Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chức cẩm hồi văn

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 5347)
Chức cẩm hồi văn

Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan. Nàng, dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chiều chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thì giờ theo đuổi trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúchết sức ngợi khen nàng.
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhâm chức tại Thần Châu, không phải đi đâu xa cả. Gia đình đã đầm ấm hạnh phúc lại càng đầm ấm hạnh phúc hơn.
Nhưng rồi vì công vụ cần thiết, vua truyền Đậu Thao ra trấn đất Lưu Sa. Vì nơi gian lao hiểm trở nên Đậu Thao đành phải để vợ ở nhà.
Thời gian qua ...
Ba năm chờ đợi, nàng Tô ngày càng sức vóc mỏi mòn, dung nhan tiều tụy. Đêm đêm, bên ngọn đèn khuya, nàng ngồi âm thầm đối bóng, tủi phận hờn duyên, lo ngại thân chồng mà giọt châu tầm tã. Lòng đau dằng dặc, nỗi nhớ triền miên nên hồn thơ dâng trào lên ngọc bút làm thành 10 bài tứ tuyệt. Nàng lại lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt lên trên theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm.
Nàng thêu khéo, chữ nay, nên bức gấm trông cực kỳ tuyệt mỹ. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng:
Đứng giữa triều, Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm:
 Quân thừa hoàng chiếu an biêu thú,
 Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
 Hàm bi yểm lụy tặng quân ngôn
 Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
 Hà Kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
 Ý thiếp bình vi xuân bất noãn.
 Quỳnh dao giai hạ bích đài không.
 San hô trướng lý hồng trần mãn.
 Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
 Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
 Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt
 Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân.
 Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,
 Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
 Phi lai phi khứ đáo quân bàng
 Thiên lý vạn lý giao tương kiến.
 Thiều thiều lộ viễn quan san cách,
 Hận quân tái ngoại trường vi khách.
 Khứ thời tống biệt lư diệp hoàng
 Thùy kính kỷ kinh mai hoa bạch.
 Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
 Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo.
 Thùy dương mãn địa vị quân phan,
 Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.
 Đình tiền xuân tảo chính phân phương,
 Bảo đắc tần tranh hướng họa đường.
 Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
 Phó ký tình thâm đáo sóc phương.
 Sóc phương thiều đệ san hà việt.
 Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.
 Ngân trang chẩm thượng lệ chiêm y,
 Kim lũ la thường hoa giai liệt.
 Tam xuân hồng nhạn đệ giang thanh,
 Thử thị ly nhân đoạn trường tình,
 Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
 Oán kết tiên thành khúc vị thành.
 Quân kim ức thiếp trọng như san,
 Thiếp diệt tư quân bất tạm nhàn.
 Chức tương nhấn bản hiến Thiên Tử,
 Nguyện phóng nhi phu cấp bảo hoàn.

Bài này có nhiều người dịch. Dưới đây là bản dịch của Hoàng Quang:
 Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại,
 Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông.
 Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng,
 Chớ tham chốn khác mà vong tình này.
 Trông tin tức tới nay thăm thẳm,
 Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân.
 Từ ngày đôi ngả cách phân,
 Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong.
 Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ,
 Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau.
 Nguyện làm trăng giữa biển sâu,
 Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao.
 Trăng giữa biển năm nào cũng thấy,
 Mây đầu non đường mấy cũng thông.
 Bay qua bay lại bên chồng,
 Dầu ngàn muôn dặm xa trông như gần.
 Quan san ấy mấy lần trở cách,
 Hiềm nỗi chàng làm khách rất lâu.
 Chàng đi mới ố bông lau,
 Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai.
 Hoa trăm thức xuân vui hớn hở,
 Xuân giục người than thở với ai.
 Dương kia đủ những tơ dài,
 Hoa kia rã cánh không người quét cho.
 Sân xuân sớm thơm tho trăm thức,
 Chốn họa đường lực bận đàn tranh.
 Giang Nam năm khúc rành rành,
 Mượn đầu năm mong gởi tình sóc phương.
 Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi,
 Âm thư này nhắn gởi khôn thông,
 Gối riêng nước mắt tuôn dòng,
 Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan.
 Ba xuân tới tiếng nhàn nhắn gởi,
 Xuân giục người bối rối như tơ.
 Năm dây còn đón sờ sờ;
 Buồn đà đứt ruột, gảy chưa rồi đàn.
 Chàng thương thiếp còn hơn núi nặng,
 Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua.
 Dệt đem bức gấm dâng vua,
 Xét lòng dạ thiếp tha cho chồng về.

Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Nhà vua quá cảm động không dám nhìn nàng, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.
Mười bài thơ ấy được truyền tụng với bức gấm thêu, ai cũng nước nở khen cho Tô là một bực kỳ tài. Trước họ gọi bức gấm thơ ấy là "Toàn Loa Đồ" (Bức đồ hình tròn trôn ốc), sau lại cho tên không xứng với giá trị của tác phẩm nên đổi là "Hồi Văn Cách" (Bài văn có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về), nhưng cũng vẫn chưa thấy thỏa đáng. Cuối cùng, họ lại đổi và thêm tên tác giả là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn".
Thông cảm mối tình sâu đậm của nàng Tô, cổ nhạc Việt Nam có người đã dựa theo bài "Chức Cẩm Hồi Văn" mà sáng tác một bài hát điệu Nam Ai, cũng nhan đề là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn". Lời lẽ lưu loát, ý tình nồng nàn, nhưng không biết tác giả là ai. Bài như thế này:
 Khi vâng chiếu chỉ ra đề cờ,
 Từ chàng đi, thiếp bặt tin đợi chờ.
 Hồng nhạn kêu thu sông Hớn bơ vơ.
 Áo não nùng khiến dạ ngẩn ngơ.
 Trách bấy ông Tơ gieo chi mối sầu như tóc tơ.
 Nghĩ mấy lời từ hồi ban sơ.
 Nhớ những khi thiếp nguyện trăm năm tam tùng thờ.
 Chàng mần răng ý lẳng lơ.
 Chân đi thăm thẳm, mắt ngóng luống nhớ cách núi ải, biết chừ trao thơ
 Má phấn duyên phai lạt, hồng nhan trông đợi chờ
 Trướng lý để bụi trần nhơ.
 Kìa cờ ai, nghe tiếng trống vẫn bóng xa xa
 Hay là chiếu triệu chồng ta.
 Chốn giang biên, chàng ôi có hay chăng là
 Để lụy tương tư này như chút phận Hằng Nga.
 Đêm đông quạnh quẽ, tiếng quyên hòa
 Gìn lòng son nỡ để cho trăng già
 Luông tuồng bao nỡ vắng bặt nhạn tin qua.
 Hay là ong bướm đã say đắm mê hoa,
 Chim ô thước qua sông Ngân thường,
 Nỡ nào để cho loan phụng Sâm Thương.
 Chẳng biết no nao cá nước hội một trường,
 Kẻo nặng nề hai chữ uyên ương
 Ong bướm dẫu say mên hoa hường,
 Cũng đoái tưởng chút nghĩa tào khương.
 Chim bao nài bay qua cho tỏ tường.
 Để trông đợi tháng ngày thương.
 Trông tin chàng, đêm nằm mơ màng,
 Tỉnh giấc hòe trằn trọc thở than.
 Năm canh sầu riêng cho bạn vàng,
 Phận làm trai hiếu nghĩa trung cang.
 Bệ ngọc trên báu kiếm sắc phán.
 Chốn giang biên ra khử trừ đảng gian.
 Nước noan xa cách muôn dặm, da người bọc mình chàng.
 Tuyết sương lạnh nơi chốn Đồng quan
 Chàng trừ mô ra giai đấi khởi ngụy bang,
 Cho rồi, đặng trở về Trường An.
 Kẻo để tương tư này mày xanh sầu võ vàng.
 Soi đài gương luống thẹn hồng nhan.
 Châu rơi lã chã lệ tuông đôi hàng,
 Hiềm vì ai xui duyên nợ lỡ làng.
 Ngàn trùng xa cách như khách ở ngoại bang.
 Bao nỡ bỏ cái nghĩa Ngưu lang,
 Thuở ra đi lau lá vàng.
 Bây chừ đã trắng mai rỡ ràng.
 Cung quế xơ rơ bóng nguyệt đã tàn.
 Ơn kia chưa trả oán nọ liền mang.
 Nghe tiếng dế năm canh mơ màng,
 Ngỡ tạc ngựa chàng đã hồi bang.
 Bởi duyên cớ nào bạc đen lòng phụ phàng.
 Để gió thảm mưa sầu khan.
 Chẳng biết no nao yên gót trở về
 Trên ngai vàng bạc thẻ bêu kia.
 Răng rứa bạn niềm tây nhớ nghĩa, nhớ nghĩa
 Mây bay khói tỏa in cờ rìa,
 Trống trường thành giục điểm canh khuya.
 Bâng khuâng nhớ chàng như nhạn chít lìa.
 Thiếp lạy ông Trời: chớ có phân chia.
 Từ chàng ra chốn cung đao,
 Thiếp trông tin chàng tựa cá trông sao.
 Ôm gối phụng chờ trông áo não, áo não ...
 Sao quên lời núi hẹn sông giao.
 Ai đi lấp thảm cho khuây má đào
 Tương tư này rằng thấu cung cao.
 Ơn trên tha về đặng tỏ nỗi âm hao.
 Hiệp một nhà mới phỉ ước ao. (1)


(1) Vì không tìm được bản chính, chỉ nghe người ca truyền mà sưu tập lại, hẳn có ít chỗ chưa được ổn đáng. Vậy xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc; và mong được bổ chính cho. Nhân đây xin cảm tạ lòng tốt của ông Ngô Văn Lương (ở Bạc Liêu), người đã giúp một phần cho tài liệu này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6316)
Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.
(Xem: 5796)
Đời Chu Tương Vương (651-617 trước D.L.), Tần Mục Công làm bá chủ các nước ở tây phương. Nhà vua có một người con gái.
(Xem: 5659)
Có một chàng tên Giang Thu San, quê ở An Huy, vốn người phong nhã, tính ưu ngao du sơn thủy. Gặp buổi ngày xuân, chàng liền rủ bạn sang Kim Lăng thưởng xuân.
(Xem: 5865)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
(Xem: 30625)
Ý của câu thành ngữ này là chỉ chim chóc bị săn bắn hết rồi thì cất cung nỏ vào kho. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Sử ký - Việt thế gia".
(Xem: 6961)
Điêu Thuyền (chữ Hán: 貂蟬, bính âm: diào chán) là một người đẹp trong tứ đạinhân Trung Hoa và là một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa.
(Xem: 5900)
"Đẩu ngọc xích bố" có nghĩ là một đấu lúa, một thước vải. Ngày xưa Cao Tổ có hai đứa con Hán Văn Đế và Hoài Nam Vương.
(Xem: 6225)
Đời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người đến trường của Vương Đạo xem trong đám học sinh...
(Xem: 7364)
Người Việt Nam xưa chia tầng lớp xã hội ra làm 4: Công, Nông, Binh, Thương. Công là những người làm nghề công nhân nhà máy, chuyên về công nghiệp.
(Xem: 7967)
"Xe dê" do chữ "Dương xa". Ngày xưa, nhà vua nào cũng vậy, ngoài có hoàng hậu, thứ phi còn có hàng ngàn cung nữ, chọn lấy người đẹp...
(Xem: 5873)
"Xích thằng" là tơ hồng hay chỉ hồng. "Nguyệt lão" là ông già dưới trăng do chữ "Nguyệt Hạ Lão Nhân", nói tắt.
(Xem: 7035)
Vương Chiêu Quân (王昭君) cũng như Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quí Phi, nổi danh không chỉ bởi với nhan sắc mà còn bởi tài năng và những dấu ấn nàng để lại trong lịch sử.
(Xem: 6791)
Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497)...
(Xem: 10864)
Thành ngữ "Trung ngôn nghịch nhĩ". Tức nói thật mất lòng, hoặc nói thẳng nghe trái tai. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Sử ký-Lưu Hầu Thế Gia".
(Xem: 8911)
Ngày xưa có anh học trò tên là Trần Miên, học hành rất thông minh và siêng năng. Tuy vậy, anh ta rất nghèo.
(Xem: 8010)
"Trúc mai" là cây trúc và cây bương. Trúc thuộc một loại tre nhỏ. Bương là một giống tre to ở rừng. Lá to có thể dùng gói bánh.
(Xem: 6596)
Trong vùng có nàng họ Lương tên Bích Nga, sắc đẹp lộng lẫy, duyên dáng cực kỳ. Cha mẹ mất sớm, nàng họ Lương phải ở nhờ cô ruột.
(Xem: 5800)
Lịch cổ nước Tàu chia một năm ra làm 8 tiết, gọi là "Bát tiết": lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí và Đông chí.
(Xem: 5966)
"Tựa cửa", "tựa cổng" do chữ "Ỷ môn", "Ỷ tư". Nhạc Nghị là tướng nước Yên đời Chiến Quốc đem quân đánh Tề, hạ được 72 thành.
(Xem: 5849)
Người Trung Hoa ngày xưa chọn bốn người con gái có sắc đẹp tuyệt nhất trong lịch sử, gọi là "Tứ Đại Mỹ Nhân", đó là Tây Thi...
(Xem: 6612)
Đời nhà Lý (1010-1225), vua Lý Thái Tông tên Phật Mã lúc còn làm thái tử (1020), Lý Thái Tổ là Lý Công Uẩn sai đem quân đánh Chiêm Thành.
(Xem: 5466)
Tết Đoan Dương cũng gọi là Tết Đoan Ngọ. Theo phong tục Tàu, tết này ăn vào ngày mồng 5 tháng 5.
(Xem: 5775)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
(Xem: 5941)
Theo phong tục của Tàu, Tết Trùng Cửu ăn vào ngày mồng 9 tháng 9. Nguyên đời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người huyện Nhữ Nam...
(Xem: 5503)
Tết này ăn vào ngày mồng 3 tháng 3. Vào ngày này người Tàu ăn toàn đồ nguội và tổ chức những cuộc chơi vui vẻ lắm.
(Xem: 6999)
Tây Thi (chữ Hán: 西施; bính âm: xi shi, 506 TCN-?) là một người con gái rất đẹp thời Xuân Thu và cũng là một trong Tứ đạinhân Trung Quốc.
(Xem: 9771)
Đạo gia (tức Đạo giáo, theo học thuyết của Lão Tử) cho rằng cái Thần (tinh thần) của con người ở vào ba nơi. Một ở óc, hai ở minh đường (quả tim)...
(Xem: 16396)
Thoạt nghe, không ít người nghĩ rằng, trong nội dung câu thành ngữ "Sư Tử Hà Đông" có điều gì liên can đến đất Hà Đông xưa của Việt Nam.
(Xem: 5755)
"Suối vàng" do chữ "Huỳnh tuyền" tức là suối nước màu vàng. Người Tàu ngày xưa tin rằng ở dưới âm phủ có chín cái suối nước vàng...
(Xem: 8349)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
(Xem: 6001)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
(Xem: 5554)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
(Xem: 5622)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
(Xem: 5953)
Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất...
(Xem: 15018)
Sử còn ghi lại, nơi địa đầu tỉnh Quảng Bình ngày nay có một vùng đất rộng lớn cạnh là Hồ Xá, nên gọi là Truông Nhà Hồ.
(Xem: 11967)
Sào Phủ Hứa Do là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許由).
(Xem: 7284)
Theo "Tây Hán chí ", "Sa nang ủng thủy" là một kế hoạch của tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Sở tại ngọn sông Duy thuộc tỉnh Sơn Đông.
(Xem: 8091)
Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về.
(Xem: 10369)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
(Xem: 5667)
Thời Chiến Quốc, thái tử Đan nước Yến đang làm con tin tại nước Việt đã quen biết với Tần Vương Chính cũng đang làm con tin tại nước Triệu.
(Xem: 5059)
Nhan: Là Nhan Hồi, quê ở nước Lỗ, tự là Tử Uyên, học trò ưu tú của Khổng Tử. Nhan Hồi siêng năng, học giỏi, cam sống cảnh nghèo mà vẫn vui vẻ.
(Xem: 6236)
Ngưu Lang là một gã chăn trâu nghèo, gặp Chức Nữ, một nàng tiên. Hai người yêu nhau say đắm. Ngọc Hoàng Thượng Đế bèn cho hai người lấy nhau.
(Xem: 9856)
Ngày Tết, người Việt Nam thường chúc nhau "Ngũ Phúc Lâm Môn", có nghĩa là năm hồng phúc đến nhà. Ngũ Phúc ấy là: + Phú: Nghĩa là giàu có...
(Xem: 9396)
Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, tên phát xít đầu sỏ Adolf Hitler cầm đầu phần tử Nazi đã thực hiện hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo...
(Xem: 7315)
Truyền rằng, thời xưa có hai trái núi là Thái Hàng và Vương Ốc. Có một ông già nhà ở phía bắc núi tên là Ngu Công. Do có hai trái núi này...
(Xem: 16553)
Đời Vũ Đế nhà Hán (140-86 trước D.L.), có một người phường chèo tên Lý Diên Niên múa hát rất giỏi. Được hầu trong nội điện, cung vi của nhà vua...
(Xem: 6275)
Trầm là một loại cây có mùi hương, nên còn được gọi là Trầm Hương, trị được nhiều chứng bệnh, rất quí và hiếm. Những người đi tìm Trầm thường được gọi là "đi điệu"
(Xem: 5368)
Thông thường, trong các kinh điển, thành ngữ «sư tử hống» hay tiếng rống của con sư tử được dùng theo các ý nghĩa như sau:
(Xem: 5237)
"Ngôn quá kỳ hành..." nguyên câu là: "Ngôn quá kỳ hành bất khả trọng dụng" đó là lời nói của Lưu Bị chúa nước Tây Thục đời Tam Quốc...
(Xem: 9238)
Ở Trung Hoa ngày xưa, nơi thôn quê, người ta thường trồng dâu gần bên đường. "Mạch thượng tang" cũng là tên khúc hát cổ nhạc phủ của nàng La Phu nước Triệu...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant