Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi dòng tưởng niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 18885)
Đôi dòng tưởng niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển

Một bậc Thạch Trụ Thiền gia, Tòng Lâm Mô Phạm đã hưng khởi uy nghi, đức độ dưới vòm trời Sơn Môn xứ Huế vào các thập niên 40-80, uy đức ấy mãi rạng ngời trong tâm thức người Phật tử mỗi khi tưởng niệm về Ôn – Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển.

Chúng con là đàn hậu học, ít có cơ may được hầu Ôn, mà nhất là học Tăng của các Phật Học Viện miền trong. Hơn nữa, chưa một lần được ra thăm chùa viện xứ Huế. Thời ấy, 1970-1975, chúng con nghe và biết qua sách vở rằng: Huế đẹp, Huế mộng mơ. Huế nên thơ nên xứ Huế có nhiều tao nhân mặc khách, hay Huế là cái nôi, nắm rún thai nghén sinh thành Phật giáo miền Trung. Các Tự viện, Tổ đình, Tòng Lâm, Sơn môn xứ Huế uy nghiêm, kính cẩn, phong kín nét thâm u cổ tự mà nhiều thế kỷ qua cho đến bây giờ vẫn không phai nhạt theo thời gian mà lại còn hiện thân một cách rộng rãi hơn nữa để đem đến cho mọi người một chiều sâu tâm thức thuần hậu, kính cẩn khi nói về Phật giáo Huế, hay danh đức các bậc kỳ Túc Thượng Nhân.

Huế được ca ngợi là đất thần kinh văn vật, với cái đẹp thiên nhiên của đất trời ưu việt dành cho, từ cảnh núi sông cẩm tú ấy đã sinh ra biết bao bậc Tôn Túc Thiền Gia, trong đó có Ôn – Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển.

Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ đi vào đời bằng hạnh nguyện độ sinh.

Đọc lại dòng lịch sử của Ôn, từ thuở thiếu thờisơ tâm xuất gia, cho đến ngày hóa duyên dĩ tất, an tường xả bỏ báo thân, thị tịch, qua 86 năm trụ thế, Ôn đã là hóa thân của một Đấng Tôn Sư trong chốn Thiền môn để nhiếp hóa chúng Tăng, giữ gìn kỷ cương phạm hạnh; ngoài xã hội, Ôn là bóng đại thọ tòng lâm che mát hàng nhơn thiên quy ngưỡng.

Lần đầu tiên chúng con gặp Ôn tại Phật Học Viện Nha Trang và lần thứ hai tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn, chỉ thoáng nhìn qua thân tướng Ôn mọi người đã cảm nhận được bài thuyết pháp vô ngôn qua thân giáo. Với dáng đi thong dong tự tại, thân hình thẳng tắp, hai tay thả duỗi an nhiên, đôi mắt sáng quắc nghiêm nghị luôn nhìn thẳng vào người đối diện, một ánh mắt ít người có được, ánh mắt tuy nghiêm nghị nhưng ẩn tàng tấm lòng bao dung, từ hòa của đấng Cha lành lo cho đàn con mọn, của bậc Tôn sư huấn thị hàng hậu học tương lai. Giọng nói của Ôn trầm hùng uy lực, dù chỉ là cuộc nói chuyện bình thường, nhưng vẫn biểu hiện được nội chứng thâm hậu, khiến người nghe phải đem tâm quy phục.

Chúng con còn nhớ:

Vào một buổi chiều năm 1970, quý Thầy học Tăng Phật Học Viện Nha Trang, bách bộ trước sân nhà, Ôn từ Chánh điện chùa Hải Đức đi lên cốc Ôn Già Lam trên đồi Trại Thủy, khi đi ngang qua dãy Tăng đường, quý Thầy học Tăng thấy Ôn, nhưng không ai biết là Ôn Mật Hiển từ Huế vào thăm Ôn Già Lam, Giám Viện Phật Học Viện Nha Trang, vì thế quý Thầy cứ tự nhiên xem Ôn như một khách Tăng đến thăm viện. Nào ngờ, đến 8:00 giờ tối, Ôn Già Lam sai Thầy quản chúng, họp chúng tại cốc của Ôn, quý Thầy học Tăng vân tập lên cốc Ôn Già Lam, thấy Ôn Già Lam ngồi ngang hàng với Ôn Mật Hiển, nên mọi người hồi hộpchấn động trước uy dung của Ôn. Ôn Già Lam nói:

- Các Thầy hãy đảnh lễ Ôn Trúc Lâm.

- Sao hồi chiều các Thầy thấy Ôn mà không chào? Tui buồn các Thầy quá, các Thầy ở Phật Học Viện, thấy quý Ôn tới thăm viện mà không biết thưa hỏi.

Ôn Mật Hiển ôn tồn tiếp lời Ôn Già Lam, từng chữ, từng lời thắm thiết:

- Tui tưởng quý Thầy biết tui, nhưng quý Thầy không biết thôi thì đừng chấp trách. Tuy nhiên là người học Phật, cầu làm Phật, và nơi đây đào tạo người làm Phật, quý Thầy phải biết, gặp quý Thầy dù lớn hơn hay ngang hàng hoặc nhỏ hơn mình, tất cả đều nên chào hỏi thân mật. Ai thọ giới trước mình một đàn thì đã lớn hơn mình rồi, đừng nói là quý Ôn Trưởng thượng.

Rồi Ôn nói nhẹ một câu:

- Ôn Già Lam làm Giám Viện chiều quý Thầy quá.

Thì ra hồi chiều quý Thầy học Tăng thấy Ôn mà không chào, nên Ôn nói lại với Ôn Già Lam và Ôn Già Lam họp chúng để dạy bảo.

Từ tâm thức của bậc Sư trưởng là muốn giáo dục toàn diện – là sự giáo dục con người thành bậc Thánh, thành người mô phạm chân thân, là người đi trong cuộc đời mà không vấy nhiễm thanh sắc, Ôn đã hiện bày cuộc đời Ôn qua hai phạm trù giáo hóa: thân giáo và khẩu giáo, mọi người sống nơi Sơn Môn xứ Huế đều biết rõ nếp sống đạo hạnh của Ôn.

Trong đời sống hằng ngày của Ôn nơi tự viện là một bài học làm “Thầy tu” đầy lòng từ bi, trí tuệ, đầy sự hoành tráng uy nghiêm với tứ chúng, đầy sự nhiếp phục và tùng phục của chúng Tăng pháp lữ, mà qua lời dạy của Hòa Thượng Phước Huệ để trả lời cho đức Từ Cung khi được hỏi:

- Sau khi Hòa Thượng – Tổ Phước Huệ, về rồi, chúng con muốn học giáo lý, kinh điển thì biết làm sao?

Hòa Thượng Phước Huệ trả lời:

- Sau này quý vị nào muốn học thêm kinh điển thì nên theo học với chú Hiển (tức Hòa Thượng Mật Hiển bây giờ). Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế. Trang 166, xuất bản 1993 – Tín Nghĩa

Bấy nhiêu lời của Tổ Phước Huệ, chúng ta thấy được đầy đủ những gì cần có nơi Ôn. Từ tánh đức trang nghiêm, từ tướng thể tự tại, từ tâm ý thuần hòa, từ trí tuệ mẫn tiệp để dung nạp, hoằng truyền giáo pháp tiếp dẫn hậu lai. Từ những đức tánh ấy mà Tổ Giác Tiên đã thấy được một vị Tổ đức hóa thân vào đời kham nhẫn để phổ độ quần sanh, quyền bày phương tiện lập hạnh tùy duyên: Nội bí Thanh Văn, ngoại hiện Bồ Tát, mà Tổ đã truyền kệ phú pháp:

“Tâm Hương pháp giới huân,

Xứ xứ kiết tường vân

Phú nhữ Tâm Hương tánh

Cừ kim chánh thị quân”

Để thấy được rằng, hương thơm của tâm đã xông ướp khắp pháp giới, mà hương thơm của tâm, của người có đức hạnh chính là hương thơm của giới đức, vì Phật dạy: “Trong tất cả các loại hương thơm của hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, hoa Mạt Lị, hay hương thơm của các loại hương chiên đàn, trầm thủy, không có một loại hương thơm nào có thể bay ngược gió, chỉ có loại hương thơm của người giới đức mới bay ngược gió tỏa ngát mười phương.”

Bằng giá trị này, Tổ đã mật ý nơi Ôn tánh giới trang nghiêm, thanh tịnh thấm nhuần cùng khắp kết thành những đóa tường vân mầu nhiệm, thanh thoát bao trùm, hàm dụng, nuôi dưỡng tánh đức Tâm Hương - pháp danh của Ôn - trong ngôi nhà Phật pháp và được tôn xưng là bậc Tướng quân trong hàng Chúng Trung Tôn.

Sư Bà Diệu Không, vì cảm phục hạnh nguyệnquy ngưỡng tánh đức nhiếp dẫn chúng Tăng, làu thông kinh luật của Ôn đã đề thơ ca tụng:

“Hòa Thượng kim triêu ngoại thất tuần,

Hoa niên xuất tục thậm gian truân

Trực tâm nhất niệm kinh thường diễn

Phật tánh viên dung luận quán quân...”

(sđd)

Đất thần kinh xứ Huế, ai trong chúng ta đều biết, dù người chưa từng đặt chân lên xứ Huế, là nơi có nhiều thắng duyên hội ngộ, là miền thánh địa của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Miền thánh địa này đã viết nên trang sử bi hùng của Phật giáo qua thời pháp nạn, và hình ảnh quý Ôn là sức sống miên trường, bất tận trong mọi tâm thức của nhiều thế hệ Phật tử, và đã góp một phần nhân duyên từ đây, Phật giáo Việt Nam đã dựng lên ngôi nhà Phật giáo Thống Nhất, mà hình ảnh Đức đệ Nhất Tăng Thống Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân. Đức đệ Nhị Tăng Thống Hòa Thượng Thích Giác Nhiên chùa Thiền Tôn. Đức đệ Tam Tăng Thống Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, chùa Thiên Mụ, đã trải dài một chặng đường lịch sử Phật giáo uy hùng, đã băng qua và vượt trên mọi nguy nan thời đại để tự sống còn mà hộ quốc an dân, xiển dương Phật pháp, góp phần thêm bề dày cho dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua.

Nếu bảo rằng các bậc kỳ túc Hòa Thượng Trí Quang, Hòa Thượng Thiện Minh... là những vị đối ngoại, góp mặt với thời cuộc thì Ôn Mật Hiển là người đối nội giữ vững rường cột Tăng già, là xương sống ngôi nhà Phật giáo Huế. Hình tướng Ôn, tâm lượng Ôn là sức sống miên mật, bền bỉ như một năng lượng dạt dào làm tươi mát hàng Tăng đoàn qua nhiều thập niên ấy. Chính vì năng lượng sống đã kết thành tường vân, đã quyện thành hương từ, đã giữ ngôi Tướng quân, đã tác thành chúng đức mà khi Ôn viên tịch, từ Tăng Ni cho đến Phật tử tại gia ai cũng nức lòng thương tiếc để cảm thán nên lời thơ công đức:

Hương Từ Rừng Trúc

Đầu đà giới hạnh nghiêm thông,

Đạo phong cao ngất, trăng rằm trời thu

Viên dung phước huệ song tu

Ngàn năm còn hưởng Hương từ Trúc Lâm”

(sđd)

Làn hương của lòng từ mẫn, của lòng thương tưởng, bao dung độ lượng vẫn còn phảng phất trên từng chiếc lá, nụ hoa, trên từng lối mòn quanh chùa rêu phong phủ kín, trên từng dấu ấn thời gian tự thủa sinh tiền.

Suốt một đời hiện thân hóa độ, công hạnh Ôn tương tác tương chỉ như pháp hiệu của Ôn – Mật Hiển – khi phương tiện hiện bày thị oai trấn nhiếp thì Ôn Hiển lộ khí thế xung thiênáp đảo tà ma quỷ mị, còn khi sách tấn dưỡng tâm tu đức thì Ôn Mật cảm khuyên răn, từ tâm thương xót, tiếp độ người khế lý, khế cơ. Có khi, Ôn như Tiêu Diện Thiên Vương, Hộ Pháp Già Lam, nhưng lắm lúc Ôn dịu hiền như Mẹ Quan Âm bơi thuyền từ đưa người qua bể khổ. Hiển Mật viên dung, lý sự vô ngại mà Ôn thong dong tự tại giữa bờ mê bến mộng bất phân sai thù. Chúng ta nghe Hòa Thượng Thiện Siêu nói về Ôn:

“Làm sao chúng tôi quên được những tháng ngày đồng lao cộng khổ, chung lo Phật sự, đạo phong của Hòa Thượng thì trác việt, nếp sống bình dị, nói năng khẳng quyết hùng hồn: “Đã là Thầy tu thì đừng sợ chết, nếu sợ chết thì đừng làm Thầy tu.” (sđd)

Từ đó, chúng ta hiểu Ôn đã liễu tri sinh tử như mộng, vô thường như huyễn, có không như bọt bể đầu ghềnh, thì có gì phải sợ. Sự sinh, sự tử nơi Ôn như là hiện thân hóa độ chúng sinh, khi công viên quả mãn thì an nhiên tự tại ra đi, để tiếp tục con đường độ sinh vô tận. Đó là Mật Hạnh của bậc Đại sỹ, là Hiển Thông của chư Thánh xuất trần.

Hơn ai hết, là những người đệ tử thân cận, thấy rõ hạnh nguyện của Ôn, mà cảm thán nên câu đối:

“Mật tại ý trung, thiền đăng tục diệm ư chánh nhơn, tác tòng lâm chi mô phạm

Hiển ư tướng ngoại, tổ ấn cao quang ư thục quả, vi tứ chúng chi chiêm y”

Hay:

“Mật hạnh dụng thần lợi nhơn lợi vật ly trước tướng

Hiển công viên tựu đương quán đương chỉ ứng Thiền cơ”

(sđd)

Tạm dịch:

- Mật ở nơi trong ý, làm chánh nhân tiếp nối ngọn thiền đăng, là khuôn mẫu nơi chốn tòng lâm phạm vũ.

Hiển là tướng bên ngoài, tựu thành kết quả tổ ấn sáng soi, làm nơi nương tựa cho hàng môn đồ cùng tu.

- Mật tàng công hạnh, làm lợi ích khắp cả quần sanhkhông chấp tướng.

Hiển lộ công phu, tu quán tu chỉ để phù hợp mọi căn cơ Thiền.

Đây là đôi dòng tưởng niệm của chúng con, hàng hậu học kính thành đảnh lễ Giác Linh Ôn thùy từ chứng giám và thầm gia hộ cho quê hương Ôn, quê hương của mọi người con Phật được thái hòa, thịnh trị, được tự do hạnh phúc mọi nhà, để hộ pháp các Sơn môn Tự viện, các Tổ đình Tòng Lâm Phật giáo Việt Nam mãi bền vững, giữa đất trời thiên thu vĩnh tận.

Kính thành đảnh lễ Giác Linh Ôn như lời cầu nguyện, Đạo pháp được xương minh, chúng môn đồ tinh chuyên tu học để giữ tròn tâm ý rỗng không mà chẳng dính mắc đôi bờ nhơn ngã, như lời kinh sám hối đêm qua.

“Xử thế giới như hư không

Dụ liên hoa bất trước thủy

Tâm thanh tịnh siêu ư bỉ

Khể thủ lễ Vô Thượng Tôn”

Hồi chuông công phu sáng của Tổ đình Trúc Lâm, Huế, mãi vang vọng như lời kinh siêu độ cứu vớt loài trầm luân.

Chùa Phật Đà, ngày 12 tháng 02 năm 2007

Thích Nguyên Siêu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 153)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 156)
Bất cứ chuyến đi nào cũng giữ lại trong tôi nhiều kỷ niệm.
(Xem: 196)
Bệnh tật và thống khổ không thể tách rời nhau, cho nên gọi là “Bệnh thống” [病痛], “Bệnh khổ” [病苦], “Tật khổ” [疾苦].
(Xem: 257)
Sống ở đời ai cũng mong muốn gia đạo bình an, sự nghiệp ổn định và phát triển.
(Xem: 462)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 357)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 326)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 302)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 363)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 400)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 572)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 397)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 399)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 486)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 431)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 421)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 461)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 446)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 546)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 357)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 312)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 365)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 369)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 458)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 524)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 522)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 550)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 546)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 540)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 831)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 755)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 1034)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 614)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 842)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 667)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 680)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 537)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 665)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 613)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 820)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 581)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 982)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 737)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 733)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1185)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 831)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 705)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1102)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 658)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant