Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về Quê Lên Núi Ngủ Chùa

25 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16861)
Về Quê Lên Núi Ngủ Chùa

VỀ QUÊ LÊN NÚI NGỦ CHÙA
Trần Nhã Thụy

 

Lên núi là ở ngoài vùng phủ sóng, là lánh xa cái chốn lao xao ở dưới kia, là đi con đường khó nhưng quan trọng hơn là bày tỏ một thái độ.

Về quê lên núi ngủ chùa

Uống bia tắm suối và đùa với sư

Đó là hai câu vần vè viết trên… điện thoại di động của tôi, là thu hoạch nhỏ nhoi sau nhiều chuyến “về quê lên núi ngủ chùa”. Khi nghe có bạn hữu nào về quê thì tôi lại nhắn gửi hai câu này. Tuy nhiên, cũng tùy người mà tin thơ có biên tập đôi chút. Ví dụ với người đứng đắn, nghiêm trang thì thơ sẽ được chỉnh lý thành: Về quê lên núi thăm chùa / Uống trà thưởng gió luận bàn sử kinh; còn với người dễ tính, bông phèng thì lời sẽ biến hóa: Về quê lên núi ngủ chùa / Uống bia tắm suối, trêu đùa nữ sư. Đại khái là vậy. Nhưng xin đừng tưởng thơ là thật. Chỉ có một tâm trạng thật là mỗi lần về quê đều muốn được thăm chùa trên núi.

Tại sao là chùa trên núi? Tại vì chùa trên núi thì khác với chùa ở phố mà tôi thì đã quanh năm phố xá rồi. Tôi chỉ muốn nói đến một chỗ neo dựa về tinh thần từ những ngôi chùa trên núi. Không hiểu vì sao từ lâu tôi vẫn nghĩ đã là chùa thì phải ở trên núi. Như núi Yên Tử là nơi mà vua Trần Nhân Tông đến tu thiền, bỏ lại sau lưng vàng son triều chính. Lên núi là ở ngoài vùng phủ sóng, là lánh xa cái chốn lao xao ở dưới kia, là đi con đường khó nhưng quan trọng hơn là bày tỏ một thái độ.

Lên núi Yên Tử và đọc thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông thì thật không gì tuyệt ý cho bằng.

“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền

Có báu trong nhà thôi khỏi kiếm

Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

blank

Rêu phong. Ảnh: PHƯƠNG GIANG

Thì ra cái gọi là thiền chính là một sự rỗng không, như một kẻ vô sự, lúc nào cũng sống với khoảnh khắc “bây giờ và ở đây”. Nhưng một hành động có vẻ như rất dễ dàng “Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền” nhưng không phải ai cũng thực hành được. Và như thế nên mới cần tu tập.

Ở xã Cát Tiến, huyện Phù Cát (Bình Định) có một ngôi chùa trên núi được gọi là chùa Ông Núi (Linh Phong tự). Theo khảo tự phổ của Linh Phong tự thì chùa được xây vào năm Quý Sửu (1733). Trước đó, vào năm thứ 23 đời vua Lê, nhà sư Mộc Y Sơn Ông (tức Lê Bản, hay còn gọi là Ông Núi) tu tại nơi này. “Tương truyền, ban ngày Ông Núi ở trong rừng đốn củi, bó thành bó lớn chỉ có sức ông mới gánh nổi mang xuống chân núi, để ở ngã ba rồi trở lên. Người dân quanh vùng đem gạo, muối đến để đó rồi gánh củi về dùng. Hôm sau ông hoặc đồng tử xuống núi lấy thực phẩm, nhiều ít không cần biết. Mỗi khi trong vùng có dịch bệnh thì tự nhiên nhà sư đem thuốc xuống cứu chữa. Chữa xong rồi đi ngay, không nhận bất cứ một sự trả công nào. Vào năm Quý Sửu (1733), chúa Nguyễn Phúc Chú khen ông là bậc chân tu, xây lại chùa. Từ chùa tranh thành chùa ngói bắt đầu từ đây. Chúa ban tên chùa là “Linh Phong Thiền Tự”, một câu liễn và ban cho Sơn Ông hiệu “Tịnh giác, thiện trì Ðại lão thiền sư”.

Tôi đã từng lên chùa Ông Núi. Nghe chuyện người tu hành ngày xưa thấy rõ là bậc chân tu. Và thêm một lần nữa, tôi yêu mến những ngôi chùa trên núi. Dẫu ở đây chỉ là một ngọn núi nhìn ra biển, chẳng phải chót vót thâm u gì nhưng rõ ràng có một thứ gió khác, mát và sạch hơn. Lên chùa, nhẹ lòng nhất là được nghe tiếng chuông chùa vẳng trong thinh không. Cũng là tiếng chuông chùa nhưng ở phố, có lẽ nghe như gắt gỏng hơn, còn ở trên núi này tiếng chuông nghe như trong veo, vèo nhẹ vào mây trời.

Lâu nay, đi lễ chùa nhiều nhất vẫn là phụ nữ. Tôi cứ nghĩ đi chùa trên núi thì đàn bà con gái sẽ ít đi vì đường xa, dốc cao, leo trèo mệt nhọc. Hóa ra là tôi nhầm. Đi chùa trên núi, ở đâu cũng thấy phụ nữ là những người khỏe khoắn nhất. Nhiều khi thấy phụ nữ lưng cõng con mà bước phăm phăm lên dốc, tôi không khỏi ngạc nhiên. Phải chăng đó là sức mạnh nơi lòng thành, hay sự thành tâm tập trung thành sức mạnh?

Tôi không rõ đàn ông đi chùa thường cầu gì, như tôi thì thường… không cầu gì cả. Nhưng tôi biết phụ nữ đi chùa thường cầu những gì tốt đẹp nhất cho cái gia đình bé nhỏ của họ. Cầu cho con thi đậu đại học, có công ăn việc làm, con gái thì không bị trai nó lừa, con trai thì không sa vào nghiện ngập; lại cầu cho chồng đi làm ăn xa khỏe mạnh, đừng có bồ nhí… Đại khái là vậy. Những điều tưởng rất tầm thường nhưng là niềm vui sống của những phụ nữ ở quê.

Mỗi lần về quê tôi lại thấy phụ nữ đi chùa ngày càng nhiều. Có cả những người dẫu không theo đạo Phật vẫn đến chùa để viếng chơi, làm công quả. Có nhiều nơi, phụ nữ mê chùa, xao lãng việc đồng áng, bỏ bê giặt giũ, cơm nước cho chồng con. Có người bảo không lo cho người thân mà chỉ lo việc thiên hạ. Nhưng tôi không nghĩ như vậy. Tôi thương những người đàn bà nhà quê và vui khi thấy họ tìm được những khoảnh khắc sống vui trong thực tại. Họ buông xả và họ có quyền lãng quên. Thì đấy, nếu yêu thương thì hãy ghé vai mà gánh giùm cái gánh đời thường giúp họ. Đừng trách móc mà chi!

“Về quê lên núi ngủ chùa”. Tôi không chỉ muốn được về quê, không chỉ muốn lên núi viếng chùa mà thực sự là muốn ngủ lại ít nhất một đêm dưới mái chùa, muốn soi lòng mình ở nơi chốn ấy. Sau một đêm thức dậy dưới mái chùa sẽ thấy “vạn vật giai không” (Không có cái tướng của ta, không có cái tướng của người, không có tướng chúng sanh, không có tướng lãnh thọ của chúng sanh - kinh Kim Cang). Rồi nhẹ chân xuống núi. Nhẹ chân bước lại cuộc đời…

Trần Nhã Thụy

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1340)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1155)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant