Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con chưa thể làm người xuất gia

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 19005)
Con chưa thể làm người xuất gia

Tôi gặp em vào một buổi chiều tình cờ tại ngôi chùa nhỏ trên sườn đồi thoai thoải thuộc thị xã Bảo Lộc, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Đó cũng là ngày tôi đến thăm một người sư huynhchúng tôi cách xa dường như đã mười năm hơn.

Câu chuyện của tôi hôm nay không phải là tâm sự về cuộc tao ngộ giữa hai chúng tôi mà là nói về em, một người xa lạ mà lần đầu tiên gặp em, trong tôi có chút gì đó thật hiếu kỳ muốn tìm hiểu, phải chăng đó cũng là cơ duyên giữa em và tôi đã từng gặp nhau trong vô lượng kiếp.


Cuộc tao ngộ

Chuyến xe bắt đầu rời khỏi đô thị nhộn nhịp hướng về vùng cao nguyên bạc ngàn đồi núi, và điểm đến của tôi cũng không phải là quá xa, nhưng đã nhiều năm chúng tôi không gặp, trong lòng có chút gì nôn nao, mong ngóng và tâm trạng chờ đợi bồi hồi… Xe đến thị xã Bảo Lộc cũng là lúc hoàng hôn khuất dạng, le lói đâu đó vài ngọn đèn điện lờ mờ của những người canh trông nương rẫy, sự trông ngóng gặp nhau đã làm cho tôi quên đi cái sợ hãi của núi rừng, mặt dù từ địa phận Bảo Lâm tôi còn phải đi xe honda ôm đến 30 cây số mới đến ngôi chùa mà tôi định đến. Thế nhưng, khi đến nơi thì vị Trú trì đã có Phật sự phải đi xa, người tiếp tôi là một em nam cư sĩ khoảng trên 20 tuổi, đang ở làm công quả tại chùa.

Để không khí đỡ cô quạnh tôi bắt chuyện với em và hỏi vì sao em lại chọn nơi này làm công quả? tuổi còn trẻ sao em không đến những nơi có điều kiện, có trường Phật học để tập sự và có điều kiện học Phật? Em chỉ cười và trả lời, nhân duyên mà cô! Tôi cũng cười và dường như đồng tình với quan điểm của em.

Lúc em pha trà mời tôi dùng, tôi thật ngạc nhiên vì đôi chân em luôn mang một sợi dây xích rất to và nặng, tôi đoán sợi dây xích ấy có lẽ cũng khoảng năm kg, thế nhưng em vẫn tự nhiên cười nói, đi lại và làm việc như: pha trà, dọn cơm, rửa bát, quét chánh điện, thắp hương, tụng kinh, đóng chuông, làm vườn, hái trà, chăm bón hoa… với đôi chân mang vòng xích.

Thật hiếu kỳ, nhưng lại là người khách lần đầu đến, tôi chỉ quan sát mà không nói điều gì, nhưng trong lòng lại trỗi dậy bao điều thắc mắc, sao em lại phải đeo sợi dây xích nặng đến thế mà làm việc? Tôi đi đi lại lại, quan sát cảnh vật xung quanhđâu đâu cũng núi là núi, dưới triền núi là những rừng chè bạc ngàn là chè, khung cảnh một màu xanh biết thật đẹp mà chỉ có ở những nơi cách xa đô thị uyên náo tôi mới có dịp được tận hưởng không gian yên bình tĩnh lặng như thế này.

Đến 10 giờ tối, vị Trú trì mới về tới chùa. Chúng tôi đã hàn huyên về những gì đã xảy ra trong bao nhiêu năm chúng tôi không gặp, nào là việc tu tập, học hành, sức khỏe, quê hương, xứ sở và những lựa chọn cho tương lai… Sau cùng, tôi hỏi vị Trú trì. Em trai tập sự ở đây sao lại phải mang sợi xích nặng đến thế? Lại đến lượt Trú trì cười mà bảo: “Đó là ý muốn của em, là hạnh nguyện của em, tôi đâu biết được”.

Tôi dùng cái suy nghĩ hiện đại của mình nói một mạch như không hài lòng. “Muốn tu là tu, không muốn tu là không tu, đâu cần phải dùng dây xích tự buộc chân mình cho khổ nhọc như vậy? thời đại này là thời đại nào rồi? đâu còn cái chí nguyện vì mong cầu Phật pháphành hạ mình theo cái cảnh “khổ hạnh” của một số ngoại đạo thời Phật tại thế! hơn nữa tu tập là ở ý chí, là ở tinh thần tự nguyện mà không nên dùng những hình thức khổ nhục, câu thúc thân thể như thế, làm thế vô hình chung ảnh hưởng đến thân sanh lý, cơ thể sẽ đâu đớn, vả lại người khác đạo không hiểu sẽ cho rằng trụ trì lại bắt ép đệ tử phải khổ nhọc như vậy, cách thức này liệu có còn phù hợp với cái xã hội hiện đại này không? mọi người lại cho rằng chắc là hình phạt của nhà chùa cũng có thể… tôi thao thao bất tuyệt nói lên quan điểm của mình. Nói xong, vị Trú trì lại cười bảo rằng: “Cô thật là không hiểu nghĩa tùy duyên của nhà Phật!” Thầy lại nói tiếp, thật lòng tôi cũng đã bảo em nhiều lần là không cần phải tự buộc mình như vậy, người tu cũng là con người, cũng là da thịt, là máu xương, là nước mắt, là bụng đói, là cơ thể cảm nhận nóng lạnh… cũng như bao con người khác trong cuộc đời, nhưng sao gọi là người tu? Là vì chúng ta bắt đầu từ bỏ dần những điều có thể bỏ, bắt đầu tập giảm dần những ham muốn thuộc về thân vật lý và tâm sinh lý, mỗi ngày chúng ta tự nhắc mình, tự gọt giũa mình, tự phản tỉnh mình… quán sát hành vi, cử chỉ, ngôn từý niệm của mình đó là hành trình của người tu. Tôi không nói gì cao cả hơn, vì em mới bước vào cửa Đạo, nếu như chúng ta nói ngay giáo lý liễu nghĩa thượng thừa e rằng em cảm thấy mình không làm được lại thối chí. Do vậy tôi tùy thuận theo em là tùy thuận theo duyên!

Điều đặc biệt của em đã cho tôi hiểu điều gì?

Tôi bắt đầu làm quen và hỏi em về gia cảnh, sự học vấn, quê quán? Tôi hoàn toàn không thể bị cảm quan đánh lừa được, tôi có cảm giác em khó mà tu tập được, vì với cái tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống của một cậu thanh niên, gương mặt thanh tú, sóng mũi cao khép kín, mái tóc rất nghệ sĩ và đặc biệt là tài đánh đàn của em quá điêu luyện. Không những thế, tiếp xúc với em tôi hiểu được em đã từng kinh qua “tứ đổ tường”. Trong nụ cười của em đã hàm chứa một sự từng trải mà với cảm nhận của giác quan tôi thì có lẽ em đã từng bước vào sóng gió của cuộc đời quá nhiều. Tuy tuổi đời chưa đủ gọi là từng trải, nhưng nét mặt và cách cư xử của em đã cho tôi hiểu điều đó… Tôi hỏi ra mới biết em xuất thân trong một gia đình thượng lưu, gia đình toàn là những “con Chiên ngoan đạo”. Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, sao gia đình đều theo đạo Thiên Chúa mà em lại muốn làm người xuất gia? Lúc này, trong ánh mắt em có chút gì đó muốn bày tỏ, nhưng lại dè dặt liệu có cần thiết nói với tôi trong lúc này không? Tôi cười và nói rằng: “thấy cậu em có những điều mà tôi rất tâm đắc, hơn nữa gia cảnh cũng là giới thượng lưu, lại là ba đời theo Chúa, nếu như em bỏ nhà mà theo Phật, liệu gia đình em có bị ghép vào tội phản Chúa không? tôi cũng không rõ lắm những quy luật của đạo Thiên Chúa…. Cảm nhận ở nơi tôi dường như có chút gì đó đáng tin cậy và có sự cảm thông nên em bắt đầu kể về mình, về việc tại sao em tìm đến ngôi chùa này, và vì đâu mà em chọn ở với vị trú trì này.

Nhân duyên đưa em đến ngôi chùa hẻo lánh này

Vào một ngày của tháng 10 năm 2004 mà em không nhớ rõ lắm, trên đường từ Đà Lạt về huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, đến địa phận Dakchor của thị xã Bảo Lộc, em điều khiển chiếc xe máy với tốc độ khá nhanh trong cơn mưa như trút nước, đèn đường không đủ sáng, em đã tông phải một vị Sư chạy chiếc xe Bimson cũ kỹ và khiến vị Sư ấy ngã nhào xuống mương. Lúc ấy trong em có ý định tẩu thoát, vì không có ai phát hiện, nhưng dường như lương tâm con người không cho phép em làm thế, em đỡ người bị nạn dậy và hỏi thăm. Không ngờ người bị nạn chỉ nói một câu: “Không sao, may là có Phật đỡ”. Nghe thế, em không hiểu vì sao trong lòng lại xúc động vô cùng và hỏi Thầy ở chùa nào? Thầy chỉ nói ở xa lắm, chùa không có tên, vì có cái am nho nhỏ, nên không đề tên. Sau đó hai người phần ai nấy đi.

Em nói, về nhà tôi cứ mãi nghĩ đến thái độ của vị sư ấy, nghĩ đến câu nói không sao “nhờ có Phật đỡ”, một tháng sau tôi tìm đến chùa nhưng Thầy hoàn toàn không nhớ tôi là ai, tôi đến như người đi viếng chùa lễ Phật. Sau nhiều lần đến chùa tôi cảm mến Thầy và xin được ở với Thầy học làm vườn, trồng lan, hái chè, chưa có ý niệm trở thành người xuất gia tu tập.

Nếu như chúng ta có duyên thì sẽ gặp nhau…

Nói đến đây, bỗng nhiên em có vẻ khựng lại, và không nói tiếp nữa, cũng là lúc Sư Phụ gọi vào nấu cơm. Thấm thoát đã được sáu tháng kể từ khi đến ở với Thầy, không hiểu sao tại cái chùa heo hút ít ai biết đến vậy mà em cũng bị gia đình phát hiện và làm khó dễ với Thầy, em thấy mình thật sự chỉ mang đến cho Thầy thêm phiền phức. Thầy cũng đã từng khuyên em hãy về với cha mẹ, khi nào cha mẹ đồng ý mới được làm người xuất gia, thế nhưng em biết gia đình của em nhất định không thể nào để em trở thành người xuất gia vì do nhiều yếu tố mà người ta thường nói: “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh.” Thầy thương mà bảo thế nhưng gia đình em theo đạo Thiên Chúa nhất định không thể phản Chúa! Nhiều lần trốn tránh gia đình, nhưng rồi “tất cả đều do duyên”. Thầy Trú trì không buộc em xuất gia, vẫn cho phép em ở chùa cho đến khi nào cơ duyên hội đủ, em có thể làm được điều mình muốn thì lúc ấy em sẽ tự nguyện. Phật dạy: “Tất cả đều tùy thuận theo nhân duyên.” Ròng rã ba năm sống với Sư phụ, tình thầy trò cũng đã như cha con, không còn sự nghi ngờ dù bất cứ điều gì trong ngôi chùa nhỏ ấy.

Rồi một hôm, Thầy cũng chủ động gọi em đến và bảo: “Nếu con muốn suốt đời ở với Thầy thì ngày mai Thầy sẽ xuất gia cho con, bằng không con phải về lập gia đình lo báo hiếu cha mẹ, không thể cứ như thế này được”. 

Suốt đêm em suy nghĩ, đi đi lại lại trong khuôn viên chùa yên tĩnh, mỗi bước chân tuy rất nhẹ của em cũng đủ để Thầy hiểu, em hãy còn băn khoăn và còn nhiều mâu thuân trong lòng chưa thể nào làm được cái điều mà một khi đã làm là chúng ta vĩnh viễn không thấy hối tiếc. Đến 4 giờ sáng, giờ đóng chuông công phu, như mọi hôm, em tự thức dậy đóng chuông, tụng kinh. Nhưng hôm nay, giờ này chánh điện vẫn im lìm, Thầy nghĩ rằng có lẽ đêm qua em đã thức quá khuya nên ngủ quên, Thầy hiểu và không đánh thức em. Đến khi thầy gọi em dậy dùng cơm sáng vẫn không nghe tiếng trả lời, bước vào liêu phòng, Thầy nhận được bức thư em để lại, nội dung là sự tạ từsám hối Thầy đã khoang dung, nuôi dạy em ngần ấy thời gian.

Lời tạ từsám hối

“Sư Phụ kính! Con thật lòng bày tỏ những điều mà có lẽ hôm nay con chỉ có thể mượn giấy bút thay lời tạ lỗi với Thầy trước khi con giã từ Thầy mà ra đi, tương lai con thế nào con cũng chưa quyết được, trước mắt con có lẽ cũng chỉ là phương trời nào đó còn mờ mịt, xa thẳm… nhưng con thật tâm thưa với Sư Phụ: “Con chưa thể làm được người xuất gia!” Con những tưởng làm người xuất gia là điều dễ làm, nhưng ngần ấy thời gian sống trong sự xả bỏ, tự nguyện xả bỏ, sự tự nguyện xả bỏ của một người xuất gia, quả là điều quá khó để con có thể làm được. Đã nhiều lần con những tưởng như đã làm được, thế mà khi Sư phụ bảo đến ngày phải xuất gia cho con, con lại thấy lo sợ là con chắc sẽ không làm được! Đối diện với Thầy, vị ân sư của con, con lại không thể nói được bằng lời… cái tình Thầy trò, cái duyên Phật pháp có lẽ chưa thật sự bén rễ trong căn trí con. Con sẽ nguyện khi nào căn lành thuần thục, còn lại tìm về ngôi nhà Phật pháp, và lúc ấy, con cũng không cần phải mang cái còng xích nặng nề, đâu đớn như trước! Chỉ có con mới thật sự hiểu lòng con đang nghĩ gì. Triết gia Socrater có câu: “Hiểu người khác không bằng tự hiểu lấy chính mình, hiểu được chính mình mới có thể hiểu được người khác”. Con không thể dối lòng mình, dối Thầy, dối Tam Bảo khi con hoàn toàn chưa hiểu được tâm ý con, con không thể thân đã khoát chiếc cà sa mà tâm chưa hoàn toàn thoát tục được. Con vẫn biết nếu làm đúng nghĩa một người xuất gia thì phước đức vô lượng.

Trong Đại Trí Độ luận có câu:

“Khổng tước duy hữu sắc nghiêm thân, bất như Hồng Nhạn năng viễn phi.
Bạch Y tùy hữu phú quý lực, bất như xuất gia công đức thắng.”

(Chim Khổng tước mặc dù có nhan sắc đẹp, cũng không bằng chim Nhạn có năng lực bay cao xa. Cư sĩ tuy giàu có quyền lực, cũng không bằng công đức của người xuất gia).
Đêm cũng đã tàn, con sợ động tịnh đến Sư Phụ, và con sẽ ra đi… Chúc Sư Phụ sức khỏe, hy vọng Thầy luôn là bóng cây che mát cho chúng sanh trong những lúc tinh thần lao nhọc. Thầy sẽ mãi mãi là vị Thầy lần đầu con gặp trong cái đêm mưa to giá rét năm nào…

Đạo Phậttùy thuận chúng sanh.

Đã ngần ấy thời gian, nhưng phong thái và sự thành thật tạ lỗi của em đã cho tôi hiểu rằng: sự vấp ngã nào cũng là cái nấc thang để chúng ta có thêm kinh nghiệm, sự sai lầm nào cũng có thể cho chúng ta bài học kinh nghiệmgiá trị. Tôi biết em đã từng khiến gia đình thất vọng, do vậy giờ em muốn thật sự cải thiện, thật sự muốn trở thành người hữu ích, thế nhưng vấn đề không thể một sớm một chiều mà có thể làm được. Điều cần nhất là chúng tathành thật để sửa sai hay không! Sự thành thật là điều cần thiết nhất giữa con người với con người, chúng ta có thể lừa dối người khác nhưng không thể lừa dối lương tâm mình. Em đã nói lên được điều em mong ước “xuất gia là hoàn toàn thân tâm đều xuất gia.” Cái điều những tưởng như rất dễ làm nhưng quan sát thực trạng hiện tại thì điều ấy quả thật còn nhiều người chưa làm được.

Qua câu chuyện giữa tôi và em, tôi muốn mọi người hiểu rằng: Đạo Phật mặc dù là đạo từ bi, là tùy duyênhóa độ, thế nhưng chư vị Trú trì của chúng ta cũng đừng vì quá từ bi mà tùy tiện độ người, cũng không vì để có người thừa tự y bát mà tùy tiện độ người, để cho bạch y, cư sĩ nhìn nhận đạo Phậtđạo từ bi mà thiếu đi trí huệ. Ngôi nhà Phật pháptrường tồn hay không là ở mỗi hành vithái độ của mỗi người xuất gia chúng ta, “xuất gia là thân tâm đều xuất thế tục gia”. Hãy vì lợi ích chung cho ngôi nhà Phật pháp thật sự trường tồn trên mặt “chất” mà không cần phát tiển trên mặt “lượng”. “Chất” thật sự phát triển mới có thể đem lại hưng thịnh cho ngôi nhà Phật pháp.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 78


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 763)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 731)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 746)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 744)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 633)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 830)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1213)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1383)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1102)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1446)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 912)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 813)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 917)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 934)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 898)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 926)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1061)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 884)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1030)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1036)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 956)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 969)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 890)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1060)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1004)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 928)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1040)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 964)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 895)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 999)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 934)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1189)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 964)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1045)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1216)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1651)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1210)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1289)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1155)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1009)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 972)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1000)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 852)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1533)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1399)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1375)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1316)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1409)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1364)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1510)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant