

- Này, em nhìn xem, gió đang làm rụng hoa, rơi lá nhưng cây phượng thì vẫn hiên ngang, lẫm liệt thế này, cây phượng đâu có rơi, đâu có chết vì nó biết nguồn nhựa xanh tươi đang luân lưu trong tự thân. Dẫu cho đến khi nào thân mục, rễ khô, cây phượng cũng có chết đâu! Cây phượng lại thành đất và đất lại nuôi cây mà! Thân tứ đại của ta cũng không khác. Khi ta an trú được trong tự thể bất sinh bất diệt của mình như cây phượng thì ta cũng an nhiên nhìn vui buồn, thành bại, xấu đẹp, giàu nghèo trôi qua, như cây phượng đang nhìn hoa rơi, lá rụng mà nó vẫn vui vẻ, an nhiên cho chúng ta bóng mát. Em thua cây phượng hả???

Chàng bất chợt cao giọng khi hỏi như thế vì chàng quyết tâm quật ngã giặc phiền não đang tấn công nàng. Quả nhiên, đang nghe chàng “từ bi thuyết pháp”, bỗng nhiên bị giáng một đòn như ngài Huệ Khả đi cầu đạo, bị Tổ Đạt Ma quát lớn “Đem cái tâm bất an của ngươi ra đây ta an cho” là lập tức ngộ đạo ngay. Tiếc thay, chàng không là Tổ Đạt Ma và nàng cũng không phải Huệ Khả nên câu hỏi gay gắt của chàng chỉ đủ làm nàng giật mình. Và tệ hại hơn, sau khi giật mình, nó còn như lời mắng mỏ, chạm vào vết thương đang mưng mủ. Đau quá, nàng òa lên khóc!

Chẳng những không là Tổ Đạt Ma, chàng còn mù tịt không dỗ dành nên cứ ngồi thừ ra, nhìn nàng khóc! Ấy thế mà lạ thay, chàng không cảm thấy bứt rứt chút nào, chỉ lặng lẽ nhìn. Còn nàng thì khóc như lâu lắm chưa được khóc, đôi vai rung rung theo từng nhịp thổn thức, nước mắt nước mũi tèm lem khiến nàng luôn nâng vạt áo lên chấm chấm, lau lau...

Cứ thế, chàng ngồi nhìn. Và nàng ngồi khóc.

Chàng là người nhìn. Và nàng là đối tượng bị nhìn.

Dẫu nàng là bạn, nhưng chàng không bị bi thương của nàng cuốn hút. Chàng chỉ đang ghi nhận thực thể trước mắt là nàng đang ngồi khóc. Thế thôi! Đây là Pháp Chiếu Kiến kỳ diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, an trú trong thiền tập trước ngoại cảnh...

Tình thế bất thần đảo ngược.

Khi nhận ra ánh sáng tươi vui đang lan tỏa trên tóc, trên mắt, trên trán, trên cả toàn thân chàng, nàng chợt im bặt, ngừng khóc.

Và bây giờ nàng ngồi nhìn chàng.

Như con đò chao đảo giữa bão táp đại dương vừa tìm về tới bến sông êm, nàng từ tốn, từng bước thấy mình.

Nàng nhìn niềm đau đang dày xéo tâm can như đang nhìn kẻ lạ. Nàng và niềm đau là hai biệt thể. Niềm đau không làm nàng đau được nữa vì nàng không hòa mình làm một với nó như dăm phút trước đây. Niềm đau chỉ còn là vật bị nàng quán chiếu. Nàng đang nhìn rõ mặt mũi nó như nhìn những con múa rối trình diễn. Nó là diễn viên, nàng là khán giả. Tuồng này dứt sẽ tới tuồng khác. Khán giả này ra về, khán giả khác sẽ đến. Đến và Đi nối tiếp không ngừng, nên nói Đến mà không nơi đến; nói Đi mà không nơi đi, chỉ có CÁI THẤY đến, đi, là vẫn đó.

Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào. Chính vì sự kiện “tất nhiên” như thế nên ta thường lầm tưởng cái ta thấy là do nhờ con mắt của thân tứ đại; nhưng không phải, vì khi ta ngưng thở, thân còn nằm đó với đầy đủ tay chân mắt mũi nhưng mắt không thấy được nữa. Vậy “cái thấy tất nhiên” kia không phải do con mắt của thân tứ đại mà có thì cái thấy đó từ đâu?

Quán chiếu tới đây, nàng cực kỳ xúc động. Nếu cái thấy không do nhục nhãn mà thấy thì cái nghe cũng không do nhục nhĩ mà nghe, vậy chúng là gì? Từ đâu? Phải chăng chúng đã TỰ CÓ nên không sinh diệt theo thân tứ đại? Vì tự có nên chúng chẳng từ đâu đến cũng chẳng sẽ về đâu. Chúng vĩnh hằng và Vĩnh Hằng là sự sống luôn luôn có mặt trong tự thân ta.

Còn gì nghi ngờ nữa, cái không sinh không diệt, không đến không đi, không trong không ngoài, không sạch không dơ... lại luôn hiện hữu trong suốt lưu ly không là PHẬT TÁNH thì là gì?

Lòng nàng chợt òa vỡ sự mầu nhiệm của Bản Thể Chân Như.

Sự chứng nghiệm này quá lớn lao, vượt qua sức chịu đựng của nàng. Nàng lay vai chàng, lay thật mạnh bằng hết sức của mình để hấp tấp hỏi:

- Anh! Cái gì đây? Em đang cảm thấy cái gì đây?

Trong khi chàng im lặng mỉm cười thì nàng vội vã kể hết, kể tỉ mỉ suốt chặng quán chiếu vừa qua. Hình như chặng đường đó chỉ có mấy phút, mấy giây hay là đã trôi suốt kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai của nàng?

Lòng họ hướng về Đạo, nghĩ về nhau thành khẩn quá, tới mức Tâm vừa Truyền Tâm mà họ không hay. Họ chỉ cảm thấy vô cùng hân hoan, cất tiếng cười trong vắt như thủy tinh khi hồi chuông rung báo giờ vào lớp rộn rã vang khắp sân trường.

Niềm đau nào mà không tan theo????

Nguồn: Tập San Pháp Luân 21


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2766)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2542)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2668)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2541)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2373)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2453)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3266)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2332)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2422)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2476)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2556)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2224)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2590)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3061)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2657)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2725)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3013)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2575)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2618)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4119)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3080)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3324)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2527)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2812)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3015)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2880)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2627)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2639)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3195)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2599)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2608)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2699)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2764)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3280)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2567)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2136)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2608)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2060)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2925)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2959)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2728)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant