Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật trong nghệ thuật lịch sử tạo hình

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14257)
Đức Phật trong nghệ thuật lịch sử tạo hình

Ngày nay, người tin Phật, tu theo Phật được tiếp xúc với tranh tượng ảnh Phật gần như hàng ngày. Hình tượng Phật hầu như có mặt khắp nơi, có khi treo dưới kính chiếu hậu xe hơi, có khi trang nghiêm ngự trên tòa sen trong chánh điện của một đại già lam.

 


Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ; không những xuất hiện ở những nơi tín ngưỡng cầu cúng nhang đèn mà thậm chí còn xuất hiện ở những nơi công cộng như khách sạn, nhà hàng... Nhìn lại ngọn nguồn lịch sử, chúng ta thấy rằng để tiến đến mức độ phát triển như vậy, nghệ thuật tạo hình Phật giáo đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau với những cống hiến âm thầm của thế hệ tiền nhân.

Từ xưa, hình tượng Đức Phật đã là chủ đề trung tâm của nghệ thuật tạo hình Phật giáo, người Phật tử luôn cần có hình ảnh Ngài để chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường; và, ý nghĩa hơn cả là noi gương tu tập hay làm đối tượng để thiền định quán chiếu. Hồi sinh tiền, Đức Phật thường vân du hóa đạoPhật tử tịnh xá Kỳ Viên cảm thấy ưu phiền vì không được viếng thăm, diện kiến. Biết được vậy, Đức Phật dạy rằng cây bồ đề là biểu tướng của Phật, khi Phật vắng mặt hãy viếng thăm, chiêm bái, đảnh lễ cây bồ đề. Công đức, phước báo mà người ấy tạo được sẽ như là viếng thăm và đảnh lễ Phật. Kinh điển còn ghi lại rằng trong thời gian Đức Phật lên cung trời Đao-lợi thuyết pháp, “Điên cuồng vì sự vắng mặt của Ngài, đức vua Udayana đặt làm một bức tượng từ gỗ đàn hương, mà ông tặng cho Đức Phật khi Ngài trở về”(1). Nếu còn thì đó là pho tượng Phật đầu tiên trong lịch sử tạo hình Phật giáo, tuy vậy, khi về lại trần gian, Đức Phật không chấp nhận nó.

blank

Đến lúc Đức Phật Niết-bàn, nhục thân của Ngài vĩnh viễn không còn ở trần gian nữa thì nhu cầu có hình tượng Phật càng trở nên bức xúc. Kinh Niết bàn dù là bản Pàli, Tạng văn hay Hán văn đều ghi nhận việc dùng những lễ nghi và phương thức trà tì nhục thân Phật tương tự với ‘hậu sự’ của một vị Chuyển luân Thánh vương. Sau đó là việc xây tháp phụng thờ ở những ngã tư đường lớn để mọi người đều có thể dâng cúng hương hoa, cờ lọng, tràng phan, bảo cái, kể cả âm nhạc tán tụng.

Thời kỳ đầu, tháp thờ Phật trở thành trung tâm tín ngưỡng, là biểu tướng của bậc Đạo sư. Chiêm ngưỡng tháp Phật là để tưởng nhớ đến những hành trạng và những phẩm tính thù thắng của Phật; việc đó được xem như là có phước đức tương đương với việc chiêm ngưỡng chính bản thân Phật khi Ngài còn tại thế. Ở một số nơi, truyền thống đặc biệt này vẫn còn được gìn giữ, cụ thể là chùa Thông Độ danh tiếng ở Hàn Quốc với ngôi chánh điện không cốt tượng mà chỉ có Xá lợi Phật được tôn trí ở những ngôi tháp phía sau bàn hương án.

Người có tín tâm thời bấy giờ xác định rằng cúng dường lễ bái tháp Phật không phải chỉ vì trong tháp có chứa đựng Xá lợi mà còn vì tháp còn là biểu trưng cho quả vị Chánh đẳng Chánh giác, thậm chí xem tháp là Pháp thân Phật (Dharmakaya). Có thể vì vậy mà tháp Phật ở Bồ đề đạo tràng Ấn Độ còn được gọi là tháp Chánh giác. Mỗi tầng, mỗi bộ phận trong cấu trúc tháp tương ứng với mỗi tầng bậc, mỗi quả vị hay phẩm tính mà vị Bồ tát đạt được trên con đường dẫn đến Phật quả.

Rời khỏi những câu chuyện truyền thuyết, chúng ta có thể xác định rằng nghệ thuật tạo hình Phật giáolịch sử bắt đầu từ thời hậu A Dục với 3 di chỉ trọng yếu là Sanchi, Bharut và Amaravati. Để trang trí cho những ngôi tháp cổ kính và vĩ đại ở ba quần thể di tích trên, người Phật tử thời ấy nghĩ ngay đến hình tượng Phật và những ấn tượng mà Ngài đã để lại trong tâm hồn mình. Qua những bức phù điêu trên tháp cũng như cổng rào có độ tuổi trên hai ngàn năm, họ đã kể lại cho chúng ta nghe những câu chuyện hấp dẫn xa xưa. Điểm đặc biệt là trong những câu chuyện này, Đức Phật không xuất hiện với thân tướng con người, thay vào vị trí mà Ngài ngự là những vật biểu trưng. Vì vậy, khách chiêm bái khi thấy bàn chân có in hình bánh xe Pháp thuộc tướng quý của bậc đại nhân thì hãy mường tượng ra Đức Phật đản sinh đang đi từng bước trên đài sen, cất lên lời tuyên bố chấn động tam thiên: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Thấy cội bồ đề hay tòa Kim cang thì hãy mường tượng ra Đức Phật thiền định, đánh bại Ma vươngtrạng thái thanh lương tĩnh lặng với quả vị Vô thượng Bồ đề sau đêm thành đạo. Cũng vậy, hình bánh xe thay cho Đức Phật chuyển pháp luân, ngôi tháp thờ Xá lợi thay cho Đức Phật Niết bàn...

Những học giả cho đến nay cũng chưa có thể biết chắc tại sao Đức Phật không xuất hiện bằng hình dạng con người trên các phù điêu mà chỉ xuất hiện thông qua vật biểu trưng nhất là khi mọi người khác đều xuất hiện ‘bằng xương bằng thịt’, từ vua quan đến cung tần mỹ nữ, thậm chí những người bình thường trong đám rước. Khách hành hương thông thường có thể lấy làm lạ nhưng những tâm hồn tinh tế lại lấy làm thú vị. Chúng ta có thể nêu lên ba cách lý giải hiện tượng có mặt mọi người mà không có mặt Đức Phật như sau.

  1. Đức Phật trong hình vóc con ngườiĐức Phật đã bị giới hạn trong tấm thân xương thịt ít nhất là về mặt thể chất nên không còn phù hợp với những phẩm tính thù thắng, uy hùng, siêu vượt. Hơn nữa, dung sắc phi phàm của Phật khi đó sẽ bị lệ thuộc vào bàn tay khéo léo hay vụng về của những nghệ nhân điêu khắc. Tâm hồn của người Phật tử thuần thành có thể cảm thấy bị tổn thương khi Đức Phật “tuyệt đối” của mình lại ‘bị’ thể hiện bằng những nét đẹp tương đối và đôi khi rất là ‘trần gian’.

  2. Đức Phật trong hình tượng biểu trưng không làm thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu tín ngưỡng cúng bái thuộc mọi cấp độ nhưng lại rất phù hợp với pháp thiền quán. Tâm thức của hành giảvô tận vì vậyĐức Phật hiện ra cũng vô tận. Cụ thể, người ta khó có thể thực hiện được một tượng Phật to bằng núi Châu Thới nhưng một hành giả trong khi quán tưởng dễ dàng phóng chiếu ra một vị Phật to như vậy, thậm chí một vị Phật trùm khắp hư không mà vẫn đứng ngồi hay thuyết pháp sinh động.

  3. Truyền thuyết vua Udayana và bức tượng từ gỗ đàn hươngĐức Phật không chấp nhận đã có ảnh hưởng mạnh trong những thế kỷ đầu khiến cho những người Phật tử dù có khao khát chiêm ngưỡng Phật nhưng vẫn ngần ngại việc tạo hình đúc tượng Ngài theo hướng ‘mày ngang mũi dọc’.

Tình trạng ‘đạo Phật không có tượng Phật’ kéo dài cho đến thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch thì Đức Phật trong hình dạng con người mới bắt đầu xuất hiện. Tượng Phật từ đó nhanh chóng trở thành trọng tâm tín ngưỡng Phật giáo với hai trường phái tạo hình lớn là Mathura và Gandhara. Trường phái Mathura khắc họa hình dạng Đức Phật với những đường nét rất gần gũi với những vị thần thánh thuộc tín ngưỡng bản địa Ấn Độ, tròn trịa và sung túc. Trong khi đó với trường phái Gandhara, Đức Phật có những nét đẹp thanh tú của những vị thần Hy Lạp.

Khi đạo Phật lan xa tỏa rộng vượt qua những sa mạc và biển khơi, tiếp xúc với những nền văn minh mới, hình tượng Đức Phật theo đó mà tiếp biến và phát triển, rực rỡ và càng lúc càng phong phú cho đến ngày nay. Đức Phật đã trở nên muôn hình muôn vẻ, ngoài những quy ước căn bản đã mang thêm nhiều yếu tố văn hóa của nhiều địa phương khác nhau. Ngay trong một quốc độ, tùy theo sơn môn bộ pháitượng Phật cũng dị biệt, đặc biệtphương diện nhân tướng, diện tướng. Tượng Phật của Nhật có khuôn mặt hao hao giống người Nhật; tượng Phật của Tây Tạng có khuôn mặt hao hao giống người Tây Tạng; và dĩ nhiên tượng Phật Việt Nam thường giống với người Việt Nam.

Chuyện Phật tử được chiêm bái tượng Phật tưởng chừng dường như là chuyện đương nhiên. Nhưng sự thật, chuyện đương nhiên đó đã không xảy ra trong nhiều thế kỷ. Thế hệ Phật tử trong thời kỳ đầu không hề được chiêm bái Đức Phật trong dạng tranh tượng mãi cho đến thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Chúng ta thấy rằng dù chỉ có những hình ảnh biểu trưng như tháp Xá lợi, bánh xe Chánh pháp, Phật tử ngày xưa đã khéo léo vận dụng để làm phương tiện quán chiếu và noi gương tu tập.

Một cách cẩn trọng, chúng ta thấy rằng chiêm bái tranh tượng đã không phải là chuyện đương nhiên; và việc chiêm bái theo cách có ý nghĩa nhất chắc chắn cũng không phải đương nhiên mà ai cũng có được. Nhìn bằng đôi mắt lạc quan, chúng ta lại thấy trong cuộc sống hiện đại, người Phật tử tuy phải đối mặt với nhiều thực trạng và tai ách đặc trưng của thời đại, nhưng bù lại, được hưởng nụ cười thanh thoát an nhiên của bậc Đạo sư qua hình ảnh tranh tượng càng ngày càng phong phú, và gần như mọi lúc mọi nơi.

(1) Robert E. Fisher, Mỹ thuật Và Kiến trúc Phật giáo (bản dịch của Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Tuấn), Nxb Mỹ Thuật, 2002, trang 20.



Thích Minh Thành Ph.D


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13890)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10673)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14806)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20728)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13559)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14262)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
(Xem: 12300)
Đã lâu rồi, gặp lại nhau, chúng mình đều già hết. Người bạn thân ở lúc nào đó, nay nhìn lại, cũng khó nhận ra. Mái tóc đã bạc, vầng trán có nhiêu gạch dài...
(Xem: 12809)
Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có...
(Xem: 14368)
Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.
(Xem: 14364)
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.
(Xem: 15686)
Mùa đông ở đây không có tuyết, nhưng cũng đủ lạnh cho những chiếc lá ngả màu và em tôi quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Tôi thích mùa đông...
(Xem: 13014)
Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 17418)
Má không biết đường sá thành phố, cũng chẳng mấy khi lên Sài Gòn, họa hoằn là đi khám bệnh hoặc lên thăm bà con. Mỗi khi lên thành phố, má thường rất lo lắng.
(Xem: 15733)
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này, chúng ta không chịu buông xảtham luyến tất cả những gì ‘của mình’; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời...
(Xem: 12490)
Kinh điển nhà Phật thường nói lòng từ bi của Phật và các vị bồ-tát đối với chúng sinh giống như lòng thương của cha mẹ đối với con cái.
(Xem: 12475)
Mới vừa đây, trên cành cây, có nhiều cánh hoa mai vàng nở, mắt mơ màng sau bao năm tháng ẩn nhẫn chờ đợi ngày khoe áo mới. Có những cành đào sum sê là hoa...
(Xem: 14030)
Cứ mỗi lần nhớ thầy, giấy mực là người bạn duy nhất để con trút ra vô vàn tiếng nói tự cõi lòng của một người đệ tử tận chốn phương xa. Mỗi tuần một lá...
(Xem: 16003)
Danh từ Generation Gap nghĩa là Khoảng Cách Thế Hệ (mỗi thế hệ cách nhau từ 20-40 năm để người trẻ tuổi lớn lên trở thành người lớn tuổi)...
(Xem: 13621)
Tôi gọi người cha là Anh, còn con trai ông là Dũng, vì hai cha con ông thật... anh dũng. Mỗi sáng, họ có mặt ở công viên rất sớm.
(Xem: 14965)
Sau những cái nóng nực gay gắt của mùa hạ đã đi qua, trời bắt đầu sang thu, thoáng đâu đây cơn gió đầu thu nhè nhẹ thổi sang như báo hiệu trong thiên hạ một điều gì đó.
(Xem: 14507)
Liệu hạnh phúc của con người có bị đám yêu tinh kia giấu mất? Câu trả lời tùy thuộc chính bản thân chúng ta trong quá trình tìm kiếm hạnh phúc cho mình...
(Xem: 13597)
Một thời Thế Tôn trú ở Kapilavatthu, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe...
(Xem: 13451)
Khi tôi viết những dòng chữ này thì tôi vẫn còn cách người mẹ già của tôi đến gần một ngàn cây số. Và những dòng chữ rất riêng tư này, tôi tin rằng...
(Xem: 11713)
Đúng vào hôm tôi vừa ở Phật Học Đường Báo Quốc về thì Vĩnh đến thăm. Anh đến mang cho tôi một chồng sách Phật viết bằng tiếng Pháp mà anh mới gởi mua ở tận xứ xa.
(Xem: 13841)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời,...
(Xem: 12978)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy,...
(Xem: 14933)
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp...
(Xem: 12587)
Cơn trốt tàn nhẫn quét ngang cánh đồng trống, ngang qua những căn nhà gỗ mong manh, xoáy mạnh và bốc lên cao những người, thú, đất đá và cây cối…, rồi vô tình thả xuống lại trên những đồng cỏ...
(Xem: 17418)
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm, người chủ định đem chúng gieo...
(Xem: 16434)
Như đã nói, nhiều bạn trẻ chọn những xâu chuỗi màu tối của Phật giáo, lẫn giữa những sắc màu sinh động khác, thoạt đầu chỉ vì muốn tạo cho mình một phong cách mới lạ...
(Xem: 14580)
Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là “biệt khu”. Những “biệt khu” này tạo thành những góc...
(Xem: 14840)
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
(Xem: 26804)
Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài...
(Xem: 14704)
Sau hai năm học con vẫn học giỏi với số phẩy trên 8,0, con cố gắng từng ngày vì niềm hy vọng của ba má, niềm tin của các em và của nhiều người gửi gắm.
(Xem: 13602)
Thượng Tọa Thích Quang Lạc ấn nút cho chiếc ghế bành Lazy boy giữ độ nghiêng vừa ý, đoạn ngã người lún sâu vô lớp nệm mousse dầy cộm,...
(Xem: 13816)
Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá cây.
(Xem: 13726)
Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật".
(Xem: 15010)
Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh!
(Xem: 15344)
Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn...
(Xem: 14044)
Biển sâu thẳm, biển mênh môngdiễm tuyệt, biển bao dung vô lượngbiến ảo vô biên... Vì thế biển cũng là Tâm.
(Xem: 14972)
Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn.
(Xem: 13794)
Có một vị bồ-tát rất tầm thường ở trong nhà của tôi, nhà của các bạn, nhà của mọi gia đình ở xứ này. Vị bồ-tát ấy cũng có mặt ở các văn phòng, hãng xưởng...
(Xem: 14704)
Cuộc sống không phải là một mẻ lưới của số phận. Cuộc sống chính là một mối giao hoà bất tận giữa mỗi cá thể đang tồn tại. Và trong mối giao hoà đó...
(Xem: 14685)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì cái không cũng vô tận...
(Xem: 16670)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 18247)
Bảo Lâm bước chậm lại... ý như để lắng nghe tiếng chim hót líu lo từ phía khu rừng trúc. Vài tia nắng nhẹ vừa xuất hiện phía hừng đông, bầu trời trong xanh văng vắt...
(Xem: 27161)
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông...
(Xem: 23738)
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt...
(Xem: 26471)
Nó đưa tay quệt đôi mắt mọng nước giọng đầy kiên quyết nói với cậu Út: - Nếu con thấy người đàn bà ấy xuất hiện ở nhà này lần nữa, con sẽ không tha đâu.
(Xem: 16754)
Mười năm vườn xưa xanh tốt Hai mươi năm nắng rọi lều tranh Mẹ tôi gọi tôi về Bên bến nước rửa chân
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant