Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. “Dưới Những Tia sáng Cuối cùng của Mặt trời, Những dòng nước là Màu sắc của Những Bông hoa Mới nở”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8601)
14. “Dưới Những Tia sáng Cuối cùng của Mặt trời, Những dòng nước là Màu sắc của Những Bông hoa Mới nở”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 2

 KRISHNAMURTI Ở ẤN ĐỘ

1947 – 1949

CHƯƠNG 14

“Dưới Những Tia sáng Cuối cùng của Mặt trời, Những dòng nước là Màu sắc của Những Bông hoa Mới nở.”

N

ăm 1949, Krishnaji sẽ khám phá chất lượng đặc biệt thuộc môi trường sống của Ấn độ: sự hoành tráng của những con sông, những hòn núi, và vùng quê của nó; những khu nhà tồi tàn, sự nghèo đói, và sự đau khổ của nó; và bụi bặm của những con đường mòn trên đó những bậc hiền nhân và những người tìm kiếm đã rảo bước trong hàng thế kỷ. Anh đang dò dẫm vào cái trí Ấn độ mà đã ngủ quên trong những trừu tượng và đã hài lòng trong những ý tưởng; anh đang phát triển mãnh liệt sự nhận biết về những cái bóng mà tách rời ý tưởng khỏi hành động.

 Từ Delhi anh đi bằng xe lửa đến Varanasi. Một người đàn ông ở chung cabin tàu của anh, quan tâm đến chết và những hiện tượng thuộc thân thể, hỏi anh về sự thật của chết và về sự tiếp tục. Khi xe lửa ngừng tại một nhà ga địa phương, một việc lý thú xảy ra.

 “Xe lửa đã ngừng,” Krishnaji nói, “và ngay lúc đó, một chiếc xe hai bánh to đang chạy qua, được kéo bởi một con ngựa. Trên xe là một xác chết, được gói chặt trong một miếng vải trắng tinh và buộc vào hai cọc bằng tre xanh dài, vừa mới chặt. Từ ngôi làng nào đó xác chết đang được mang đến sông để hỏa thiêu. Khi chiếc xe ngựa di chuyển qua con đường gập gềnh xác chết bị chao đảo tàn nhẫn, và dưới miếng vải chắc chắc cái đầu đang nhận được những tang thương nhất. Chỉ có một hành khách trong chiếc xe bên cạnh người chủ xe; anh ấy phải là một người bà con gần, bởi vì hai mắt của anh đang đỏ hoe vì khóc lóc. Bầu trời xanh lạt của đầu xuân và trẻ em đang chơi đùa và la hét trong bụi bặm của con đường. Chết phải là một cảnh thông thường, bởi vì mọi người đều tiếp tục với điều gì họ đang làm. Ngay cả người tìm hiểu về chết cũng không thấy chiếc xe và gánh nặng của nó.”

 Ngôi nhà Krishnaji sống tại Rajghat ở Varanasi, thành phố rực sáng bởi sự hành hương, được xây dựng trên khu Kasi cổ trên vùng đất cao gần Sangam, nơi nhập lại của những con sông Ganga và Varuna. Chính là nơi đây, tại nơi thiêng liêng nhất của chuyến hành trình ra biển của nó, con sông bẻ một vòng rất đẹp và chảy về hướng bắc đến nguồn của nó. Nơi đây gần cảnh cổ xưa của ngôi đền Adi Kesava mà Buddha, khi đã đạt được sự khai sáng tại Bodh Gaya, có thể đã băng qua con sông này, đi bằng phà, để đặt chân lên bờ sông. Theo con đường cổ xưa của những người hành hương này, Buddha đã đi đến cánh rừng săn hươu nai tại Sarnath để giảng bài pháp đầu tiên của ngài. Con sông Varuna rẽ nhánh, phân chia vùng Varanasi đô thị khỏi vùng nông thôn.

 Qua hàng thế kỷ những người thấy của mảnh đất này đã đến hai bờ của sông Ganga và để lại hạt giống những lời giảng của họ nằm im lìm trong đất. Buddha, Kapila Muni, Adi Shankara – những người thầy vĩ đại này đã ngồi dưới bóng râm của những cây nhiều mấu cổ xưa, trên ghats bậc sông hay dọc theo bờ sông. Những ngôi làng có những cái tên mang bằng chứng cho sự hiện diện của họ.

 Một thành phố nổi tiếng vì sự học hànhtìm kiếm, vì thái độ hoài nghingờ vực và sự tài giỏi lỗi lạc của cái trí duy vật biện chứng, chính ở Kasi mà Adi Shankara đã đến để thiết lập uy quyền tối cao của ông. Qua nhiều thế kỷ những người đả phá tôn giáo đã tràn lan qua thành phố, phá hoại những ngôi đền và những điện thờ; nhưng hạt giống của nghi ngờ, của tìm hiểu, và bản thể của những lời giảng vĩ đại, mà không có tại đền thờ hay trong bất kỳ quyển sách nào, đã được giữ gìn bởi những người nghiên cứu và những giáo sĩ. Trong những hội nghị bí mật, họ giữ chúng sinh động và nhắc nhở những tinh túy của một trí tuệ bất diệt. Dọc theo hai bờ sông này sự đối thoại và một dò dẫm vào “phía bên trong” của thiên nhiên và cái trí đã phát triển.

 Những cây xoan và cây xoài, cây bần đang nở hoa và cây đa mọc trên hai bờ sông Ganga thiêng liêng. Những tàn tích của đền thờ và ashrams thiền viện bị mọc che kín bởi cỏ may và những cây leo dại. Mỗi bình minh Krishnaji đứng trong bóng tối trên hàng hiên ngôi nhà của anh và nhìn ngắm lửa vào mặt trời đang mọc, đang sáng tạo thế giới mới mẻ lại. Một cái thuyền đã trôi qua, những cánh buồm của nó đã giương lên. Những xác chết trương lên – con ngườithú vật, những con kên kên đang đậu nghỉ ngơi trên thân thể của họ – được mang đi bởi những dòng nước. Mọi thứ đang chuyển động chầm chậm, an bình; những dòng nước gió mùa đã chấm dứt cơn cuồng nộ và tàn phá của nó, những dòng nước giống như những người nghèo khổ đã sống bên hai bờ sông đều có phẩm giá, dù gánh nặng của chúng đến chừng nào.

 Achyut và Rao Sahib Patwardhan, Maurice Friedman, Sanjeeva Rao, Nandini, và tôi cùng Radhika, người con gái mười tuổi của tôi, đều ở Varanasi. Mỗi buổi chiều chúng tôi dạo bộ cùng Krishanji trên con đường của những người hành hương. Những bông hoa trắng của những cây bần làm ranh giới cho con đường và hai bờ sông đã tỏa ra hương thơm của nó, và những bông hoa nở rộ thật đẹp nằm dưới bàn chân của chúng tôi. Những trận mưa rất to; con sông đã tràn qua hai bờ và cây cầu làm bằng tre và đất nung lung lay đã bị gẫy trong những tháng khô hạn vẫn chưa được dựng lên. Chúng tôi phải băng qua cầu bằng phà, được chèo hết sức bởi người lái đò. Ý nghĩa của nhịp điệu không bao giờ thay đổi được phơi bày ở Kasi. Một ý thức cổ xưa lan tràn mảnh đất và con người. Quá khứ vô tận trong khuôn mặt những người lái đò có nước da đen mềm mại được phản chiếu trên những dòng nước, những người đàn bà đang đội những bình nước trên đầu của họ, người dân chài đang quăng lưới.

 Một buổi chiều, một tá em nhỏ và những con dê đứng cùng những người chăn dê, đang chờ phà trên bờ sông. Krishnaji ôm lấy một con dê con, cử chỉ thật mau lẹ, tự nhiên; cú nhảy vào thuyền của anh rất chính xác và gọn gàng; đám trẻ cười khi thấy con dê bé tí vẫy đuôi và dịu dàng rúc vào người lạ. Chúng tôi qua sông và con dê con kêu be be đòi mẹ.

 Thấy một hòn đá trên đường, Kishnaji sẽ nhặt nó lên để nó không gây thương tích cho những bàn chân đất của một người dân làng. Anh rất tỉnh táo, lắng nghe những âm thanh của con sông, nhìn ngắm con người đi qua, những dòng nước, cây cối, chim chóc, và những con chó ở làng đang sủa liên tục. Anh sẽ im lặngchúng tôi sẽ im lặng cùng anh.

 Vào một trong những dạo bộ anh nói. “Con người hiện diện, bởi vì anh ấy có liên hệ; nếu không có sự liên hệ, con người không hiện diện. Muốn hiểu rõ về sống bạn phải hiểu rõ về chính mình trong hành động, trong liên hệ với con người, tài sản, và những ý tưởng.”

 Anh quay lại và chỉ vào con sông đang chảy và sau đó vào một cây đa cổ thụ. “Hầu hết chúng ta đều không nhận biết được sự liên hệ của chúng ta với thiên nhiên. Khi chúng ta thấy một cái cây chúng ta thấy nó bằng một quan điểm lợi ích thiết thực – làm thế nào đến được bóng mát của nó, làm thế nào sử dụng được gỗ của nó. Tương tự, chúng ta cư xử với quả đất và những sản phẩm của nó. Không có tình yêu quả đất, chỉ sử dụng quả đất. Nếu chúng ta thương yêu quả đất, sẽ có tiết kiệm những sự vật của quả đất. Chúng ta đã mất đi ý thức của hòa nhã, của nhạy cảm. Chỉ trong mới mẻ lại ý thức đó, chúng ta có thể hiểu rõ sự liên hệ là gì. Nhạy cảm không hiện diện bằng cách treo một vài bức tranh hay cắm một vài bông hoa trên mái tóc bạn. Nó chỉ hiện diện khi thái độ lợi ích thiết thực không còn nữa. Vậy là bạn không còn phân chia quả đất, vậy là bạn không còn gọi quả đất này là quả đất của bạn hay quả đất của tôi.”

 Krishnaji tổ chức những nói chuyện trước công chúng tại Kammacha ngay trung tâm thành phố. Giống như trong tất cả những nói chuyện của anh, những người tham dự là những thầy tu Phật giáo, những khất sĩ, những người hiến dâng từ Tổ chức Thông thái mà vẫn coi Krishnaji như người Thầy Thế giới, những du khách, những người giáo dục, và rất nhiều người trẻ mà đến đó vì hiếu kỳ. Những người uyên bác vĩ đại của Varanasi, đắm chìm trong truyền thống học hành, những người ngữ pháp và những yogi và những người hiến dâng, cũng ở đó để lắng nghe người thầy này mà khước từ tất cả những hệ thống và tất cả những đạo sư. Không có nhiều bàn luận được thực hiện, bởi vì những khó khăn về ngôn ngữ, nhưng Rao và Achut ở đó làm công việc thông dịch.

 Krishnaji có vô số những bàn luận cùng những hội viên của Rishi Valley Trust, những người điều hành những trường học ở Varanasi. Chúng tôi bàn luận về vị trí của uy quyền và sự sợ hãi trong giáo dục. Krishnaji bày tỏ sự không hài lòng của anh với cách tiếp cận để điều hành những học viện thuộc giáo dục và chất lượng của những giáo viên tại Rajghat. Không ai hoàn toàn hiểu rõ việc gì phải được thực hiện. Học giả Iqbal Narain Gurtu, một công dân được kính trọng nhiều của Varanasi, người nhiều năm đã gắn kết với công việc của Mrs. Besant và sau đó những trường học của Krishnaji, rất sợ hãi sự thay đổi. Ông đã kiên trì không chấp nhận sự thay đổi và tuyên bố rằng bất kỳ thay đổi quyết liệt sẽ dẫn đến thảm kịch. Uttar Pradesh cũng rất cổ hủ, cố chấp. Chỉ sự thay đổi dần dần là có thể được. Tuy nhiên, từ ngữ “dần dần” không tồn tại trong tự điển của Krishnaji; hành động là tức khắc, nảy sinh từ thấy sự kiện của “cái gì là”. Thế là có những gặp gỡ kéo dài lê thê.

 Rishi Valley Trust đang bị lay động đến tận những gốc rễ của nó. Những hội viên, nhận biết được sự quan tâm của Krishnaji đến tình trạng của những học viện, đệ trình những từ chức của họ và một nhóm hội viên mới được tuyển lựa.

 Năm 1948 Rishi Valley Trust gồm có hai học viện độc lập – một trường của trẻ em tại Rajghat, một trường của nam sinh và một trường cao đẳng của phụ nữ trong thành phố Kammacha, bên trong khu vực của Tổ chức Thông thái. Một khu giáo dục khác đã được thành lập cuối phía nam tại Rishi Valley ở Andhra Pradesh, nơi Subba Rao là người đứng đầu của trường địa phương đồng giáo dục. Subba Rao, một người hiến dâng có khả năng đánh thức sự thương yêutrung thành trong số những học sinh của ông, đã xây dựng ngôi trường bằng sự đơn giản khổ hạnh. Sự vắng mặt của Krishnaji trong nhiều năm, và không có một hướng dẫn rõ ràng về mục đích của ngôi trường, đã dẫn đến một thoái hóa của những tiêu chuẩn tại tất cả những mức độ trong cả hai trường Rishi Valley và Rajghat. Những giáo viên rất tầm thường. Chính phủ cho phép một cách giới hạn mọi linh động hay khả năng thay đổi. Quyền lợi bất di bất dịch được kiên cố bảo vệ và được quyết định để thấy rằng tình trạng hiện nay phải được tiếp tục.

 Vào tháng mười khi anh từ Varanasi trở lại Bombay, Krishnaji ở tại nơi cư trú của tôi, Himmat Nivas trên Dongersey Road. Nó là một căn hộ mở rộng bừa bãi có những căn phòng thật rộng và những trần nhà cao. Những không gian có phẩm giá, và Krishnaji phủ kín nó bằng sự hiện diện của anh; một yên tĩnh vẫn quanh quẩn ngay cả khi anh vắng mặt.

 Nhiều người khách đến gặp Krishnaji. Trong số họ là Morarji Desai, lúc đó là bộ trưởng tài chánh của Bombay, một tiểu bang tại thời điểm đó gồm cả Gujarat và Maharashtra. Krishnaji và ông bàn luận về những quyển sách thiêng liêng của Ấn độ. Nhận biết được một thiển cận và tự mãn nào đó cùng một thái độ “thánh thiện hơn anh” trong Morarjibhai,[14] Krishnaji nói rằng anh không đọc Bhagavad Gita và những quyển sách thiêng liêng chẳng có ích lợi gì cả. Morarjibhai kinh hãi, và sau đó bảo với tôi rằng ông không có ấn tượng gì cả.

 Lúc này Krishnaji cảm thấy mạnh mẽ rằng hoàn cảnh đang tồn tại của Rishi Valley Trust và những ngôi trường ở Rajghat không nên được cho phép tiếp tục. Tại một gặp gỡ vào ngày 8 tháng hai năm 1949, Krishnaji sẽ nói, “Một trường học được sinh ra từ sự xung đột không thể sáng tạo. Sự nhất quán trong những người làm việc là cốt yếu. Trường học nên được nhìn như một cơ quan tổng thể. Nên có sự quan tâm đến làm thế nào để khiến cho trung tâm được sinh động. Một trung tâm chết rồi chỉ có thể sản sinh những học viện chết rồi. Nếu con người thực sự hứng thú, Rajghat không thể tồn tại như tình trạng hiện nay.”

 Chính tại gặp gỡ này mà mọi người đã quyết định rằng Rao Sahib Patwardhan sẽ đi làm việc tại Rajghat. Ông đến đó vài tháng sau. Tình hình cần đến sự nhổ bật gốc rễ bám chặt của những cấu trúc cố định, thuộc tinh thần lẫn vật chất. Rajghat cần một nổ tung. Nhưng Rao Sahib lại do dự. Hoặc ông đã không tha thiết chuẩn bị để xác định rõ vấn đề, trao cho nó năng lượng tập trung duy nhấttình hình đòi hỏi, hoặc ông không biết làm thế nào để chặn đứng vấn đề. Cái trí của ông, bị trói buộc trong những cấu trúc, tìm kiếm những thay thế. Ông không nhận biết được rằng phủ nhận tình hình đang tồn tại sẽ mở tung cái mới mẻ. Năng lượng, cùng sự đam mê thúc đẩy của nó, và một tầm nhìn trung thành được cần đến tại Rajghat. Rao Sahib có nhiều bạn bè, ông nồng nhiệt và chí tình, mọi người thương yêu ông; Iqbal Narain Gurtu, một người cao niên cứng cỏi của Rajghat, là người bạn thân của ông. Nhưng cái gì đó trong sống cá nhân của ông, hay sự không khả năng để từ bỏ những lý tưởng của ông và sống trong không-chắc chắn, đã khiến cho bất kỳ hành động sáng tạo nào đều trở thành không thể được. Vào cuối năm Rao Sahib quay lại Poona, và Rajghat tiếp tục là một cái gương của sự trì trệ mà đã giam cầm Varanasi trong hàng thế kỷ.

 Một buổi sáng đầu năm 1949 một hình bóng nhỏ nhắn đầu cạo trọc lóc trong chiếc áo cà sa rung chuông tại cửa nhà Himmat Nivas. Cô xưng danh tánh là Chinmoyee. Người hầu ra mở cửa không thể nói liệu đó là một cậu trai hay một cô gái, và đến gặp tôi nói rằng một người tu hành đang chờ tại cửa. Biết rõ tình cảm đặc biệt của Krishnaji đối với người khất sĩ và chiếc áo cà sa, tôi nói lại với Krishnaji và anh gặp Chinmoyee ngay tức khắc. Cô sẽ quay lại sau.

 Câu chuyện về sống của cô tượng trưng cho một khía cạnh quan trọng của một trong những đặc điểm của Ấn độ, trong đó tinh thần cách mạngtôn giáo hòa nhập. Chinmoyee, tên gốc là Tapas, đến từ một gia đình của những người cách mạng Bengal. Người cha và người anh của cô đã chết trong tù. Người mẹ của cô làm việc trong một trung tâm giáo dục và nuôi nấng hai người con gái của bà. Theo người bạn thân nhất của Tagas, “Cô là một người toán học xuất sắc và một sinh viên đam mê thiên văn học.”

 Sau khi tốt nghiệp, trong một khoảng thời gian cô là nữ hiệu trưởng của Sister Nivedita School ở Calcutta. Cô luôn luôn muốn theo một sống tôn giáo, và sau cái chết của người mẹ, lúc ba mươi bốn tuổi cô rời nhà để tìm kiếm một đạo sư khất sĩ. Cô trải qua một thời gian ở Ramakrishna Mission, và sáu tháng ở tu viện của Anandmai Ma. Lối sống trong những nơi này không thỏa mãn cô. Cô dành thời gian ở Varanasi gặp gỡ những người uyên bác như Gopinath Kaviraj và Gobind Gopal Mookherjee.

 Chính tại thời gian này mà cô gặp vị thánh uyên bác vĩ đại của Bengal, Anirvanji. Ông đồng ýđạo sư khất sĩ của cô và đặt tên cô là Chinmoyee. Suốt bốn năm kế tiếp cô ở cùng ông, đầu tiên giúp đỡ ông trong công việc dịch thuật quyển Vedas, và sau đó quyển Life Divine Sống Thiêng liêng của Shri Aurobindo qua tiếng Bengali. Tiếp theo họ sống ở Almora, ở Uttar Pradesh. Do bởi liên quan đến sự gây quỹ cho việc xuất bản những tác phẩm của Anirvanji mà cô đi đến Bombay. Một người bạn gợi ý cô đi nghe Krishnamurti, lúc đó đang thực hiện những nói chuyện ở Bombay. Cô đến nghe anh và tìm kiếm một phỏng vấn.

 Phỏng vấn đó dường như đã thay đổi toàn thân tâm của cô – chắc chắn nó đã thay đổi toàn sống của cô. Quay lại Almora, cô tiến tới để sắp xếp những công việc cho Anirvanji; và ngay khi cô chuyển những trách nhiệm của cô cho một người khác, cô rời ông. Cô lấy lại tên cũ của cô, Tapas, và từ bỏ chiếc áo cà sa.

 Hoàn toàn một mình, mùa hè đầu tiên đó sự thôi thúc phía bên trong nào đó đã thúc giục cô thực hiện một chuyến đi đến Kailash và Manasarovar Lake ở Tây tạng, những nơi thiêng liêng của hành hương. Kailash, một hòn núi có hình chóp, được nghĩ là chỗ ở của Shiva hoàng hậu của Parvati. Manasarovar Lake nằm ở một phía của Kailash. Những dòng nước trong xanh của cái hồ này rất êm đềm, và những con thiên nga thần thoại được tin tưởng đã xuất hiện trên những dòng nước này. Chuyến hành trình đến Kailash nguy hiểm vô cùng. (Lộ trình đến Kailash từ phía Tibet vừa mới được mở cửa cho những người hành hương bởi chính phủ Trung quốc.) Một mình và không ai theo cùng, cô bắt đầu một chuyến hành trình nguy hiểm nhất qua những cái đèo cao 18.000 feet, tham gia cùng một nhóm những người hành hương chỉ khi nào cô không được phép đi một mình.

 Năm 1950 cô quay lại gặp Krishnaji. Cô không thể nhận ra được: Mặc một pymamakurta trắng, mái tóc đốm bạc đã làm tăng chiều dài của vai. Cô tiến đến Krishnaji và nói, “Tôi đã đến.” Anh trả lời, “Tốt”; và từ từ cô trở thành bộ phận của những người chung quanh anh.

 Trong những năm sắp tới cô sẽ đi đến mọi vùng đất của Ấn độ nơi Krishnaji nói chuyện: cuối cùng cô bắt đầu chăm sóc tủ quần áo của Krishnaji. Cô sẽ lẻn vào nhà không ai biết và che giấu không ai nhìn thấy – thậm chí đến mức độ núp đằng sau cửa – tháo những hành lý của Krishnaji, giặt và ủi quần áo của anh, sắp xếp chúng trong tủ và làm công việc vặt vãnh loanh quanh. Mặc dù chính cô chỉ mặc quần áo màu trắng, cô đã phát triển một ý thức đẹp về màu sắc. Chính cô khuyên bạn bè mua những loại vải cotton có màu mật tự nhiên và những loại vải lụa có màu vỏ cây kết cấu rõ ràng cho những kurta của Krishnaji. Cô thay đổi tủ quần áo của anh bằng một đôi mắt lạ thường dành cho những gì hiếm hoi và đẹp đẽ. Nhưng cô không chịu chia sẻ với bất kỳ ai về vai trò của cô. Sự vô trật tự nhỏ nhiệm nhất trong căn phòng được sửa chữa và những người giúp việc có liên quan đều bị nói rất nghiêm khắc. Họ coi cô như một người khủng bố; nhưng Tapas, là một khất sĩ, đã xóa sạch mọi cáu kỉnh, tức giận bên trong họ. Họ chạm hai bàn chân của cô và tiếp tục công việc. Cô ngồi suốt những bàn luận nhưng không bao giờ tham gia, mặc dù những người bạn của cô kể cho tôi rằng cô có sự hiểu rõ thăm thẳm về lời giảng và thường nói chuyện cùng những nhóm nhỏ bất kỳ nơi nào cô đi đến.

 Khi Krishnaji không ở Ấn độ cô sẽ biến mất một mình vào trong rừng, không sợ hãi – trong truyền thống của nhiều thế kỷ, cô là một người lang thang. Không thể xác định tuổi tác của cô. Trong hai mươi năm tôi biết cô, hầu như cô không có dấu hiệu già đi. Cuối cùng cô ngã bệnh bởi một căn bệnh không thể chẩn đoán được. Thân thể của cô dần dần gầy mòn đi, và cô chết vì một cơn đau tim năm 1976.

 Những vấn đề của Nandini với người chồng, Bhagwan Mehta, đang tiến đến sự khủng hoảng. Một vài tháng sau gặp gỡ Krishnaji, cô đã bảo với người chồng của cô rằng cô thích sống độc thân. Chắc chắn, tình huống đã nổ tung. Sir Chunilal Mehta bị bối rối, bị dày vò giữa người con trai của ông và đạo sư của ông; bởi vì nó hoàn toàn được tin tưởng rằng lời giảng của Krishnaji đã gây ảnh hưởng cho Nandini và dẫn em đến việc kết thúc sự tiếp xúc về thân thể với người chồng của em. Người ta nghĩ rằng Nandini không chín chắndự định của em được sinh ra từ sự không chín chắn đó. Sir Chunilal tìm kiếm sự can thiệp của Krishnaji, hy vọng rằng Krishnaji sẽ thuyết phục Nandini thay đổi quyết định của em; hay, nếu được cho thời gian cùng sự vắng mặt của Krishnaji, quyết định thất thường của Nandini sẽ thay đổi. Nhưng tình hình không thể được lắng dịu.

 Tôi không có ý định tìm hiểu những bất hòa hôn nhân mà sẽ dẫn đến một bùng nổ trong nhà của em tôi. Nhưng tình hình đã dẫn đến những xì xầm và bàn tán, và “những người thượng lưu” trong thành phố chính rộng lớn này bị khích động. Những người đàn ông bắt đầu nhìn lại những người vợ, những gia tộc vây quanh. Những đôi mắt của những người cư ngụ ở Malabar Hill hướng về phía ngôi nhà to lớn rời rạc trên Ridge Road, được tô điểm bởi những biểu hiện bên ngoài của một người buôn bán giàu có, giàu có trong nhiều thế hệ, nơi những người đàn bà che kín mặt và ca hát bị cấm đoán. Lady Chunilal, mẹ chồng của Nandini, là một bà già khô khan với cái miệng ngậm chặt và đay nghiến và ít mở lời. Sau hôn nhân của em, bà đã bảo với Nandini rằng một tiếng nói của một người đàn bà không nên được nghe rõ, và rằng em không được phép cười; em có thể cười miễn là răng của em không được phô ra. Trên tất cả, đôi mắt của thành phố hướng về Krishnamurti.

 Vào đêm có lễ hội Holi, khi những ngọn lửa đã được thắp sáng, tình thế giữa người chồng và người vợ bùng nổ. Con cái của em bị tách khỏi em, và Nandini chạy trốn. Nửa đêm em đến nhà mẹ tôi, cách nhà của Sir Chunilal Mehta khoảng một trăm yard. Bị thâm tím trên thân thể và tan nát trong tinh thần, đau khổ bởi sự mất mát con cái của em, sáng hôm sau em đến gặp Krishnamurti.

 Đã thu xếp đi trong vài ngày tới, K bảo em, “Hãy đứng một mình. Nếu bạn đã hành động từ những chiều sâu của hiểu rõ về chính mình, bởi vì trong chính bạn bạn đã cảm thấy rằng điều gì bạn đã làm là đúng đắn, vậy thì quăng bạn vào sự sống. Nước của nó sẽ giữ bạn, mang bạn, và nuôi bạn. Nhưng nếu bạn đã bị tác động, vậy thì Thượng đế giúp bạn. Người đạo sư đã biến mất.”

 Nandini không có tiền bạc gì cả. Con cái đã bị tách khỏi em và em chẳng có bao nhiêu sự nâng đỡ, bởi vì cha tôi đã chết. Em phải hoặc quay lại người chồng, hoặc ly thân và đối diện những hậu quả. Mẹ tôi, đang vật lộn bởi những biến cố hủy hoại bà, đến gặp Krishnamurti và kể với anh về gánh nặng mẹ cảm thấy không thể mang nổi. Anh bảo mẹ buông bỏ những gánh nặng của bà đi. Họ là trách nhiệm của anh. Mẹ khóc, nhưng những từ ngữ của anh đã dập tắt những sợ hãi của mẹ.

 Ý thức được những hậu quả sẽ xảy ra tiếp theo bất kỳ chuyển động nào của sự ly thân hợp pháp, tôi đến gặp Krishnaji và bảo với anh rằng mặc dù Nandini đã quyết định không bao giờ quay lại ngôi nhà cũ, dù ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng không bao giờ có thể cho phép bất kỳ hành động hợp pháp nào, mà sẽ cần thiết để ổn định vấn đề trông nom con cái. Tôi nói rằng do bởi người chồng của Nandini không có lý do nào khác, tên của Krishnaji chắc chắn được đề cập vì đã tác động Nandini trong hành động từ chối tình dục của em. Anh nhìn tôi lâu lắm và sau đó hỏi, “Bạn đang cố gắng bảo vệ tôi?” Rồi anh dơ hai tay lên trong một cử chỉý nghĩa. “Có những hiện diện to tát hơn bảo vệ tôi. Đừng chùn bước, hãy làm điều gì là đúng cho Nandini và những đứa trẻ. Trẻ em quan trọng hơn. Không đặt thành vấn đề liệu cô ấy thắng hay thua, hãy chiến đấu.”

 Chẳng mấy chốc Nandini làm đơn kiện người chồng để có sự ly thân hợp pháp và quyền chăm sóc con cái, trên chứng cớ bạo lực. Con gái của em chín tuổi, cậu con trai lớn bảy tuổi, và cậu út ba tuổi. Vụ kiện bắt đầu vào mùa thu năm 1949. Trước lúc đó Krishnaji đã từ Ojai quay lại – đầu tiên đến Madras, và sau đó anh ở Ceylon và rồi Rajamundry, Andhra Pradesh. Những đoạn văn dài từ những nói chuyện trước công chúng của Krishnaji được trích dẫn bởi những luật sư của Bhagwan Mehta. Krishnaji đã vạch rõ trong những nói chuyện tại Bombay và Poona về sự đạo đức giả của xã hội Ấn độ, những quan điểm đạo đức của những người thầy tôn giáo và những người chủ gia đình, vị trí thấp kém của những người đàn bà và ngục tù của họ với người chồng và gia đình của họ. Krishnaji đã tha thiết, hăm hở, lo ngại. Nhiều phụ nữ đã tìm kiếm những phỏng vấn với anh ở Bombay, Poona, và Madras và đã bày tỏ sự đau khổ của họ, những khó nhọc của họ, và không khả năng đạp nát để được tự do của họ.

 Những luật sư gắng sức chứng thực sự ảnh hưởng, và sử dụng những lời giảng này để củng cố lập luận của họ. Đó là một tình huống lố bịch. Một người vợ đang kiện người chồng để có sự ly thân hợp pháp và những đoạn văn dài từ những bài giảng tôn giáo đang được sử dụng như bằng chứng.

 Người cha chồng của Nandini, mặc dù ông ủng hộ cậu con trai, không chuẩn bị nói một từ ngữ nào chống lại đạo sư của ông. Khi, trong cuộc đối chất, ông được hỏi liệu ông phản đối sự kết giao của Nandini với Krishnaji, Sir Chunilal Mehta bật dậy khỏi ghế ngồi của ông và nói lớn tiếng, “Không bao giờ, ngài là bậc vĩ đại nhất trong những người vĩ đại.”

 Theo ông chính là Nandini, được phụ giúp và tiếp tay làm bậy của người chị, Pupul Jayakar, mới là những người có lỗi. Ông nói về cách cư xử không đúng phép của Nandini ở Poona. Khi được hỏi, ông nói rằng ở Poona hai chị em cười nhiều và Nandini không che mặt bằng sari của em và cứ quả quyết ngồi phía bên phải của Krishnaji. Cách cư xử của em, theo Sir Chunilal Mehta, đã gây ra sự lo lắng trong số những người lớn tuổi quanh Krishnaji.

 Nhưng suốt phiên tòa không một từ ngữ nào được nêu lên mà gợi ý tà dâm hay không đứng đắn. Sự nhấn mạnh đều tập trung vào ảnh hưởngvai trò của nó đối với cái trí non trẻ không chín chắn.

 Quan toà ở Bombay High Court nghe những biện hộ và những biện bác trong yêu cầu ly thân của Nandini. Quan tòa Weston là một người dân sự ở Bombay, và đối với ông không thể nghĩ rằng có bất kỳ sự bạo lực nào có thể xảy ra trong gia đình nổi tiếng của Sir Chunilal Mehta, K. C. S. I.[15]

 Người cha của tôi, đã sống suốt đời của ông ở nơi lúc đó được gọi là United Provinces, đã chết, và gia đình của ông không được biết đến nhiều lắm ở Bombay. Quan tòa kết luận rằng yêu cầu ly thân vì những lý do bạo lực không được chấp thuận ở High Court của Bombay, và vụ kiện bị bác bỏ. Con cái, dưới sự chăm sóc hiện thời bởi Nandini, được giao trách nhiệm cho người chồng. Chúng tôi gửi một điện tín cho Krishnaji, báo cho anh tin tức. Trong thư trả lời, anh nói, “Bất kỳ việc gì sẽ xảy ra đều đúng.”

 Nhiều nghi ngờ thắc mắc đã nảy ra trong số những người gần gũi Krishnaji rằng liệu anh nên nói chuyện suốt tháng hai và tháng ba năm 1959 ở Bombay. Nandini đã chống án lên Bombay High Court để phản đối quyết định của thẩm phán Weston, và cả thành phố vẫn còn đang xôn xao bởi những lời bàn tán.

 Sau khi bàn bạc với Ratansi Morarji, cuối cùng người ta quyết định rằng Krishnaji nên nói chuyện ở Bombay. Ngày 19 tháng mười hai anh viết. “Vậy là bạn có thể đi và thực hiện những sắp xếp cần thiết. Nếu có thể, không phải một cái sảnh, nhưng một không gian mở, lần này không phải một ngôi nhà của một người giàu có. Liệu không có không gian mở yên tĩnh nào đó, một khu đất dễ chịu, trung tâm và tất cả việc đó? Những cái sảnh khủng khiếp lắm và tôi không cảm thấy thoải mái trong chúng.”

 Tại thời điểm đó, không có không gian mở nào sẵn sàng. Chúng tôi sắp xếp cho những gặp gỡ trước công chúng trên sân hiên cao của Sunderbai Hall, mà mở ra bầu trời. Số người tham dự những gặp gỡ trước công chúng đã gấp đôi, nhưng những người giàu có của xã hội và những người tư bản công nghiệp cùng những người vợ của họ lại vắng mặt khác thường.

 Trong chuyến trở lại Bombay, Krishnaji gặp lại nhiều bạn kết giao cũ. Không có một tình cảm đặc biệt nào trong thái độ của anh với Nandini. Anh gặp em nhiều lần một mình và từ chối cho phép bất kỳ không gian nào trong cái trí của em dành cho tự-thương xót. Anh không ngớt đòi hỏi rằng em phải đối diện với sự kiện là một sống đã kết thúc và em phải tỉnh táo với cái mới mẻ. Nhưng sự quan tâmtừ bi cho con cái của Nandini lại vô bờ bến. Bất kỳ khi nào có thể được, Nandini – người chồng cũ của em không biết – sẽ mang con cái của em đến gặp Krishnaji. Anh sẽ đặt hai bàn tay của anh lên trên hai mắt của cậu con trai lớn, người đã được bác sĩ bảo rằng cậu sẽ không bao giờ trông thấy bình thường nữa, bởi vì hệ thần kinh của một mắt đã không phát triển. Mắt được tốt lại và, trong những năm kế tiếp, Ghanashyan Mehta sẽ lấy bằng tiến sĩ môn kinh tế học của California University tại Berkley, và sau đó sẽ dạy tại Brisbane University, Úc.

 Rao Sahib và Achyut ở Bombay và mỗi sáng đều đến nhà của Ratansi để gặp Krishnaji. Người Thầy quyết định khơi nguồn một thức dậy trong Rao. Một buổi sáng khi chúng tôi tụ họp, Krishnaji nói giữa một bàn luận, “Chúng ta hãy xem thử liệu chúng ta có thể ở trong khoảng ngừng giữa hai suy nghĩ.” Rao trông ngờ vực, Achyut cảnh giác. Krishnaji bắt đầu thách thức cái trí của Rao, đang khước từ cho phép nó tẩu thoát vào những ý tưởng. Krishnaji đang đẩy Rao, đang khóa cái trí, đang ép buộc Rao không làm gì với nó, để thấy “cái gì là.”

 Chúng tôi đang ở trong cùng dòng suối như Rao; sự khước từ cho phép suy nghĩ tẩu thoát, hay thay đổi nó, đã sáng tạo một mãnh liệt của năng lượng trong cái trí. Ngay tích tắc, vì không thể lang thang, vì bị nhốt lại bởi năng lượng của nghi vấn, cái trí buông lỏng và nó đó kìa: sự cân bằng, không-lang thang, sự kết thúc của suy nghĩ, và của ý thức thuộc thời gian như khoảng kéo dài.

 Sự biểu lộ của Rao, mà đã là không-biểu lộ và ương ngạnh trong sự khước từ để được mang đi bởi Krishnaji của nó, bỗng nhiên sáng lên. Khuôn mặt của Rao đã thư giãn và có sự rõ ràng trong hai mắt của anh.

 Krishnaji thực hiện điều này lặp đi lặp lại; phá vỡ những biên giới của ý thức, qua suy nghĩ đang tự-kết thúc nó, đang không tìm được cửa để tẩu thoát.

 Chúng tôi đưa Krishnaji đến Elephanta Caves bằng thuyền máy. Đó là một đêm trăng tròn; một đêm khi sao Hỏa ẩn mình sau mặt trăng trong một phút; để hiện ra lại bằng sự rực rỡ tinh khiết.

 Những tia mặt trời hoàng hôn xuyên thấu và phơi bày những màu sắc bị giam giữ trong đá. Từ ánh sáng nhá nhem của hang động mờ mờ hiện ra khuôn mặt của vị thần ba đầu, cùng những đôi mắt cũng không nhắm lại hay mở ra; những đôi mắt thức dậy cả phía bên trong lẫn phía bên ngoài. Môi dưới đầy đặn và khoái cảm. Từ âm thanh đang cất lên của những bài thánh ca cổ bằng tiếng Phạn, bức tượng đã sáng tạo thiền định của vũ trụ. Krishnaji đứng trước bức tượng, yên lặng rất lâu. Sau đó anh quay lại và nói anh muốn trải qua một đêm trong hang động. Bỗng nhiên Rao Patwardhan bật ra thánh ca của Sankaracharya ca tụng Shiva; “Hiện diện” đó mà là, khi tất cả những chất lượng bị phủ nhận. Krishnaji, bị khích động thăm thẳm bởi chất lượng của âm thanh, đang ở trong một trạng thái của ngây ngất. Khi chúng tôi quay lại thuyền, anh liên tục hỏi Achyut, nó đã đi đâu, năng lượngsáng tạo mà đã thực hiện chất lượng rõ ràng của hình ảnh Maheshmurti?[16] Tại sao Ấn độ đã chết đi tất cả sự sáng tạo?

 Mặt trăng đang lên khi chúng tôi đi bộ về. Trẻ em trong làng đã tụ họp, tặng cho chúng tôi những bông hoa và vòi vĩnh tiền. Krishnaji cố gắng nói chuyện với chúng; chìa cho chúng thấy những cái túi trống không của anh, quay về phía chúng tôi và mong rằng chúng tôi sẽ cho chúng ít tiền. Anh cười với chúng, và cầm tay một em nhỏ, dắt em về phía thuyền. Trên thuyền tất cả chúng tôi cố gắng thấy được sao Hỏa đang ló ra từ phía sau mặt trăng, Krishnaji đến mũi thuyền và cuối cùng thấy nó, một đốm nhỏ xíu. “Nó đó kìa!” Anh la lên đầy phấn khích, như một đứa trẻ.

 Vào những gặp gỡ buổi sáng Krishnaji dò dẫm sâu hơn và sâu hơn và chúng tôi có thể chuyển động cùng anh. Cái trí cảm thấy luôn luôn thay đổi. Tôi nghe những từ ngữ mà không có những phản ứng thuộc từ ngữ – có một trôi chảy của âm thanh, từ ngữ, và nội dung. Thật ra tôi có thể đếm được số lượng của những suy nghĩ nảy ra trong hai tiếng đồng hồ chúng tôi trải qua cùng Krishnaji mỗi buổi sáng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34372)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16876)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22979)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13059)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21974)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22196)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14871)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23592)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24127)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23651)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17151)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19367)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27081)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14429)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13851)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14760)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17366)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12687)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13877)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10417)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14715)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17206)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12554)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12722)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10378)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28720)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10713)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11139)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16883)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15785)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13347)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12564)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11375)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19316)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12253)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28629)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10056)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21534)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12799)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17830)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26255)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11713)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10857)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22764)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12050)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10616)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11421)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11539)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant