Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Vượt luân hồi vào tịnh độ

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7719)
7. Vượt luân hồi vào tịnh độ

MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT CÂU THẦN CHÚ
Nguyên Thành biên soạn

VƯỢT LUÂN HỒI VÀO TỊNH ĐỘ

Nhờ nguyện lực vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm, thần chú Mani của Ngài mang đến lợi ích cho vô lượng chúng sanh trong sáu cõi luân hồi. Từ việc được nghe, đọc tụng cho đến trì niệmquán tưởng, liên hệ đến sáu âm Om mani padme hum đều được lợi lạc không thể nghĩ bàn.

Tuy nhiên, do căn cơ của mỗi người đều khác biệt, cho nên cần biết phương pháp hành trì thần chú Lục tự đại minh này để phát huy hết nội lực của mình.

Cũng như những hoạt động tâm linh khác, phương pháp hành trì thần chú Mani nên đi từ mức độ dễ đến khó, từ giản đơn cho đến tinh tế. Song, ở bất kỳ trình độ nào mà hành giả có sự chuyên chú, nhất tâm đều sẽ triển khai được thần lực của thần chú. Tất cả hoạt động của thân, ngữ, tâm để phát ra câu thần chú Mani một cách đều đặn, thường xuyên gọi là “trì chú”. Giờ đây chúng ta đi vào từng cấp độ một: thần chú thông dụng, đại thần chú, đại minh thần chú, vô thượng thần chú, vô đẳng đẳng thần chú.

1. Thần chú thông dụng: hành giả đọc, tụng, trì niệm sáu âm Om mani padme hum bằng khẩu và ý. Khẩu là đọc hoặc tụng, ý là niệm thầm trong tâm trí.

2. Đại thần chú: Cách trì chú cũng như trên nhưng bổ sung thêm thủ ấn. Trong kinh “Mật giáo Đà la ni thủ ấn đồ tập”, thủ ấn đi kèm theo thần chú Mani là “Quán Âm Thanh Cảnh Ấn”.

3. Đại minh thần chú: Cách trì chú cũng như cách thứ hai nhưng khi trì chú, hành giả dùng cách niệm kim cương vào ra theo hơi thở. Thở vào niệm Om mani, thở ra niệm Padme hum.

4. Thần chú vô thượng: Cách trì chú cũng như cách thứ ba nhưng hành giả cần đi thêm một bước nữa là quán tưởng hình ảnh Bổn tôn (Quán Âm Tứ Thủ) ở trên đầu hoặc trước mặt.

5. Thần chú vô đẳng đẳng: Cách trì chú giống cách cách thứ ba nhưng ở đây hành giả quán tưởng chính mình là vị Bổn tôn.

Như đã nêu trên, trong 4 oai nghi của con người thì khi ngồi theo thế kiết già hành giả sẽ trì chúhiệu quả nhất. Trong trường hợp đi đường, lái xe, ngồi xe buýt, máy bay... hoặc ngồi chờ ai đó nơi công sở... hành giả nên sử dụng cách trì chú thứ nhất là tiện lợi nhất. Cách trì chú thứ tư và thứ năm tức là “thần chú vô thượng”, “thần chú vô đẳng đẳng” khó thực hành hơn. Chỉ khi nào thuần thục quán tưởng trong thiền phòng hoặc thiền đường rồi mới có thể áp dụng ở những nơi khác.

Chúng ta đã biết công năng không thể nghĩ bàn của thần chú Mani. Tuy nhiên, tùy theo mỗi cấp độ mà hiệu quả có phần khác nhau. Thuần thục ở hai cấp độ của “thần chú thông dụng” và “đại thần chú”, hành giả phát huy được thần thông thông thường (kính ái, tăng ích, tiêu tai, hàng phục, câu triệu).

Ở cấp độ “thần chú đại minh” khi đã thuần thục, tâm thức của hành giả hòa nhập với cõi trời Sắc giới (đạt định từ cấp một đến cấp bốn). Lúc này, hành giả đạt được thắng trí, có thể khai triển thần thông dễ dàng và lợi mãnh hơn hai cấp độ đầu.

Ở cấp độ của “thần chú vô thượng” (có nghĩa là không gì cao hơn) hành giả bắt đầu bước vào mép cửa của thần thông tối thượngtrí huệ Bát-nhã.

Sau khi thuần thục ở cấp độ “thần chú vô thượng” hành giả đi vào căn nhà trí huệ Bát-nhã như nó là của mình, cho nên gọi là “thần chú vô đẳng đẳng” (không gì có thể so sánh được). Trong giai đoạn trì niệm này, hành giả dần dần thẩm nhập trí huệ Bát-nhã mà cụ thểcác loại trí huệ như: đại huệ, minh huệ, diệu huệ, pháp huệ, trí huệ biện tài vô ngại, trí huệ tổng hợp. (Geshe Achaya Thubten Loden viết trong tác phẩm “Biển Phương tiệnTrí huệ bất khả phân).

Ở đây cần giải thích trí thứ sáu là “trí huệ biện tài vô ngại”, còn gọi là “Tứ vô ngại biện”, tức là bốn loại tài trí biện luận không bị ngăn ngại như sau:

1. Pháp vô ngại biện: rõ biết tất cả các pháp không ngăn ngại, từ các pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác cho đến hàng Bồ Tát hay chư Phật.

2. Nghĩa vô ngại biện: rõ biết nghĩa lý không ngăn ngại, tuy có phân ra ba thừa khác nhau biết rõ là rốt ráo chỉ quy về một thừa chân thật, không thấy là có tướng khác nhau.

3. Từ vô ngại biện: khả năng sử dụng ngôn từ không ngăn ngại, đối với một pháp vẫn có thể tùy nghi sử dụng vô số tên gọi.

4. Nhạo thuyết vô ngại biện: khả năng thuyết pháp không ngăn ngại, có thể vì chúng sanh hoan hỷ diễn thuyết tất cả các pháp, khiến người nghe vui thích.

Bảy trí huệ trên thành tựu, hành giả sẽ được Ngũ trí Như Lai: đó là Diệu quán sát trí, Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Thành sở tác tríPháp giới trí. Lúc đó gọi là trí huệ của vị Phật chánh đẳng chánh giác.

Trên con đường Bồ Tát Đại thừa, hành giả phải đi qua tuần tự năm con đường đạo gọi là “ngũ đạo lộ”, tức là trải qua 51 nấc thang tu tiến, nhưng trong Mật thừa thì pháp môn trì chú cũng giúp cho hành giả tự nhiên được đi qua các đạo lộ đó. Đây là luận giải của Đạo sư Tultsim Gyaltsen, đại hành giả Mật tông của Tây Tạng, xuất thân từ tu viện Ganden, sáng lập ra Đại học Phật giáo Mật tông Thubten Dhargye Ling, ở Long Beach, bang California, Hoa Kỳ.

Ngài cho rằng “Đại thần chú” liên hệ đến Tư lương đạo (giai đoạn tích lũy), “Đại minh chú” liên hệ đến Gia hành đạo (giai đoạn chuẩn bị), “Vô thượng thần chú” liên hệ đến Kiến đạo (giai đoạn thấu hiểu) và “Vô đẳng đẳng thần chú” liên hệ đến Thiền định đạo (giai đoạn tu tập), được chỉ ra trong năm đạo lộ phải đi qua của Bồ Tát Đại thừa. Từ đây có thể cho chúng ta thấy giá trị vô song của thần chú Mani.

Qua luận giải, chúng ta đã nhận thức sâu sắc về tướng trạng của thần chú, công năng cao siêu vi diệu của thần chú. Nhưng để được như vậy, chúng ta phải sử dụng “Ba phương tiện tối thượng”:

– Thứ nhất là chuẩn bị tâm qua việc phát tâm Bồ-đề.

– Thứ nhì là pháp thực hành chính yếu, tức là trì niệm thần chú Lục tự đại minh không xao lãng.

– Thứ ba là kết thúc mỗi thời khóa hành trì chúng ta đều hồi hướng công đức vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

Trong tác phẩm “Diệu pháp đạt Giác Ngộ” Đạo sư Dilgo Khyentse nhấn mạnh:

“Ba phương tiện này phải được ứng dụng cho bất cứ pháp thực hành nào, dù chỉ là trong giai đoạn phát sinh hay giai đoạn thành tựu của Mật giáo, hoặc đối với pháp hành Đại thủ ấn, Đại toàn thiện, Trung đạo. Thiếu một trong Ba phương tiện này thì không thể đạt được kết quả tốt.”

Cụ thể chi tiết của nghi quỹ hành trì thần chú Mani được trình bày rõ ràng như sau:

Phương tiện thứ nhất:

Trong đạo phục nghiêm trang, hành giả ngồi kiết già hoặc bán già trên tọa cụ xướng ngôn:

“Đệ tử là... xin quy y Đạo sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng từ đây cho đến khi giác ngộ tối thượng! (3 lần) Để giải thoát chúng sanh khỏi lục đạo luân hồi, đệ tử hôm nay thực hành trì chú Mani, xin Đức Bổn tôn chứng minh và gia hộ!”

Phương tiện thứ nhì:

Hành giả đi vào phần chính cũng tác bạch Bổn tôn:

“Giờ đây đệ tử bước vào phần chính của trì chú, xin Đức Bổn tôn gia trì thần lực.”

Hành giả bắt đầu trì chú

Tùy theo trình độ, mỗi hành giả trì niệm các cấp độ thần chú khác nhau. Riêng “thần chú vô thượng” và “thần chú vô đẳng đẳng” có phối hợp quán tưởng Bổn tôn bên ngoài và bên trong nên hành giả cũng cần tiến hành tuần tự theo diễn trình sau đây:

– Đối với Bổn tôn bên ngoài, hành giả quán tưởng trên đầu một hoa sen lớn màu trắng hoặc màu khác tùy theo sở thích, trên đó là một chủng tự Hrih tỏa hào quang. Lúc này, hành giả bắt ấn triệu thỉnh và niệm tinh túy thần chú là 3 âm : OM AH HUM. Liền sau đó linh ảnh của Quán Âm Tứ Thủ hiện lên từ chỗ chủng tự. Bấy giờ trong tâm thức hành giả, thánh tướng của Ngài dần dần xuất hiện đầy đủ những tướng hảo chánh và phụ.

Nếu không quán tưởng được như trên hành giả chỉ cần đọc bài nguyện “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” của Đạo sư Tangtong Gyalbo là Bổn tôn sẽ xuất hiện trên đỉnh đầu. Trong bối cảnh có Bổn tôn lấp lánh hào quang, đôi mắt bi mẫn nhìn chúng sanh, hành giả trì niệm thần chú Om mani padme hum.

– Để quán tưởng Bổn tôn bên trong, hành giả dùng thủ ấn thỉnh nhập niệm Om ah hum, hình dung Bổn tôn trên đầu hòa nhập với ta thành một. Bấy giờ hành giả mang thánh tướng của Bổn tôn với đầy đủ những tướng chánh và phụ của Bồ Tát đẳng giác. Lúc này, hành giả trì niệm thần chú Mani cũng không gì khác biệt với Đức Quán Âm Tứ Thủ tuyên thuyết thần chú. Muôn ngàn tia sáng đủ màu phóng xuất ra từ hành giả trong thân tướng Bồ Tát làm lợi lạc chúng sanh muôn loài đang khổ đau và mong cầu giải thoát. Ánh sáng màu trắng làm lợi lạc cho những người thân (cha mẹ, ông bà, anh em... đã chết) ở vị trí bên tay trái hành giả; ánh sáng vàng làm lợi lạc cho những người thân đang còn sống, ở bên tay phải hành giả; ánh sáng màu đỏ làm lợi lạc cho những kẻ thù, kẻ đối nghịch, ở phía trước mặt hành giả; ánh sáng màu xanh làm lợi lạc cho bằng hữu của hành giả, ở phía sau lưng; ánh sáng màu tím nhạt làm lợi lạc cho những oan hồn uổng tử, ở về phía sau chót.

Công phu càng sâu dày, thần chú của hành giả càng phát ra công năng mãnh liệt, cho đến khi hành giả và vị Bổn tôn trở thành tương thông hợp nhất. Đây là công phu của “thần chú vô đẳng đẳng”. Sau thời thiền, hành giả quán tưởng những ánh sáng năm màu ấy biến thành hàng ngàn, hàng vạn quả cầu nhập vào tim hành giả. Từ đây, hành giả trong thánh tướng Bổn tôn thể nhập vào tim Phật A-mi-đà ở trên cao, đang chứng minh sự gia trì của hành giả trong thánh tướng Bổn tôn đến tất cả chúng sanh. Sau đó, toàn thân Phật A-mi-đà biến thành ánh sáng hoàng kim, phóng xuất về trụ xứ Tây phương Cực lạc. Hành giả an trú trong trạng thái đó cho đến khi không còn tập trung được nữa.

3. Phương tiện thứ ba

Hành giả bắt ấn xả thiền rồi đọc kệ hồi hướng:

“Nguyện đem công đức này.

Hướng về khắp tất cả.

Đệ tửchúng sanh.

Đều trọn thành Phật đạo.”

Đạo sư Dilgo Khyentse dạy rằng:

“Khi công đức được hồi hướng, quả tốt của công đức sẽ gia tăng liên tục thay vì tàn lụi dần, như chất men theo thời gian sẽ nảy nở thêm. Khi hành giả hồi hướng, nên ý thức rõ ràng về việc hồi hướng của mình, giống như đang dâng lễ vật cho từng chúng sanh một. Không nên nghĩ rằng công đức được chia ra cho mọi chúng sinh, mà là mọi chúng sanh đều sẽ nhận được trọn vẹn công đức đó...”

Tóm lại, mọi hoạt động tâm linh dựa trên ba phương tiện tối thượng này, thì dù một việc nhỏ nhặt cũng sẽ mang lại cho hành giả những lợi ích vô cùng. Đây là nền móng giúp cho hành giả xây dựng lâu đài Giác ngộCực lạc Tây phương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28196)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6690)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8788)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9318)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15389)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8257)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8684)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16734)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26982)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15657)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22543)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19467)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18351)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16205)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12884)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37864)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10714)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10032)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10561)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10391)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11041)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15231)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10844)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19696)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11710)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10784)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11248)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10108)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10564)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11557)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10894)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11405)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12160)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11065)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17772)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15238)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15713)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11004)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12117)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11046)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21851)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20175)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10104)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant