Từ
quyển Đường bay của Chim Đại bàng
London,
16 tháng ba 1969
Đối
với hầu hết chúng ta, tự do là một ý tưởng và không là
một thực sự. Khi chúng ta nói về tự do, chúng ta muốn được
tự do phía bên ngoài, làm điều gì chúng ta ưa thích, đi lại,
được tự do diễn tả mình trong những cách khác nhau, được
tự do suy nghĩ điều gì chúng ta muốn. Sự diễn tả phía
bên ngoài về tự do dường như quan trọng lạ lùng, đặc
biệt trong những quốc gia nơi có sự độc tài, chuyên chế;
và trong những quốc gia đó nơi sự tự do phía bên ngoài có
thể được người ta lại tìm kiếm mỗi lúc một vui thú
nhiều hơn, mỗi lúc một sở hữu nhiều hơn.
Nếu
chúng ta tìm hiểu kỹ càng sự tự do hàm ý điều gì, để
bên trong, trọn vẹn, và tổng thể được tự do – mà sau
đó tự diễn tả chính nó ra phía bên ngoài trong xã hội,
trong liên hệ – vậy thì dường như đối với tôi, chúng
ta phải hỏi liệu cái trí của con người, đã bị quy định
nặng nề như nó là hiện nay, có thể được tự do? Nó phải
luôn luôn sống và vận hành bên trong những biên giới thuộc
tình trạng bị quy định riêng của nó, đến độ không có
thể được tự do gì cả? Người ta có thể thấy rằng cái
trí, đang hiểu rõ bằng từ ngữ rằng không có tự do ở
đây trên quả đất này, phía bên trong hay phía bên ngoài,
vậy thì nó bắt đầu sáng chế tự do trong một thế giới
khác, một giải thoát ở tương lai, thiên đàng, và vân vân.
Hãy
gạt bỏ tất cả những khái niệm thuộc học thuyết, lý
thuyết về tự do để cho chúng ta có thể tìm hiểu liệu
những cái trí của chúng ta, của bạn hay của tôi, có khi
nào được tự do thực sự, được tự do khỏi sự lệ thuộc,
được tự do khỏi sự sợ hãi, sự lo âu, và được tự
do khỏi vô vàn những vấn đề, cả tầng ý thức bên ngoài
cũng như những tầng sâu thẳm hơn của ý thức bên trong.
Liệu có thể có tự do thuộc tâm lý hoàn toàn, để cho cái
trí con người có thể bất chợt bắt gặp cái gì đó không
thuộc thời gian, không bị sắp xếp vào chung bởi tư tưởng,
tuy nhiên lại không là một tẩu thoát khỏi những xảy ra
thực sự của sự tồn tại hàng ngày.
Nếu
cái trí con người phía bên trong, tâm lý, không hoàn toàn được
tự do, sẽ không thể thấy điều gì là sự thật, sẽ không
thể thấy liệu có một sự thật không bị sáng chế bởi
sợ hãi, không bị định hình bởi xã hội hay văn hóa mà
chúng ta sống, và không là một tẩu thoát khỏi sự đơn điệu
hàng ngày, cùng nhàm chán, cô độc, thất vọng, lo âu của
nó. Muốn tìm được liệu thực sự có sự tự do như thế
hay không, người ta phải nhận biết được tình trạng bị
quy định riêng của người ta, nhận biết được những vấn
đề, sự nông cạn, trống rỗng, thiếu thốn, buồn chán thuộc
sống hàng ngày của người ta, và trên tất cả người ta
phải nhận biết được sợ hãi. Người ta phải nhận biết
được về chính người ta mà không dựa vào phản ảnh nội
tâm hay phân tích, nhưng thực sự nhận biết được về chính
người ta như người ta là và xem thử liệu có thể được
tự do hoàn toàn khỏi tất cả những vấn đề đó mà dường
như làm tắc nghẽn cái trí hay không.
Muốn
tìm hiểu, vì chúng ta sắp sửa làm, phải có tự do, không
phải tại khúc cuối, nhưng tại ngay khởi đầu. Nếu người
ta không được tự do, người ta không thể tìm hiểu, thăm
dò, hay đào sâu. Muốn tìm hiểu thật sâu thẳm, cần phải
có không những sự tự do, nhưng còn cả sự kỷ luật mà
rất cần thiết khi quan sát; tự do và kỷ luật theo cùng nhau
– không phải rằng người ta phải có kỷ luật để tìm
được tự do. Chúng ta đang sử dụng từ ngữ kỷ luật không
phải trong ý nghĩa truyền thống, đã được chấp nhận, mà
là vâng lời, bắt chước, kiềm chế, tuân theo một khuôn
mẫu đã cố định; nhưng trái lại như ý nghĩa gốc của
từ ngữ đó mà có nghĩa ‘học hỏi’. Học hỏi và tự
do theo cùng nhau, tự do mang theo cùng kỷ luật riêng của nó
– không phải kỷ luật bị áp đặt bởi cái trí vì mục
đích đạt được một kết quả nào đó. Hai điều này là
cốt lõi: tự do và hành động của học hỏi. Người ta không
thể học hỏi về chính người ta nếu người ta không được
tự do, được tự do để cho người ta có thể quan sát, không
lệ thuộc vào bất kỳ khuôn mẫu, công thức, hay khái niệm
nào, nhưng thực sự quan sát về chính người ta như người
ta là. Sự quan sát đó, trực nhận đó, đang thấy đó, tạo
ra kỷ luật và học hỏi riêng của nó; trong đó không có
tuân phục, bắt chước, kiềm chế, hay kiểm soát gì cả –
và trong đó có vẻ đẹp vô cùng.
Những
cái trí của chúng ta bị quy định, đó là một sự kiện
rõ ràng – bị quy định bởi một văn hóa hay xã hội đặc
biệt, bị ảnh hưởng bởi những ấn tượng khác nhau; bởi
những căng thẳng và áp lực của sự liên hệ; bởi những
nhân tố thuộc giáo dục, khí hậu, kinh tế; bởi sự tuân
phục thuộc tôn giáo, và vân vân. Những cái trí của chúng
ta được đào tạo để chấp nhận sợ hãi và để tẩu thoát,
nếu chúng ta có thể, khỏi sợ hãi đó, và không bao giờ
có thể giải quyết, trọn vẹn và tổng thể, toàn bản chất
và cấu trúc của sợ hãi. Vậy thì câu hỏi đầu tiên của
chúng ta là: Liệu cái trí, bị chất nặng quá nhiều, có thể
giải quyết trọn vẹn, không chỉ tình trạng bị quy định
của nó, nhưng còn cả những sợ hãi của nó? Bởi vì chính
sự sợ hãi thúc đẩy chúng ta chấp nhận bị quy định.
Đừng
chỉ nghe nhiều từ ngữ và ý tưởng, mà thực sự không có
giá trị gì cả – nhưng qua động thái của lắng nghe, quan
sát những trạng thái riêng của cái trí bạn, cả từ ngữ
lẫn không-từ ngữ, đơn giản tìm hiểu liệu cái trí có
thể được tự do – không đang chấp nhận sợ hãi, không
đang tẩu thoát, không đang nói, ‘Tôi phải phát triển sự
can đảm, sự kháng cự,’ nhưng thực sự đang nhận biết
trọn vẹn được sợ hãi mà trong đó chúng ta bị trói buộc.
Nếu người ta không được tự do khỏi chất lượng của
sợ hãi này, người ta không thể thấy rất rõ ràng, sâu thẳm;
và chắc chắn, khi có sợ hãi không có tình yêu.
Vậy
là, liệu cái trí có thể thực sự được tự do khỏi sợ
hãi? Dường như đối với tôi đó là – dành cho bất kỳ
người nào có sự nghiêm túc – một trong những vấn
đề cốt lõi và cơ bản nhất phải được tìm hiểu và được
giải quyết. Có những sợ hãi thân thể và những sợ hãi
tâm lý. Những sợ hãi thuộc thân thể về sự đau đớn và
những sợ hãi thuộc tâm lý, như là ký ức của đã trải
qua sự đau đớn trong quá khứ, và ý tưởng của sự lặp
lại đau đớn đó trong tương lai; cũng cả, những sợ hãi
của tuổi già, chết, những sợ hãi của không-an toàn thân
thể, những sợ hãi của không-chắc chắn về ngày mai, những
sợ hãi của không thể là một người thành công, không thể
thành tựu, của không là người nào đó trong thế giới khá
xấu xa này; những sợ hãi của bị hủy diệt, những sợ
hãi của bị cô độc, của không thể thương yêu hay được
thương yêu, và vân vân; những sợ hãi thuộc tầng ý thức
bên ngoài lẫn những sợ hãi thuộc tầng ý thức bên trong.
Liệu cái trí có thể được tự do, tổng thể, khỏi tất
cả điều này? Nếu cái trí nói rằng nó không thể, vậy
thì nó đã tự-ép buộc chính nó thành vô dụng, nó đã tự-làm
biến dạng chính nó và không thể nhận biết, hiểu rõ, không
thể hoàn toàn tỉnh táo, yên lặng; nó giống như một cái
trí trong bóng tối, đang tìm kiếm ánh sáng và không bao giờ
tìm được nó, và thế là sáng chế ra một ánh sáng của
những từ ngữ, những ý tưởng, những lý thuyết.
Làm
thế nào một cái trí đã bị chất nặng bởi sợ hãi, bởi
tất cả bị quy định của nó, sẽ được tự do khỏi nó?
Hay người ta phải chấp nhận sợ hãi như một việc không
thể tránh khỏi của sống? – và hầu hết chúng ta có chấp
nhận nó, khoan dung nó. Chúng ta sẽ làm gì? Làm thế nào tôi,
như con người, bạn như con người, sẽ loại bỏ được sợ
hãi này? Không phải loại bỏ được một sợ hãi đặc biệt,
nhưng sợ hãi tổng thể, toàn bản chất và cấu trúc của
sợ hãi?
Sợ
hãi là gì? Đừng chấp nhận, nếu tôi được phép đề nghị,
điều gì người nói đang trình bày; người nói không có uy
quyền gì cả, ông ta không là người thầy, ông ta không là
đạo sư; bởi vì nếu ông ta là người thầy, vậy thì bạn
là môn đồ, và nếu bạn là môn đồ bạn tự-hủy hoại
chính bạn lẫn người thầy. Chúng ta đang cố gắng tìm ra
sự thật của câu hỏi về sợ hãi này trọn vẹn đến độ
cái trí không bao giờ còn sợ hãi, và thế là được tự
do khỏi tất cả sự lệ thuộc vào một người khác, phía
bên trong, phần tâm lý. Vẻ đẹp của sự tự do là rằng
bạn không bao giờ để lại một dấu vết. Con đại bàng
trong đường bay của nó không để lại một dấu vết; người
khoa học có. Đang tìm hiểu vấn đề của tự do này phải
có, không chỉ sự quan sát khoa học, mà còn cả đường bay
của con đại bàng mà không để lại một dấu vết; cả hai
đều được cần đến; phải có cả sự giải thích bằng
từ ngữ lẫn sự trực nhận không-từ ngữ – bởi vì sự
diễn tả không bao giờ là sự kiện được diễn tả; chắc
chắn sự giải thích không bao giờ là sự vật được giải
thích; từ ngữ không bao giờ là sự việc sự vật.
Nếu
tất cả điều này rất rõ ràng vậy thì chúng ta có thể
tiến tới; chúng ta có thể tự-tìm ra cho chính chúng ta –
không phải qua người nói, không phải qua những từ ngữ của
ông ta, không phải qua những ý tưởng hay những suy nghĩ của
ông ta – liệu cái trí có thể hoàn toàn được tự do khỏi
sợ hãi.
Phần
nói chuyện đầu tiên không phải là một giới thiệu; nếu
bạn đã không nghe nó rõ ràng và đã không hiểu rõ nó, bạn
không thể tiếp tục sang phần kế tiếp này.
Muốn
tìm hiểu phải có sự tự do để quan sát; phải có sự tự
do khỏi những kết luận, những ý tưởng, những lý tưởng,
những thành kiến, để cho bạn có thể thực sự tự-quan
sát cho chính bạn sợ hãi là gì. Và khi bạn quan sát rất
kỹ càng, liệu còn có sợ hãi hay không? Đó là, bạn có thể
quan sát rất, rất tỉ mỉ, mật thiết, sợ hãi là gì chỉ
khi nào người quan sát là vật được quan sát. Chúng ta đang
thâm nhập vào nó. Vậy là, sợ hãi là gì? Nó nảy sinh bằng
cách nào? Những sợ hãi rõ ràng thuộc thân thể có thể hiểu
rõ được, như những nguy hiểm thuộc thân thể, mà có những
phản ứng tức khắc; hiểu rõ chúng rất dễ dàng, chúng ta
không cần tìm hiểu nhiều lắm. Nhưng chúng ta đang nói về
những sợ hãi thuộc tâm lý; những sợ hãi thuộc tâm lý
này nảy sinh bằng cách nào? Nguồn gốc của chúng là gì?
Đó là chủ đề phải quan tâm. Có sợ hãi về cái gì đó
đã xảy ra ngày hôm qua; sợ hãi về cái gì đó có lẽ xảy
ra sau đó hôm nay hay ngày mai. Có sợ hãi về cái gì đó chúng
ta đã biết rồi, và có sợ hãi về cái không biết được,
mà là ngày mai. Người ta có thể tự-thấy rất rõ ràng cho
chính người ta rằng sợ hãi nảy sinh qua cấu trúc của tư
tưởng – qua suy nghĩ về cái đã xảy ra ngày hôm qua mà người
ta sợ hãi, hay qua suy nghĩ về tương lai, đúng chứ? Tư tưởng
nuôi dưỡng sợ hãi, phải không? Làm ơn, chúng ta hãy hoàn
toàn chắc chắn; đừng chấp nhận điều gì người nói đang
trình bày; hãy tuyệt đối chắc chắn cho chính bạn về vấn
đề liệu tư tưởng có là nguồn gốc của sợ hãi hay không.
Suy nghĩ về đau khổ, đau khổ tâm lý mà người ta đã có
cách đây lâu rồi và không muốn nó được lặp lại, không
muốn sự việc đó được nhớ lại, suy nghĩ về tất cả
điều này, nuôi dưỡng sợ hãi. Liệu chúng ta có thể tiếp
tục từ đó? Nếu chúng ta không thấy điều này rất rõ ràng,
chúng ta sẽ không thể tiến tới thêm nữa. Tư tưởng, đang
suy nghĩ về một biến cố, một trải nghiệm, một trạng
thái, mà trong đó đã có một bực dọc, nguy hiểm, phiền
muộn hay đau đớn, tạo ra sợ hãi. Và tư tưởng, vì đã
thiết lập một an toàn nào đó, thuộc tâm lý, không muốn
sự an toàn đó bị quấy rầy; bất kỳ quấy rầy nào là
một nguy hiểm và thế là có sợ hãi.
Tư
tưởng chịu trách nhiệm cho sợ hãi; cũng vậy, tư tưởng
chịu trách nhiệm cho vui thú. Người ta đã có một trải nghiệm
hạnh phúc; tư tưởng suy nghĩ về nó và muốn nó được tiếp
tục. Khi điều đó không thể được, có một kháng cự, tức
giận, thất vọng, và sợ hãi. Thế là, tư tưởng chịu trách
nhiệm cho sợ hãi cũng như vui thú, phải không? Đây không
là một kết luận bằng từ ngữ; đây không là một công
thức dành để lẩn tránh sợ hãi. Đó là, nơi nào có vui
thú có đau khổ và sợ hãi được duy trì bởi tư tưởng;
vui thú theo cùng đau khổ, hai cái không thể phân chia, và tư
tưởng chịu trách nhiệm cả hai. Nếu không có ngày mai, không
có khoảnh khắc kế tiếp để suy nghĩ dựa theo hoặc sợ
hãi hoặc đau khổ, vậy là cả hai sẽ không tồn tại? Chúng
ta sẽ triển khai từ đó chứ? Liệu nó là một thực sự,
không như một ý tưởng, nhưng một sự việc mà chính bạn
đã tự-khám phá và vì vậy thực sự, vậy là bạn có thể
nói, ‘Tôi đã khám phá rằng tư tưởng nuôi dưỡng cả vui
thú lẫn sợ hãi’? Bạn đã trải qua những hưởng thụ về
tình dục, vui thú; sau đó bạn suy nghĩ về nó trong hình ảnh,
những hình ảnh của suy nghĩ, và chính suy nghĩ về nó tạo
ra sức mạnh cho vui thú đó, mà lúc này là hình ảnh của
tư tưởng, và khi cái đó bị cản trở liền có đau khổ,
lo âu, sợ hãi, ghen tuông, bực dọc, tức giận, tàn ác. Và
chúng ta không đang nói rằng bạn không được có vui thú.
Hạnh
phúc không là vui thú; ngây ngất không được tạo ra bởi
tư tưởng; nó là một việc hoàn toàn khác biệt. Bạn có
thể bắt gặp hạnh phúc hay ngây ngất chỉ khi nào bạn hiểu
rõ bản chất của tư tưởng, mà nuôi dưỡng cả vui thú lẫn
sợ hãi.
Vậy
là câu hỏi nảy sinh: Liệu người ta có thể kết thúc tư
tưởng? Nếu tư tưởng nuôi dưỡng sợ hãi và vui thú –
bởi vì nơi nào có vui thú phải có đau khổ, mà là điều
quá hiển nhiên – vậy thì người ta hỏi chính mình: Liệu
tư tưởng có thể kết thúc? – mà không có nghĩa sự kết
thúc của nhận biết vẻ đẹp, thưởng thức vẻ đẹp. Nó
giống như thấy vẻ đẹp của một đám mây hay một cái cây
và thưởng thức nó trọn vẹn, hoàn toàn, tổng thể; nhưng
khi tư tưởng tìm kiếm để có cùng trải nghiệm đó vào
ngày mai, cùng sự thú vị mà nó đã có ngày hôm qua khi thấy
đám mây đó, cái cây đó, bông hoa đó, khuôn mặt của cái
người đẹp đẽ đó, vậy thì nó mời mọc sự thất vọng,
đau khổ, sợ hãi, và vui thú.
Vì
vậy liệu tư tưởng có thể kết thúc? Hay đó là một câu
hỏi hoàn toàn sai lầm? Nó là một câu hỏi sai lầm bởi vì
chúng ta muốn trải nghiệm một ngây ngất, một hạnh phúc,
mà không là vui thú. Bằng cách kết thúc vui thú chúng ta hy
vọng chúng ta bắt gặp cái gì đó vô hạn, mà không là sản
phẩm của cả vui thú lẫn sợ hãi. Hãy hỏi tư tưởng có
vị trí nào trong sống, không phải làm thế nào tư tưởng
sẽ được kết thúc? Sự liên quan của tư tưởng đến hành
động và không-hành động là gì?
Sự
liên quan của tư tưởng đến hành động nơi hành động cần
thiết là gì? Tại sao, khi có sự thưởng thức trọn vẹn
về vẻ đẹp, tư tưởng lại chen vào? Bởi vì nếu nó không
chen vào, lúc đó nó sẽ không được chuyển tiếp sang ngày
mai. Tôi muốn tìm ra – khi có sự thưởng thức trọn vẹn
về vẻ đẹp của một hòn núi, của một khuôn mặt đẹp,
một dải nước – tại sao tư tưởng phải chen vào đó và
đưa ra một biến dạng cho nó và nói, ‘Tôi phải có vui thú
đó lại vào ngày mai’. Tôi phải tìm ra sự liên quan của
tư tưởng trong hành động là gì; và phải tìm ra liệu tư
tưởng có cần can thiệp khi không có nhu cầu của tư tưởng
gì cả. Tôi nhìn thấy một cái cây đẹp, không có một chiếc
lá nào cả, tương phản với bầu trời; nó đẹp lạ lùng
và từng đó đủ rồi – chấm dứt. Tại sao tư tưởng phải
chen vào và nói, ‘Tôi phải có cùng thú vị đó vào ngày
mai’? Và tôi cũng hiểu rằng tư tưởng phải vận hành trong
hành động. Kỹ năng trong hành động cũng là kỹ năng trong
tư tưởng. Vậy là, sự liên quan thực sự giữa tư tưởng
và hành động là gì? Như nó là, hành động của chúng ta
được đặt nền tảng trên những khái niệm, những ý tưởng.
Tôi có một khái niệm hay ý tưởng về điều gì nên được
làm và điều gì được làm là sự phỏng chừng đến khái
niệm, ý tưởng đó, đến lý tưởng đó. Vậy là có một
phân chia giữa hành động và khái niệm, lý tưởng, ‘cái
nên là’; trong phân chia này có xung đột. Bất kỳ sự phân
chia nào, phân chia tâm lý, phải nuôi dưỡng xung đột. Tôi
đang tự-hỏi mình, ‘Sự liên quan của tư tưởng trong hành
động là gì?’ Nếu có sự phân chia giữa hành động và
ý tưởng vậy thì hành động là không-trọn vẹn. Có một
hành động mà trong đó tư tưởng thấy cái gì đó ngay tức
khắc và hành động ngay tức khắc để cho không có một ý
tưởng, một học thuyết sẽ bị hành động một cách tách
rời hay không? Có một hành động mà trong đó ngay đang thấy
là hành động – mà trong đó ngay đang suy nghĩ là hành động
hay không? Tôi thấy rằng tư tưởng nuôi dưỡng cả sợ hãi
lẫn vui thú; tôi thấy rằng nơi nào có vui thú có đau khổ
và thế là kháng cự với đau khổ. Tôi thấy điều đó rất
rõ ràng; đang thấy về nó là hành động tức khắc; trong
đang thấy về nó được bao gồm tư tưởng, hợp lý, và suy
nghĩ rất rõ ràng; tuy nhiên đang thấy về nó là tức khắc
và hành động là tức khắc – vì vậy có sự tự do khỏi
nó.
Chúng
ta đang chuyển tải lẫn nhau chứ? Theo từ từ, nó khó khăn
lắm. Làm ơn đừng nói vâng dễ dàng như thế. Nếu bạn nói
vâng, vậy thì khi bạn rời sảnh này bạn phải được tự
do khỏi sợ hãi. Nói vâng của bạn chỉ là một khẳng định
rằng bạn đã hiểu rõ bằng từ ngữ, bằng trí năng, và
vì vậy không là gì cả. Sáng nay bạn và tôi ở đây để
tìm hiểu vấn đề của sợ hãi, và khi bạn rời sảnh này,
phải có sự tự do hoàn toàn khỏi nó. Điều đó có nghĩa
bạn là một con người tự do, một con người khác hẳn, được
thay đổi hoàn toàn – không phải ngày mai, nhưng ngay lúc này;
bạn thấy rất rõ ràng rằng tư tưởng nuôi dưỡng cả sợ
hãi lẫn đau khổ; bạn thấy rằng tất cả những giá trị
của bạn đều được đặt nền tảng trên sợ hãi và vui
thú – luân lý, đạo đức, xã hội, tôn giáo, tinh thần.
Nếu bạn nhận biết sự thật của nó – và muốn thấy
sự thật của nó bạn phải tỉnh táo lạ thường, một cách
hợp lý, một cách lành mạnh, một cách thông minh đang quan
sát mỗi chuyển động của tư tưởng – vậy thì chính nhận
biết đó là hành động tổng thể và vậy thì bạn hoàn toàn
vượt khỏi nó; ngược lại bạn sẽ nói, ‘Làm thế nào
tôi sẽ được tự do khỏi sợ hãi vào ngày mai?’
Người
hỏi: Không có sợ hãi tự phát hay sao?
Krishnamurti:
Bạn sẽ gọi đó là sợ hãi hay sao? Khi bạn biết lửa cháy,
khi bạn thấy một vách núi đứng, nhảy thoát nó là sợ hãi?
Khi bạn thấy một con thú hoang, một con rắn, bạn thối lui,
đó là sợ hãi? Hay nó là thông minh? Thông minh đó có lẽ
là kết quả của tình trạng bị quy định, bởi vì bạn đã
bị quy định đến những nguy hiểm của vách núi đứng, bởi
vì nếu bạn không làm theo bạn có thể bị rơi xuống vực
và việc đó có nghĩa là kết thúc. Thông minh của bạn bảo
bạn hãy cẩn thận; thông minh đó là sợ hãi à? Nhưng nó
là thông minh mà vận hành khi chúng ta tự-phân chia chính chúng
ta thành những quốc tịch, thành những nhóm tôn giáo? Khi chúng
ta tạo ra sự phân chia này giữa bạn và tôi, chúng ta và chúng
nó, đó là thông minh à? Cái đang vận hành trong phân chia đó,
mà tạo ra nguy hiểm, mà phân chia con người, mà mang lại chiến
tranh, đó là thông minh đang vận hành hay đó là sợ hãi? Đó
là sợ hãi, không phải thông minh. Nói cách khác, chúng ta đã
tự-phân chia chính chúng ta; một phần của chúng ta hành động,
nơi cần thiết, một cách thông minh, như trong việc tránh một
vách núi đứng, hay một xe buýt đang chạy qua; nhưng chúng
ta lại không đủ thông minh để thấy những nguy hiểm của
chủ nghĩa quốc gia, những nguy hiểm của sự phân chia giữa
những con người? Vậy là, một phần của chúng ta – một
phần rất nhỏ của chúng ta – là thông minh, phần còn lại
của chúng ta không là. Nơi nào có sự phân chia, phải có xung
đột, phải có đau khổ; chính bản thể của xung đột là
sự phân chia, sự mâu thuẫn trong chúng ta. Mâu thuẫn đó là
không được hòa hợp. Nó là một trong những đặc điểm
lạ thường rằng chúng ta phải tự-hòa hợp chính chúng ta.
Tôi không biết nó thực sự có nghĩa gì. Ai đang hòa hợp
hai bản chất bị đối nghịch, bị phân chia? Bởi vì chính
người hòa hợp không là thành phần của sự phân chia đó
hay sao? Nhưng khi người ta thấy tổng thể của nó, khi người
ta có sự nhận biết về nó, mà không có bất kỳ sự chọn
lựa nào – không còn phân chia.