Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Tăng & bồ đoàn

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14897)
Thiền Tăng & bồ đoàn

Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng. Bước vào văn học, nó mang tính cách cao nhã hơn thân phận cây cỏ tầm thường. Nguyễn Công Trứ, trong bài “Kẻ sĩ” có viết:

Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị…

Xe bồ luân là loại xe có bánh đặc biệt quấn bằng cỏ bồ, các vị vua quý trọng hiền tài như vua Thang, vua Văn dùng nó để đón bậc sĩ phu ra giúp nước. Bánh xe thời cổ xưa làm bằng cây gỗ, đường sá chưa tráng nhựa, dùng cỏ đệm cho êm để xe chạy bớt dằn xóc, biểu lộ tinh thần quý trọng tha thiết của vua. Và chiếc xe bồ luân trở thành xe cao cấp đời mới, như mỗi lần chúng ta thấy một đoàn xe chở các nhân vật quan trọng chạy qua, tiền hô hậu ủng lướt êm như mơ.

bodoan2.gif

Cỏ bồ xuất hiện trong đời sống thiền sư. Thiền sư Trần Tôn Túc hiệu Đạo Minh, đời Đường quê ở Giang Nam, xuất gia giữ giới tinh nghiêm, học thông Tam tạng, tham thiền ngộ đạo nơi tổ Hoàng Bá. Được cử làm thủ tọa trong chúng, sư chính là người thúc đẩy ngài Lâm Tế đến thầy thưa hỏi. Về sau, sư về ở chùa Khai Nguyên, thường dùng cỏ bồ đan giày bán nuôi mẹ, mọi người kính trọng gọi sư là Trần Bồ Hài. Thời loạn lạc, giặc đến phá thành chỗ sư ở, mọi người đều di tản. Sư treo một chiếc giày nơi cổng, chúng đến nhìn thấy biết trong thành có bậc đạo đức bèn lui binh, dân chúng được bảo trọng. Thế lực của một chiếc giày cỏ mạnh hơn gươm giáo, cũng cho thấy tinh thần trọng đạo lý của những người gọi là giặc.

Bồ đoàn là nệm ngồi để tọa thiền, cũng giống như tọa cụ một trong 18 món phải đem theo bên mình của người hành hạnh đầu đà. Nó giúp cho thế ngồi vững chắc, dễ chịu hơn, để chống chọi với những ma trận của thân và tâm. Ngồi bao lâu, ngồi yên thế nào cho cánh cửa thiền định mở ra, thấu suốt vấn đề sinh tử, đó là việc của người tu. Đức Phật ngày xưa đã dùng cỏ để trải tòa ngồi, bó cỏ và chú mục đồng dâng cỏ đến bây giờ được khắc ghi thành một nơi chiêm bái, gần chỗ của nàng Sujata dâng bát sữa. Khách hành hương đến Ấn Độ, thăm Bồ Đề Đạo Tràng trước, sau đó mới theo xe chạy vòng qua sông Ni-liên, đến làng Sujata viếng thăm các di tích trước khi Phật thành đạo. Cũng vậy thôi, bất cứ ngôi làng nào cũng phong cảnh như nhau, nhà tranh vách đất, người và vật lam lũ, mấy con bò con dê quanh quẩn trong sân, trẻ con lem luốc hò reo với xe hành hương, chuẩn bị chạy theo xin tiền. Xe đò Ấn Độ chở người lên tận nóc, có khi một con dê nằm trên đầu xe cùng với chủ của nó, thản nhiên nhìn mọi thứ qua một lớp bụi mù. Đền thờ mục đồng dâng cỏ, nói là đền cho oai chứ thật ra chỉ là một cái nhà vừa phải, có tượng Bồ tát đưa tay nhận bó cỏ, ông mục đồng đang quỳ đó. Nói là ông mục đồnghình tượng đơn sơ lắm, chẳng có nghệ thuật chi, phía trước còn có một tấm biển ghi lại sự tích. Khách cúng tiền, thắp hương lễ lạy trong khung cảnh của thế kỷ này, có thể có người nghi ngờ không biết chỗ này có thật như vậy không? Nhìn qua bờ bên kia, hình ảnh Đại tháp Bồ Đề trùm lên cả không gian thời gian. Dù sao, dân làng bên này cũng ké được uy quang của Phật, đỡ khổ.

Thiền sư Huệ Lăng ở Trường Khánh tham học nơi Tuyết PhongHuyền Sa, qua lại 20 năm, ngồi rách bảy cái bồ đoàn mà chưa tỏ ngộ. Nhà thiền ghi lại chuyện này bằng câu “Trường Khánh bồ đoàn”, ý nói tính cách quyết tâm gian khổ. Đâu phải một lần ngồi mà xong việc, ngồi thiền là chuẩn bị nấu cho chín nhừ mớ vọng tưởng lăng xăng, ngày đêm gì cũng đối mặt với chính mình. Thiền sư ngồi trên bồ đoàn nhưng chỗ ngộ đôi lúc là đang đi đứng, hoặc trợt chân té bất ngờ, hoặc nghe một tiếng động… Ngài Huệ Lăng một hôm cuốn rèm đại ngộ. Bảy cái bồ đoàn đã qua có giúp chỗ này không? Bồ đoàn bây giờ dồn gòn, may vải tốt không dễ rách hư, nhưng đọc câu chuyện của Ngài cũng giúp người nung chí.

Bồ đoàn tọa nại giang đầu lãnh

Hương hỏa trùng sinh kiếp hậu khôi.

Bùi Giáng dịch thoát:

Bồ đoàn ngồi lại nguyện cầu

Luống từng chịu gió giang đầu giá băng

Trùng sinh kiếp hậu há rằng

Tro là hương hỏa, mộng hằng là than

Ngồi suông trên tấm bồ đoàn

Ngày xuôi giốc tuột

hai hàng thái hư.

Thiền tăng ngồi yên trên bồ đoàn để làm gì? Câu hỏi đó vẫn lẽo đẽo theo chúng ta trên từng bước tu học. Ngồi cũng là để hỏi han dòm ngó. Không ngồi thì không tỉnh thức nổi, tập khí lao xao mịt mờ như ma trận, hôn trầm buồn ngủ rình chộp. Thời gian vẫn trôi qua trên đầu, cuộc đời vẫn là buồn vui như thế, không ngồi vững vàng có nghĩa là không thể mỉm một nụ cười trước mọi sự.

Ở đây nói ngồi để chống chọi với gió rét đầu bến sông. Đôi khi ngồi trong phòng rất ấm nhưng gió rét vẫn từng trận thổi qua, đó là những cơn gió nội tâm, chỉ có người trong cuộc mới biết. Chung quanh vẫn tĩnh lặng. Ngồi đến khi nào thân tâm ngưng đọng được không? Các vị La-hán ngồi đến mức có thể tuyên bố “Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã lập, không thọ thân sau”, khi đó những cuộc hẹn hò tái lai không còn rủ rê, không còn dính dáng, “Mộng trùng lai không có ở trên đời”.

bodoan-1.gif

Ngồi như vậy không đơn giản. Và những cơn gió không phải là gió thường, nó có thể thổi bay chúng ta qua tám muôn bốn nghìn dặm như gió của cây quạt Ba tiêu. Quạt một cái Tôn Hành Giả bay tít mù không cưỡng được. Cũng có thể là gió nghiệp thổi người qua những hành lang sinh tử. Chỉ có ngồi kiên trì lặng lẽ, thấy mình trôi chảy như mộng, ngày nọ tiếp nối ngày kia vẫn tọa cụ bồ đoàn, nhắm mắt hay mở mắt cũng khung trời đó, tự hỏi ta là cái gì? “Ngày xuôi giốc tuột hai hàng thái hư”, mọi thứ đi qua không dừng lại, để cho mưa nắng và thời gian rêu mốc mấy phen. Thơ Tô Đông Pha tặng Đạo Tiềm, một nhà sư và nhà thơ thâm giao với ông ở miền Giang Triết, có câu: “Bế môn tọa huyệt nhất thiền sáp / Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh”. Ông lặn lội trong chốn quan trường, đôi lúc cũng muốn được như sư, đóng cửa ngồi thiền - nơi tọa thiền cũng là một chốn hang động ẩn cư của chính mình. Bỏ quên tuế nguyệt cũng là bỏ quên những kỷ niệm một thời, mơ ước tương lai. Tọa thiền cho thật chín chắn mới hiểu hết ý nghĩa của nó, mới cám ơn bồ đoàn tọa cụ đã giúp mình chiến đấu chống chọi với chính mình. Thiền sinh khi bước vào thiền đường, chắp tay vái chào chỗ ngồi, xá chào bồ đoàn, thầm nguyện sẽ tiếp tục ngồi bây giờ và mãi mãi, cho đến khi sóng gió đầu sông bến nước đổi thành tro than không còn tung tích. Ngồi thiềntự hứa sẽ đi vào biển đại nguyện, lúc đó bồ đoàn tọa cụ trở thành chiếc thuyền thân thiết chở người qua sông, như bây giờ chở hành giả ngồi qua những đoạn đường gay cấn.

NHƯ ĐỨC

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 808)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1207)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 761)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 870)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 816)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 777)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 784)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 784)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 703)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 946)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1265)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1428)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1175)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1490)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 956)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 857)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 964)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 987)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 957)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 976)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1108)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 929)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1069)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1064)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 997)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1026)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 945)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1102)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1045)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 961)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1067)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 1000)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 931)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1031)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 966)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1216)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 996)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1096)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1242)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1689)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1259)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1333)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1190)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1055)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1017)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1040)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 895)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1566)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1454)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1419)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant