Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cỗ quan tài thủy tinh

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6906)
Cỗ quan tài thủy tinh

Xưa có một anh thợ may, dáng người nhanh nhẹn, tính tình dễ thương. Anh đi tập nghề, đến cánh rừng kia vì không biết đường nên bị lạc. Tối đến, giữa chốn hoang vu lạnh lẽo ấy, anh chỉ còn cách cố tìm ra một chỗ trú thân. Nằm trên đám rêu mềm mà ngủ thì quả có khoái, nhưng lại sợ thú dữ. Sau cùng anh quyết định leo lên cây.

Anh chọn một cây sến thật cao, leo lên tận ngọn. Gió thổi ào ào trên ngọn cây như muốn cuốn anh đi. Anh run rẩy ngồi trong bóng tối thế khoảng vài giờ. Chợt anh nhìn thấy ánh đèn ở cách đấy không xa lắm. Anh nghĩ bụng: "Chắc có nhà, đến nhất định tối hơn ở trên mấy cái cành này". Anh cẩn thận tụt xuống đi lại phía ánh đèn. Anh đến một ngôi nhà nhỏ, ghép toàn lau sậy. Anh mạnh dạn gõ cửa. Cửa mở, anh thấy dưới ánh đèn một ông già dáng người nhỏ bé, tóc hoa râm, mặc cái áo chắp hàng trăm mụn vải màu sắc sặc sỡ. Ông cụ cất giọng khàn khàn hỏi:

- Anh là ai, đến có việc gì?

Anh đáp:

- Tôi chỉ là một người thợ may nghèo, gặp tối giữa rừng, xin cho trú nhờ đêm nay.

Ông cụ xẵng giọng quát:

- Bước ngay đi chỗ khác mà xin trọ, ta không muốn dây với những đứa cầu bơ cầu bất.

Nói xong ông cụ định quay vào. Nhưng anh thợ may đã kịp túm lấy áo của cụ, van nài rất tha thiết. Ông cụ vốn không phải người ác như đã cố tình làm ra mặt, cũng mủi lòng và đồng ý cho anh vào.

Cụ lại cho anh ăn và dọn cho anh một cái ổ rơm tươm tất ở góc nhà. Anh thợ mệt quá chẳng cần đợi ai ru, đánh một giấc thẳng cho đến sáng. Giá như không có tiếng huyên náo đánh thức anh thì chưa chắc anh đã dậy. Tiếng kêu, tiếng trống inh ỏi từ bên ngoài lọt qua vách mỏng vào nhà. Không biết sao anh thợ may lúc ấy lại bạo thế. Anh nhảy phắt dậy, mặc vội quần áo rồi xông ra. Anh thấy ngay gần nhà có con bò rừng đen đang đánh nhau dữ dội với một con hươu đẹp. Hai con vật quần nhau rung chuyển cả mặt đất, tiếng rống, tiếng kêu rền trời. Đánh đã lâu mà không phân biệt được thắng bại. Sau cùng hươu húc rõ mạnh vào bụng đối thủ. Bò rống lên khủng khiếp, rồi quì xuống. Hươu bồi thêm mấy sừng nữa, bò chết hẳn.

Anh thợ may thấy hai con vật đánh nhau, lạ lắm. Anh còn đang đứng đờ ra đấy, thì hươu đã xông thẳng vào chỗ anh. Nó không để anh kịp chạy, xốc anh lên cặp sừng lớn. Anh chưa kịp
nghĩ gì, nó đã lao vun vút qua cây, qua đá, qua thung lũng, qua bãi, qua rừng. Anh chỉ còn biết cố nắm lấy cặp sừng cho vững, phó mặc số phận và thấy mình như bay bổng. Sau cùng hươu dừng lại trước một vách đá, đoạn hất anh xuống.

Anh thợ may, phần chết nhiều hơn phần sống, lúc lâu sau mới tỉnh. Đợi anh nghỉ một lúc, con hươu từ nãy vẫn đứng bên mới lấy sừng húc mạnh vào một cái cửa trong vách đá. Cửa bật tung. Lửa từ trong hắt ra, tiếp đấy hơi nước nghi ngút che lấp cả hươu. Anh không biết làm thế nào, hướng về đâu để thoát được cảnh địa ngục mà trở về trần gian. Anh còn đang hoang mang, bỗng nghe trong vách có tiếng gọi:

- Vào đây, đừng sợ, không hại người đâu!

Anh còn run thật, nhưng như có sức mạnh vô hình thúc giục, anh đẩy cổng sắt bước vào. Bên trong có gian phòng rất lớn. Trần, vách, nền nhà hết thảy đều lát đá vuông vắn, nhẵn thín, phiến nào cũng khắc một dấu hiệu rất kỳ lạ. Anh kinh ngạc lắm, ngắm mãi. Anh vừa định bước vào thì nghe thấy tiếng gọi lần thứ hai:

- Hãy lại chỗ phiến đá ở giữa phòng, có vận may rất lớn đang chờ ngươi.

Anh thêm mạnh dạn, làm theo lời dặn. Phiến đá dưới chân anh bắt đầu chuyển động rồi từ từ tụt sâu xuống. Lúc nó đứng lại, anh thợ may thấy mình đang ở trong một gian phòng khác, cũng rộng như gian trên. Nhưng ở đây càng có nhiều thứ kỳ lạ hơn. Tường đục nhiều lỗ, trong xếp những bình pha lê trong suốt đựng rượu màu hoặc chứa một thứ khói xanh biêng biếc. Trên nền nhà, kê hai cái hòm thủy tinh đối mặt nhau khiến anh càng tò mò. Anh lại xem một cái, thấy trong là mô hình một tòa nhà rất đẹp, kiểu lâu đài, quanh đủ hết nhà phụ, nhà kho, chuồng gia súc và nhiều thứ khác nữa. Mọi vật đều bé nhỏ, xinh xắn, làm rất công phu, phải là bàn tay tài nghệ chính xác cao độ mới tạo nên được.

Anh còn đang mải xem vật báu không chán mắt thì lại có tiếng gọi, anh quay lại xem hòm thứ hai. Anh kinh ngạc biết bao khi thấy trong ấy là một người con gái đẹp tuyệt vời. Nàng nằm im như ngủ, suối tóc tơ vàng tựa như một cái áo khoác cực kỳ quí giá quấn quanh người. Đôi mắt nhắm nhưng sắc mặt vẫn hồng và hơi thở nhịp nhàng vẫn nhẹ rung một dải băng, chứng tỏ nàng còn sống. Anh còn đang ngắm người đẹp, trống ngực rộn ràng bỗng thấy cặp mắt nàng hé mở. Người con gái đã thấy anh, cô gái giật mình mừng lắm. Cô kêu lên:

- Trời, ta sắp thoát rồi! Hãy mau giúp em ra khỏi cái ngục này. Chỉ cần chàng tháo chốt quan tài là em ra được.

Anh bình tĩnh làm theo lời dặn. Nắp quan tài được nạy lên, người đẹp đi ra góc phòng lấy một tấm áo choàng khoác lên người. Đoạn nàng ngồi xuống một phiến đá, gọi chàng lại, hôn môi chàng rất âu yếm và bảo:

- Ân nhân ơi, em đợi chàng từ lâu rồi. Lòng trời đức độ đã khiến chàng đến đây cứu em. Chàng là người chồng mà trời định sẵn cho em. Chàng là người yêu của em, là chủ mọi của cải trên đời này. Chàng sẽ sống vô cùng êm ấm và hạnh phúc. Chàng hãy ngồi nghe em kể chuyện. Em vốn là con một hầu tước rất giàu. Bố mẹ em đã chết từ khi em còn nhỏ tuổi. Lúc trăng trối bố mẹ em có giao em lại cho người anh lớn nuôi dạy. Hai anh em ăn ở hòa thuận, từ ý nghĩ đến sở thích đều giống nhau, nên cả hai đã nhất quyết không lập gia đình riêng để sống bên nhau đến trọn đời. Trong nhà không mấy khi ngơi khách. Xóm giềng bè bạn đến luôn và ai cũng được hai anh em ân cần quý mến. Bỗng một tối kia, có người khách lạ phi ngựa đến lâu đài. Hắn nói là không thể đến kịp trạm sau được nữa, xin cho ngủ nhờ. Hai anh em bằng lòng, đãi hắn rất hậu. Tối, ba người vừa ăn vừa trò chuyện, hắn kể chuyện rất tài. Anh em thích quá mới nói hắn ở thêm vài hôm nữa. Hắn từ chối lấy lệ rồi nhận lời. Mãi khuya mới ăn xong, người lạ được đưa về phòng. Còn em lúc ấy đã quá mệt nên cũng về buồng riêng ngủ. Em vừa chợp mắt bỗng lại tỉnh, nghe vẳng có tiếng nhạc du dương, quyến rũ. Em không hiểu được tiếng nhạc từ đâu đến nên định gọi con hầu ở phòng bên. Nhưng lạ thay có trái núi đè lên ngực em, họng em cũng như bị bóp nghẹt, muốn kêu mà không thốt ra được tiếng nào. Trong khi ấy, dưới ánh đèn khuya em thấy rõ gã lạ mặt bước vào, mặc dầu hai lần cửa vẫn khóa. Gã hóa phép ra tiếng nhạc nọ để đánh thức em, rồi gã chui qua lỗ khóa vào, gã muốn tỏ tình cùng em. Thấy quá ghê tởm phép yêu ấy của gã, em không thèm đáp. Gã đứng lúc lâu, có muốn đợi tình hình thay đổi lợi hơn. Nhưng em vẫn im lặng. Gã nổi giận dọa sẽ trả thù. Gã bảo gã có cách trị sự kiêu kỳ của em, xong gã bỏ ra ngoài. Suốt đêm lo quá, mãi đến gần sáng mới chợp mắt. Sáng dậy, em định chạy sang phòng anh em để kể các chuyện, nhưng không thấy anh đâu nữa. Người hầu cho biết anh em đã cưỡi ngựa đi săn cùng người lạ mặt
từ tờ mờ sáng. Em cảm thấy ngay là có tai họa, vội thay xiêm áo, sai thắng ngựa thật nhanh, rồi đem một người hầu theo, thúc cho ngựa phi nước đại vào rừng. Giữa đường, người hầu bị ngã ngựa què một chân, nên không thể theo em được nữa. Mình em phóng ngựa đi tiếp và mấy phút sau thì thấy gã kia, tay cầm sợi thừng buộc cổ một con hươu đẹp, đi lại. Rõ ràng lúc ấy mắt hươu mở to đương ngấn lệ. Gã không trả lời em mà chỉ cười rộ lên. Em giận quá, rút khẩu súng ngắn bên người ngắm con quỷ ấy bắn một phát. Nhưng đạn chạm ngực nó rồi lại bật lại, trúng ngực em. Em ngã nhào xuống, thấy gã lẩm bẩm câu gì đó rồi em ngất đi. Lúc tỉnh lại em thấy mình đang nằm trong cỗ quan tài thủy tinh ở một cái hầm. Thằng yêu đạo kia xuất hiện lần nữa, nó bảo nó đã biến anh em thành một con hươu. Tòa lâu đài của em với cả cơ nghiệp đã bị nó hóa phép thu nhỏ lại, giam vào một hòm thủy tinh khác, gia nhân cũng bị nó biến ra khói hết, nhốt trong các bình. Nếu em chiều lòng nó, nó sẽ giải phép cho ngay, không khó. Nó chỉ cần mở nắp bình và nắp hòm là các vật lại nguyên hình ngay. Nhưng cũng như khi trước, em không thèm đáp. Nó bỏ đi, để em nằm lại ở trong ngục này trong giấc ngủ triền miên. Nhưng lúc hồn phách mơ màng, cũng có khi em thấy một chàng trai đến cứu mình. Hình ảnh ấy an ủi em nhiều, và hôm nay lúc em hé mắt thấy anh, tức là giấc mơ kia đã thành sự thật. Chàng hãy giúp em thực hiện nốt phần tiếp của giấc mơ kia. Trước tiên chúng ta hãy khuân cái hòm thủy tinh có lâu đài trên phiến đá lớn này.

Hai người khiêng hòm lên phiên đá. Nó từ từ chuyển, đưa họ vượt miệng hầm lên tầng trên, từ đấy có lối ra ngoài rất dễ. Ra ngoài rồi, người con gái mở nắp hòm và thật kỳ lạ: lâu đài, nhà cửa, sân vườn cứ to dần ra rất nhanh, chẳng mấy chốc bằng thật. Họ lại quay xuống hầm dưới khuân nốt các bình lên. Người con gái tháo nắp bình, khói bay biến thành người sống, gia nhân của họ lại đông đủ như trước. Cỏ cây lại hớn hở khi thấy cô đã trừ được yêu đạo, người anh bị hóa thành hươu cũng trở lại hình người và từ trong rừng đi ra, sung sướng với hạnh phúc của em gái. Ngày hôm ấy, đám cưới được tổ chức như lời cô đã hứa. Cô lấy anh thợ may.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5696)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5754)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5891)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5553)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6186)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5938)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5431)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5833)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5500)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5945)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 7982)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7257)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6446)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14480)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6974)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12829)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12027)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8764)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14342)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8507)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6771)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10496)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5945)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 10000)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7112)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6909)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6070)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6149)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6081)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8309)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8775)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8180)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5818)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5767)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5818)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5862)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5471)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5942)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5269)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6429)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6375)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6199)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7693)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9390)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8716)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6831)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5558)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6466)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8545)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
(Xem: 6216)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant