Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dưới nắng, mưa và mù sương

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20437)
Dưới nắng, mưa và mù sương


Đoàn người nối nhau lên núi. Đường hẹp, gập ghềnh chênh vênh, phía trước là đỉnh núi cao 2850 mét, khi ẩn khi hiện.
Họ đi chậm rãi, đúng ra không phải chậm rãi mà bởi họ không thể đi nhanh hơn được. Hai nhà sư Tây Tạng, dáng người to lớn, đi trước dẫn đường, thỉnh thoảng dừng lại để chờ mọi người. Chỉ khi ngồi nghỉ họ mới nói chuyện, còn thì lặng lẽ đi, cái mệt đã khiến cho người ta trở nên ít lời.

 

Sương bay là là, càng lên cao nhiệt độ càng xuống thấp. Đoàn người phải luôn dừng lại nghỉ. Hai nhà sư nhìn mọi người, cười thân thiện. Một người hỏi sư thông qua một người biết tiếng Tây Tạng, “Sư có nhớ Tây Tạng không?”. Và sư trả lời, cũng thông qua phiên dịch, “Ba mẹ tôi đã qua đời. Tôi có ba anh em hiện đang sống bên đó. Thỉnh thoảng thấy nhớ quê hương, nhất là khi hay tin người Trung Quốc đàn áp xứ sở của mình.” Một người khác trong đoàn nghe buồn, thấy xốn xang. Số phận của những con người, của một nền văn hóa, của một dân tộc, đôi khi trở thành những quân bài trong tay các ông lớn.

Hai nhà sư trốn đến tỵ nạn ở đây đã hai mươi năm, sau khi bị Trung Quốc cầm tù một thời gian. Họ sống trong hai cái thất nhỏ dựng bên triền núi. Thất được ghép bằng đá, bên trong trát đất để cho gió khỏi lồng vào, thấp lè tè, vừa đủ làm nơi ngủ nghỉ và bái lạy. Suốt ngày im lìm, nửa khuất nửa hiện dưới những lùm cây. Sự tạm bợ của cõi đời được thể hiện sống động nơi đây.

Đoàn người dừng lại bên triền núi, phía dưới là vực sâu. Một người nói, “đứng trước biển hay trên núi cao thấy mình thật nhỏ bé.” Người thứ hai lập lại ý trên bằng một cách nói khác, “Thấy mình không là gì cả phải không?” Và người thứ ba nói, không phải để nhấn mạnh ý trên, mà nhằm “vặn vẹo” người thứ hai, “không phải suốt ngày ở trong phòng rồi xem mình là trung tâm của vũ trụ à!”. Người thứ ba có vẻ đã đời khi nói được câu ấy. Người thứ hai thấy hơi buồn một chút, muốn ăn miếng trả miếng nhưng rồi thôi, chẳng hơi đâu lại đi hơn thua những điều không đâu, khi mọi người đều đồng hành cùng chuyến đi, và khi cũng vừa nói xong câu, “thấy mình chẳng là gì cả”.

Một người trượt ngã. Mọi người dừng lại chờ. Nhà sư Tây Tạng mang giúp hành lý. Đồng hành không có nghĩa chỉ là đi với nhau mà còn phải nương tựa vào nhau, không phải chỉ tìm đến cái đích của chuyến đi mà còn chia sẻ với nhau trong chuyến đi. Vậy nên có lý gì khi đi cùng mà còn muốn lời lẽ nặng nhẹ với nhau.

Họ lên đến đỉnh núi. Trời đang nắng bỗng chốc sầm tối lại vì sương mù, cách nhau vài mét không còn nhìn thấy nhau nữa. Rồi mưa, lạnh và lại nắng. Thời tiết thay đổi liên tục, trong một thời gian ngắn đã có đủ bốn mùa. Sự thay đổi nhanh chóng đó khiến người ta thấy lạ lẫm, đôi khi thích thú, và đôi khi khiến người ta suy nghĩ sâu hơn về bản chất của cuộc đời.

Mặt trời thoát khỏi mây, hắt nắng lên bãi cỏ xanh rì. Mấy chú lừa thồ hàng lên núi, tranh thủ gặm cỏ trong thời gian chủ mình nghỉ ngơi. Phía bên kia là một ngọn núi cao hơn, có tuyết phủ. Cách nhau một ngọn núi mà bên này là bãi cỏ, còn bên kia là ngọn núi đá tuyết phủ. Nằm sát bên nhau nhưng rất khác nhau.

Một vài người chớp hình. Cái triền núi giá lạnh và thiếu sự sống bên kia dưới ánh nắng đã trở thành một bức tranh ngoạn mục. Có người thích ghi lại những tấm hình trước cái nền thiên nhiên lạnh lẽo đó, và rồi cảm thấy vô lý về sau. Một người lập lại câu nói “đứng ở đây thấy mình như là trung tâm của vũ trụ” với nụ cười đầy châm biếm. Hơn thua và gây hấn đôi khi là sở thích của một số người, dù ở đâu và trong hoàn cảnh nào.

Hai nhà sư Tây Tạng đi kiếm củi để nấu trà cho mọi người uống. Họ đi xuống vực núi, mong manh, chìm khuất trong màn sương khói. Đám quạ vỗ cánh soàn soạt, dáo dác bay, kêu inh ỏi. Hình như chúng vừa bàn bạc một việc gì đó và đang tranh cãi. Tiếng tranh cãi thường hay khó nghe! Một người tách khỏi đoàn, lang thang bên triền núi, cảm thấy dễ chịu khi ở một mình.
Đêm xuống. Kỳ lạ, khi nắng tắt mây mù cũng tan biến. Trăng thượng tuần hắt mớ ánh sáng non tơ lên rừng núi, sóng sánh. Ngọn núi tuyết bên kia lấp lánh như có dát bạc. Đỉnh khuất lấp trong màn trời, vực hun hút sâu. Đoàn du khách kéo nhau đi ngắm trăng, trò chuyện.

Lửa hắt hiu cháy, tỏa chút hơi ấm cho những lữ khách. Họ nói chuyện, nói đúng hơn là đang đặt câu hỏi với hai nhà sư Tây Tạng. Những câu hỏi liên quan đến phong tục tập quán của người Tây Tạng, cách thức tu tập, và cả việc họ trốn thoát đến đây. Hai nhà sư trả lời nhiệt tình, âm vị trầm trầm. Những lúc không ai hỏi gì, họ quan sát những người trong đoàn, thắc mắc khi có người im lặng không nói chuyện, không đặt câu hỏi, phân vân khi thấy có người không biết vì lý do gì cứ lại trầm tư. Họ là người dẫn đoàn. Họ muốn mọi người trong đoàn phải vui. Ban vui đã trở thành sứ vụ của họ, ít nhất là bên bếp lửa này.

Trăng đổi hướng. Sương xuống nhiều và hơi lạnh dày hơn. Những người đi dạo trở về. Đôi vợ chồng trẻ người Ấn, hai giáo sư người Mỹ, một cô sinh viên Israel, một sinh viên Thổ và một người Pháp cùng đến tham gia. Một nhóm người khác biệt sắc da, chủng tộc, văn hóatôn giáo đang quây quần bên bếp lửa nhỏ cháy hiu hắt. Đề tài trò chuyện thay đổi. Họ chuyển qua hát. Họ hát đủ thứ nhạc, vỗ tay tán thưởng và khen nhau hát hay. Những lời khen không biết được bao nhiêu phần trăm sự thật. Phép lịch sự nó buộc như thế! Hai nhà sư Tây Tạng trở nên im lặng, đề tài sinh hoạt đã bỏ rơi họ. Màu áo đỏ nhạt nhòa trong màn sương.

Lửa tắt. Trăng khuất. Màn đêm thăm thẳm. Mọi thứ chợt xóa nhòa tan biến trong bóng tối. Mình là gì, hạt cát trên bãi sông Hằng, chiếc lá trên đỉnh Triund, hay cái tôi ngự trị giữa bao la trời đất lúc này? Mọi người im lặng về nơi nghỉ ngơi. Tụm lại rồi tách ra. Sau sự rộn ràng, vui đùa, gào thét hay là gì đi nữa, cuối cùng lại một thân một mình trở về với riêng mình, gặm nhấm những hỉ nộ ái ố đã qua, dự định những bước tiếp đến. Rồi lại xáp vào, lại tách ra. Hạnh phúc, khổ đau. Và cuối cùng một mình đi về cái chết. Con người muôn đời vẫn là cá thể cô đơn.

Ngày lên. Nắng sóng sánh trên bãi cỏ xanh rì. Khung cảnh trở nên tươi mới lạ lùng. Đoàn người xuống núi. Bỗng chốc mây mù kéo đến, và mưa. Thời tiết biến đổi nhanh chóng. Người người nối nhau, rời rạc, tan biến trong mây mù và mưa. Mình là chiếc lá, hạt cát hay trung tâm vũ trụ? Thật ngớ ngẩn! Mây mù khỏa lấp lối đi.

■ Nguyên Hiệp

(TSPL.57)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2418)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2553)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3013)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2694)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2563)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2057)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2955)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant