Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Em bé bán diêm

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10503)
Em bé bán diêm


Em bé bán diêm

Dịch giả: Đỗ Văn Phúc


Đêm nay là đêm giao thừa, trời lạnh như cắt, tuyết rơi không ngừng. Một cô gái nhỏ lang thang trên con đường trong đêm đen và giá buốt. Em đi chân đất và trên đầu chẳng có mũ nón. Khi em rời khỏi nhà, em cũng mang một đôi dép, nhưng chúng quá lớn so với chân em, đôi dép cũ mà mẹ em mang đã mòn nhẵn, và khi em phải chạy băng qua đường để tránh xe cộ, em đã đánh rơi chúng. Một chiếc dép thì mất hẳn, chiếc còn lại được một bé trai nhặt được và chiếm đoạt luôn. Cho nên em bé gái đáng thương đành để cho đôi chân trần trụi của mình bị tái đi vì cóng. Em mang theo một ít hộp diêm trong túi áo, và trên tay cầm một hộp: em là một em bé bán diêm.

Suốt ngày nay, chẳng có ai mua cho em lấy một xu. Em bé khốn khổ vừa đói, vừa lạnh. Hoa tuyết rơi bám đầy mái tóc vàng óng của em - mái tóc xinh đẹp uốn tự nhiên và bao quanh khuôn mặt bầu bĩnh - nhưng em chẳng hề quan tâm. Từ các khung cửa sổ, ánh đèn chiếu hắt ra, mùi thịt ngỗng nướng thơm phức thoang thoảng đâu đây. Đêm nay là giao thừa mà, em chẳng quên điều đó.

Em tìm đến một góc vắng giữa hai căn nhà, ngồi xuống dùng phần thân thể trên để ủ đôi chân trần. Em cảm thấy lạnh hơn bao giờ hết trong đời. Em chẳng dám về nhà, vì em không bán được hộp diêm nào, và cũng chẳng kiếm được đồng nào. Cha em sẽ đánh em. Vả lại, ở nhà thì cũng lạnh chẳng khác gì ngoài đường phố này. Căn nhà chỉ có một cái mái rách, và những ngọn gió lồng rít lên như thể sắp thổi tung cả cái khung tre lẫn đám tranh rách nát trên đó.

Đôi bàn tay nhỏ bé dường như đã cóng hẳn. Một que diêm có lẽ sẽ giúp em ấm thêm chút nào chăng? Em đánh liều rút ra một que và quẹt lên vách nhà để sưởi ấm những ngón tay. Que diêm bật cháy lên, kêu xèo xèo; ngọn lửa sáng như một cây đèn cầy khi em dùng cách ngón tay che quanh nó. Em bé gái mường tượng rằng em đang ngồi trước một lò sưởi lớn có khung mạ vàng. Ngọn lửa kỳ diệu cháy lên bập bùng trong đó và sưởi ấm em, nhưng đột nhiên, khi em vừa duỗi đôi chân ra hòng sưởi ấm, ngọn lửa tắt mất, cái lò sưởi biến mất, và em thấy mình còn lại với cọng diêm trong tay.

Em quẹt thêm một cây, diêm cháy bùng lên, ánh sáng chiếu lên vách nhà. Nó dường như trong suốt đến độ em có thể nhìn thấy mọi vật bên trong. Chiếc bàn ăn trải bằng vải trắng tinh và trên bàn là bát đĩa bằng sứ Trung Hoa. Một con ngỗng béo nướng chín vàng với táo và mận rải lên mình nó. Và kìa, miếng thịt ngỗng thơm ngon được xẻ ra và như có ai đó đang dùng chiếc nĩa đưa nó xuyên qua bức vách, đút tận miệng em bé. Bất chợt tất cả đều biến mất. Diêm tắt, chẳng có gì hiện hữu ngòai tấm vách dày, đen ngòm!!

Em lại đốt lên que diêm khác. Lần này, em thấy mình ngồi bên cây thông Noel xinh đẹp. Nó đẹp và lớn hơn hết thảy những cây Noel mà em được thấy qua khung cửa những ngôi nhà giàu nhất trong phố. Hàng ngàn ánh đèn lấp lánh trên các cành cây. Những bức tranh nhiều màu sắc như những tấm mà em thường thấy trong các tiệm sách. Em đưa tay với lấy những bức tranh. Diêm tắt! Những cây đèn trên cây bay vút lên cao, cao mãi, và em thấy rằng đó chỉ là những ngôi sao chớp chớp trên nền trời cao vòi vọi. Một ngôi sao xẹt qua trên bầu trời. "Chắc có ai đó vừa qua đời" em nghĩ. Chả là bà nội, người độc nhất thương em, thường nói: Khi có một ngôi sao rơi trên trời là có một linh hồn về nơi nước Chúa."

Em quẹt thêm một cây diêm. Lần này, em thấy bà em hiện ra giữa vòng hào quang của ánh diêm. Bà nhìn em hiền từ. "Nội ơi!", em kêu lên, "Nội cho cháu theo với Nội. Cháu biết Nội cũng sẽ biến đi khi ánh diêm này tắt. Nội sẽ tan biến cũng như cái lò sưởi, cũng như miếng thịt ngỗng quay và cũng như cây Noel huy hoàng kia."

Em vội vàng quẹt lên cả nắm diêm, vì em muốn giữ hình ảnh bà ở lại với em lâu hơn. Ánh sáng của nắm diêm tỏa ra như ánh sáng của ban ngày. Em thấy bà đẹp hơn bao giờ hết. Bà bế em trong đôi tay ấm áp. Họ bay lên trong vòng hào quang của ánh sáng và hạnh phúc, bay coa lên, cao lên vút hẳn lên không, nơi chẳng còn dư ấm của cái đói, cái lạnh, cái đau khổ, vì họ đang lên với Chúa từ nhân.

Trong ánh sáng lạnh của một ngày mới, em bé bán diêm vẫn còn ngồi kia, trong góc giữa hai ngôi nhà, với đôi má hồng hào và nụ cười thỏa mãn trên môi. Nhưng em đã bất động. Em chết vì lạnh cóng đêm giao thừa qua. Ngày mới đang sáng dần, soi rõ hình ảnh em bé khốn khổ với những que diêm tàn trong bàn tay nhỏ bé.
Người qua đường bảo nhau: "Chắc em đã cố để sưởi ấm thân mình." Nhưng chẳng ai biết được những điều huyền diệu em đã trải qua, chẳng ai biết rằng em đã bay lên thiên đàng với bà yêu quý trong hào quang chói lọi của một năm mới.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5696)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5754)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5891)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5553)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6186)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5938)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5431)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5834)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5500)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5945)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 7983)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7257)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6447)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14480)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6974)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12829)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12027)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8764)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14342)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8507)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6771)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10496)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5945)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 10001)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7113)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6909)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6070)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6149)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6081)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8309)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8776)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8180)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5818)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5767)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5818)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5862)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5471)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5943)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5269)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6429)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6375)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6199)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7694)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9391)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8717)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6832)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5559)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6466)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8545)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
(Xem: 6216)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant