Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21627)
Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử


Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử. Trong khi giảng pháp ở trước Tăng chúng, giọng nói của họ rất lớn, như thể làm cho sông Ngân hà ở trên trời cũng phải rơi xuống. Khi nghe họ giảng pháp như vậy, Câu-ca-lợi (Kokālika) vì không biết mình là một kẻ bất tài thiểu trí nên mong muốn được giảng pháp như họ. Thế rồi, Câu-ca-lợi đi vào giữa hội chúng Tỳ-kheo, nhưng dẫu có đi vào thì cũng không có ai chấp nhận cho thầy giảng kinh cả, vì thế thầy nói:

- Không ai yêu cầu tôi giảng kinh cả. Nếu có người yêu cầu, tôi sẽ làm việc đó.

Tăng chúng nghe thế thì nghĩ sẽ thử thầy. Họ nói:

- Thưa Pháp hữu Câu-ca-lợi, hôm nay thỉnh thầy giảng cho Tăng chúng một vài bài kinh.

Vị này đồng ý mà không biết sự ngây ngô của mình, và ngày hôm đó thầy đã giảng kinh cho Tăng chúng.

Đầu tiên thầy dùng hết số cháo nấu theo ý muốn, ăn một ít thức ăn và dùng một ít súp mà mình ưa thích. Sau đó vào lúc hoàng hôn, khi tiếng chuông báo hiệu thời giảng kinh được điểm và tất cả Tăng chúng tập họp lại, Câu-ca-lợi mặc hạ y có màu xanh như cây hoa chuông, đắp thượng y màu trắng bạch và đi vào hội chúng, đảnh lễ các Trưởng lão, bước lên pháp tòa đặt bên trong một Chánh pháp đường được trang sức bằng đá quý rất đẹp, tay cầm một cái quạt được trang trí tao nhã rồi ngồi xuống bắt đầu giảng kinh. Nhưng ngay khi đó, mồ hôi bắt đầu đổ ra khắp thân và thầy cảm thấy vô cùng bối rối. Thầy đọc được câu đầu tiên của bài kệ thứ nhất nhưng những câu tiếp theo thầy không thể nhớ được. Thế rồi trong trạng thái bấn loạn, thầy đứng dậy rời khỏi pháp tòa, đi băng qua hội chúngtrở về phòng riêng của mình. Một Tỳ-kheo khác, một người quảng học đã lên thay thầy giảng kinh. Từ hôm đó, tất cả các Tỳ-kheo đều biết Câu-ca-lợi là một người trống rỗng.

Một hôm, các Tỳ-kheo bắt đầu bàn luận việc đó trong Chánh pháp đường:

- Thưa các Pháp hữu, trước đây thật khó biết được Câu-ca-lợi là người thế nào. Giờ đây, thầy ấy vì muốn giảng kinh đã tự thể hiện sự trống rỗng của mình.

Đức Thế Tôn đi vào và hỏi họ đang cùng bàn luận điều gì. Họ bạch sự việc với Ngài. Ngài nói:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Nói như vậy xong, đức Thế Tôn kể cho các Tỳ-kheo câu chuyện Tiền thân dưới đây.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì xứ Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con sư tử, là vua của một đàn sư tử đông đúc. Bồ-tát sống cùng với đàn sư tử ở trong một cái hang Bạc, và gần đó, có một con chó sói sống trong một cái hang khác.

Một hôm, sau trận mưa rào, cả đàn sư tử tập trung lại trước cửa hang của sư tử vương, rồi rống lớn, đùa nhảy như thói quen mà loài sư tử thường làm. Khi chúng rống lên và nhảy nhót như vậy, con sói kia cũng bắt chước cất lên tiếng kêu của mình.

- Đây là tiếng con sói hú lên khi nghe chúng ta rống! Những con sư tử nói.

Rồi cảm thấy xấu hổ, chúng lặng im không rống nữa. Khi cả đàn sư tử im lặng như thế, sư tử con của Bồ-tát hỏi cha:

- Thưa cha, cả đàn sư tử này đang rống lên và đùa nhảy, đã vội im lặng vì quá hổ thẹn khi nghe tiếng con vật kia. Con vật gì mà bằng tiếng kêu của mình đã để lộ chân tướng như vậy?

Và nó đọc lên bài kệ:

Kẻ nào kêu lớn tiếng
Vang dội Đạt-đà-la?
Sao tất cả sư tử
Không rống lại, thưa cha?

Nghe con hỏi vậy, Sư tử vương đọc lên bài kệ khác:

Sói, kẻ cất tiếng kia
Là loại thú đáng khinh.
Sư tử ghét hèn hạ,
Nên ngồi giữ lặng thinh .

* * *
Sau khi kể xong câu chuyện, đức Thế Tôn nói thêm:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

- Vào kiếp đó, Câu-ca-lợi là chó sói, La-hầu-la (Rāhula) là sư tử con, còn ta chính là sư tử vương.

(Tiền thân Daddara, số 172, dịch từ bản tiếng Anh)

Lời bình:

Không ai dám cho rằng mình là một người thông thái biết đủ mọi thứ trên đời. Và cũng không ai dám cho rằng mình là một người tài năng có thể làm được mọi việc. Con người vốn hữu hạn, hữu hạn trong sinh mệnh cũng như trong tri thứctài năng.

Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời này vẫn có những người không hề nhận ra được điều đó. Họ chưa bao giờ biết mình là ai, chưa bao giờ thấy được sự hữu hạn trong tri thứctài năng của mình nên cứ lầm tưởng mình là người đầy đủ tài trí, biết đủ mọi thứ trên đời. Cái dốt của con người không hẳn ở chỗ họ biết ít mà ở chỗ họ không thấy rằng mình biết ít. Trong kinh Pháp cú đức Phật dạy: “Người ngu biết mình ngu, nhờ vậy thành có trí, người ngu tưởng mình trí, thật xứng gọi chí ngu.” Vì vậy, khiêm tốn, biết được khả năng thật có của mình là cách sống của một người khôn ngoan, hữu trí.

Trong cuộc sống, đời nào cũng có những kẻ kém tài nhưng lại tưởng mình đa năng, và mỗi khi nghĩ mình tài năng thì họ lại cố khẳng định cho người khác biết. Mỗi khi vô tài mà muốn khẳng định có tài thì việc làm đó trở thành một trò cười cho thiên hạ, nếu không muốn nói là làm cho người khác phải xấu hổ thay. Cả hai phần của câu chuyện Tiền thân trên đây cho ta thấy được điều đó.

Câu-ca-lợi là một người bất tài vô trí. Sự bất tài vô trí đó sẽ không trở thành trò cười cho người khác nếu thầy nhận ra được nó và không có cái “tham vọng” vượt quá sức mình là “thăng tòa giảng kinh”. Cái đáng trách là ở chỗ này chứ không phải ở chỗ thầy bất tài. Cũng như con sói kia, tiếng kêu của nó dầu khó nghe thì cũng không có ai trách cứ gì nếu nó biết an phận đừng bắt chước rống lên tiếng rống sư tử.

Nhưng dẫu sao ở đây, thầy Câu-ca-lợi vẫn còn đáng quý là khi gặp “sự cố” ở trên pháp tòa, thầy đã biết bước xuống để nhường chỗ cho người khác giảng kinh và lòng vô cùng hổ thẹn khi trở về phòng riêng. Chừng đó thôi thầy cũng đã hơn rất nhiều người vì cuối cùng thầy nhận ra được mình là ai. Còn trong cuộc sống thực tế, có những người không thể được như thầy. Có những kẻ bất tài vô trí nhưng cứ nghĩ rằng mình thực tài hữu trí, để rồi dương dương tự đắc, xem trời bằng vung. Thiên hạchê cười cũng không hề thấy, hoặc có thấy cũng bất chấp. Rồi mỗi khi họ có cơ may được “thăng tòa”, dù chẳng làm được gì khi ngồi trên tòa đó, vẫn cứ ngồi ì như thế, không thèm biết người ta có nghe mình, phục mình hay không. Những người như thế mới thật đáng thương làm sao!

Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra được bài học: hãy khiêm hạ và biết lường sức mình trước khi làm một công việc gì. ❑

Nguồn: Tập San Pháp Luân 13


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2221)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2346)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2663)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2435)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2537)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2536)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2194)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3047)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2648)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2988)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2591)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4088)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2606)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2629)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2686)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2743)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2597)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2938)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2709)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant