Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

36. “Nghi ngờ như Bản thể của Sự thâm nhập tôn giáo”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8491)
36. “Nghi ngờ như Bản thể của Sự thâm nhập tôn giáo”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 36

“Nghi ngờ như Bản thể của Sự thâm nhập tôn giáo.”

T

rên đường từ London đến Colombo vào ngày 1 tháng mười một năm 1980, Krishnaji được theo cùng bởi Mary Zimbalist đến Madras. Hành lý của họ bị chuyển sai lộ trình, và Mary chỉ có một xách tay bạn ấy mang theo. Krishnaji quan tâmlo lắng cho Mary, thân thể yếu ớt của anh có vẻ bị khích động. Chiều hôm đó anh không ra bãi biển, nhưng dạo bộ trên con đường vòng quanh Vasant Vihar.

 Sáng hôm sau một bàn luận quan trọng diễn ra tại bàn ăn, mà tiết lộ những thấu triệt vào sự nghi ngờ không ngớt của anh. Hôm đó câu hỏi của anh là liệu cái trí Ấn độ đang thoái hóa. Achyut kể về một gặp gỡ giữa Krishnaji và Jawaharlal Nehru và Acharya Kripalani năm 1931 mà ông có mặt. Achyut nói, “Nehru và Kripalani[1] cảm thấy rằng Ấn độ nhất thiết phải được tự do thuộc chính trị trước khi một tái sinh trong cái trí Ấn độ có thể xảy ra.” Krishnaji đã trả lời rằng nếu họ lơ là sự tái sinh phía bên trong trong sự đấu tranh giành Độc lập, Ấn độ sẽ mất phương hướng. Nehru còn trẻ tuổi; cái trí chú ý và nhạy bén của ông ấy hiểu rõ sự quan trọng của tái sinh, nhưng cảm thấy rằng sự tự do thuộc chính trị phải hiện diện, cho cái trí Ấn độ nở hoa; để có không gian trong đó nó có thể thâm nhập. Tại thời điểm đó Achyut đã đồng ý với Nehru.

 Nhưng trả lời của Krishnaji với Nehru là rằng Ấn độ đã tượng trưng cho tinh thần tôn giáo suốt lịch sử. “Phật giáo truyền bá từ Ấn độ sang Trung quốc, Nhật bản, toàn phương Đông và vùng Viễn đông. Sự liên quan của hạt nhân tôn giáo đó của Ấn độ với thế giới hôm nay là gì?” Anh đã hỏi Jawaharlal Nehru.

 Achyut đang diễn tả bằng sự cảm xúc vô cùng. Krishnaji yên lặng lắng nghe điều gì Achyut nói, sau đó hướng về chúng tôi và hỏi, “Hạt nhân còn tươi tốt không? Thế giới phương Tây, thế giới Thiên chúa giáo, có một hạt nhân tôn giáo mà dựa trên sự trung thành. Ở Ấn độ tại tâm điểm của tôn giáo là sự phủ nhận mọi thứ ngoại trừ ‘cái đó’. Lúc này, liệu hạt nhân, hạt giống tôn giáo đó, đang biến mất? Nếu nó còn tồn tại, phản ứng của nó với phương Tây và những giá trị của nó là gì?”

 Krishnaji nói với Achyut, “Bạn nói quốc gia này có một mảnh đất khác hẳn. Những người cổ xưa đã sử dụng từ ngữ Tat hay Brahman để diễn tả nó. Trong những thời cổ xưa, tôn giáo không bị đặt nền tảng trên đẳng cấp hay nghi lễ. Sự quan tâm đến hạt nhân đã dẫn tới một cách sống khác hẳn. Lúc này, liệu hạt giống mà đã nằm im lìm trong đất suốt hàng thế kỷ có thể thức dậy?”

 “Chính hạt giống đang thức dậy mới là sự sống, và mới đáp lại – đang nở hoa của hạt giống là sự đáp lại,” tôi nói, sau đó tiếp tục nói về viếng thăm mới đây của tôi đến Varanasi cách đây vài tuần lễ. Tôi đã bàn luận về Krishnaji và lời giảng cùng Pandit Jagannath Upadhyaya. Một học giả Mahayana trong truyền thống Nagarjuna, ông đã tham gia trong những bàn luận cùng Krishnaji. Ông đã nói, “Chúng ta phải hiểu rõ phép biện chứng của Krishnamurti, nhưng hạt nhân của Krishnaji là vẻ đẹp, một tuôn trào tổng thể của Hiện diện.” Tiếp theo ông nói nhiều người bạn của ông, bị đau khổ bởi xu hướng hiện nay của Ấn giáo, đã tìm tới Phật giáo để cân bằng; họ đã thực hiện những đối thoại để tìm hiểu cho chính họ điều gì Buddha sẽ nói nếu lúc này ngài còn sống. Họ hiểu ra rằng điều gì Krishnaji đang nói là điều gì Buddha đã nói.

 Krishnaji kiên nhẫn nghe tôi, nhưng không sẵn sàng chấp nhận điều gì tôi đang nói, “Bạn không đang trả lời câu hỏi của tôi,” anh nói. “Tất cả các bạn là những người Ấn độ, nhận biết văn hóa Ấn độ. Bạn phải trả lời câu hỏi này. Bạn nhận biết việc gì đang xảy ra ở Ấn độ, những đạo sư khác nhau, những nghi lễ, và cũng vậy bạn phải có một cảm thấy về hạt nhân từ đó những sự việc vĩ đại xảy ra. Hạt nhân đó có sự liên quan gì, nếu nó vẫn còn tồn tại, với phương Tây và tôn giáovăn hóa phương Tây mà được đặt nền tảng trên sư trung thành, niềm tin?” Sau đó Krishnaji hỏi, “Nếu không có sự liên quan, vậy thì liệu đó là mấu chốt từ đó một tái sinh mới mẻ có thể nổi lên?”

 “Nếu hạt nhân đó, trung tâm đó, đã biến mất ở Ấn độ, liệu có phải trong biến mất đó, mà phương Tây và phương Đông đang hòa hợp cùng nhau?”

 “Rõ ràng,” anh nói, “từ khởi đầu của thời gian, con người của Ấn độ có cái gì đó mà trung thực, thực sự. Họ có tinh thần tôn giáo sâu thẳm trong ý nghĩa thực sự của từ ngữ. Có những Buddha và những Buddha trước mà đã để lại ảnh hưởng sâu sắc của họ trên mảnh đất của Ấn độ. Thế giới hiện nay của những người chiêm tinh, những đạo sư – việc đó thể hiện rằng chiều sâu của sự việc thực sự đang diễn ra?

 “Trong thế giới Thiên chúa giáo sự nghi ngờ chưa bao giờ đã là bộ phận của tôn giáo. Ở đây sự nghi ngờ, như bộ phận của sự thâm nhập tôn giáo, đã luôn luôn hiện diện. Liệu khả năng nghi ngờ đang bị biến mất? Cái đó đang biến mất và dần dần đang trở thành sự trung thành?

 “Liệu bạn thấy rằng sự nghi ngờ trong sự thâm nhập tôn giáo là một trong những sự việc lạ thường nhất mà tồn tại ở Ấn độ? Thiên chúa giáo được đặt nền tảng trên sự trung thành; sự nghi ngờ, sự hoài nghi, sự chất vấn bị phủ nhận. Chúng được gọi là dị giáo. Ở Ấn độ và ở thế giới Châu á, sự nghi ngờ là một trong những nguyên tắc của sự thâm nhập tôn giáo. Sự nghi ngờ đó đang biến mất, và vì vậy Ấn độ đang gia nhập dòng chảy phương Tây? Hay nếu sự nghi ngờ vẫn còn tồn tại, liệu nó đang bị bóp nghẹt và chúng ta đang mất đi sức sống của nó? Sự nghi ngờ như một tẩy sạch lạ thường.”

 “Sự nghi ngờ đang trở thành một thâm nhập chính thức,” Radha Burnier nói.

 “Tôi đang nói về sự nghi ngờ thực sự, cùng năng lượng vô hạn nằm sau nó. Bạn nói gì đây, Pupulji? Bạn là một pha trộn của cả phương Đông lẫn phương Tây.”[2]

 “Khi anh sử dụng từ ngữ ‘nghi ngờ’ đó, nó là một nghi vấn vô hạn. Nhưng tôi không thể trả lời chất vấn của anh về liệu nó vẫn còn tồn tại hay không,” tôi nói.

 “Theosophical Society hay Amma có chất lượng đó tại khởi đầu. Dr. Besant từ bỏ Thiên chúa giáo, bà từ bỏ người chồng; có sự nghi ngờ, và sau đó bà bị mắc bẫy trong những tổ chức và mất đi sinh lực. Nhưng cái trí Ấn độ, cái trí khởi nguồn, nhấn mạnh vào sự nghi ngờ. Sự nghi ngờ cùng sự rõ ràng của nó, sự nghi ngờ cùng sức sống mãnh liệt của nó xóa sạch cái trí khỏi những ảo tưởng. Liệu Ấn độ đang mất đi sự nghi ngờ đó? Bạn theo kịp chứ? Bởi vì chỉ qua sự nghi ngờ bạn mới đến được Brahman, không phải qua sự chấp nhận của uy quyền,” Krishnaji nói.

 “Đó là điều gì Buddha cũng nói,” Radha nói.

 “Liệu chúng ta đang mất đi sự nghi ngờ đó? Không phải một ít người của chúng ta. Nhưng cái trí Ấn độ. Liệu nó đang mất đi chất lượng đó, tìm kiếm đó cho sự rõ ràng?” Krishnaji đang đẩy sâu nghi vấn.

 Radha đáp lại, “Tôi vẫn nghĩ rằng ở Ấn độ sự nghi ngờ còn tồn tại, nhưng sự nghi ngờ này đã trở thành một truyền thống. Chúng ta thâm nhập trong một ý nghĩa nghiêm túc. Ở Phương Tây, sự nghi ngờ này mang hình thức của sự nghiên cứu thuộc khoa học. Sự nghi ngờnghi vấn mà đã không khẳng định được bởi sự thí nghiệm. Cái trí Ấn độ đã chuyển trong phương hướng của sự nghiên cứu thuộc khoa học.”

 “Truyền thống phương Tây của sự tuân phục cũng đi vào dòng chảy Ấn độ,” Achyut thêm vào.

 “Krishnaji đã mang vào lời giảng của anh một nhân tố mới mẻ: sự nghi ngờ mà không chuyển động đến một đáp án. Khi anh sử dụng từ ngữ ‘nghi ngờ’ bên trong ngữ cảnh Ấn độ, ngay tức khắc sự tìm kiếm nảy sinh từ sự nghi ngờ đó,” tôi nói.

 “ ‘Tôi là gì, tôi là ai?’ Đây là nghi vấn Ấn độ. Đây không là một nghi vấn có một phương hướng,” Achyut bình phẩm.

 “Dĩ nhiên. Nếu bạn có sự nghi ngờ cùng phương hướng, vậy thì nó có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn,” Krishnaji nói.

 “Sự nghi ngờ mà không đang bị theo sau bởi sự tìm kiếm đã không còn hiện diện trong dòng chảy Ấn độ. Trong nghi ngờ của Krishnaji là một bất động tức khắc của cái trí,” tôi nói.

 “Tôi đang đưa ra một nghi vấn thực sự rất nghiêm túc. Tôi muốn tìm ra, liệu ở Ấn độ cái trí đang bị trói buộc và đang bị dẫn dắt bởi làn sóng vật chất. Làn sóng đó đang đe dọa thế giới phương Tây, đang tự phơi bày chính nó qua công nghệ, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa quốc gia. Cái trí phương Tây đang chuyển động trong phương hướng của phía bên ngoài, và nó thống trị thế giới. Vì vậy liệu Ấn độ đang mất đi cái gì đó mà tồn tại ở đó? Từ điều gì người ta có thể thấy dường như Ấn độ đang mất đi nó.”

 Mary Zimbalist chất vấn, “Anh đang hỏi liệu tinh thần khác lạ mà nằm dưới Ấn độ đang buông xuôi? Làm thế nào người ta nói được điều đó?”

 “Bạn có thể trả lời câu hỏi đó? Bạn có thể cảm thấy, thâm nhập nó? Liệu Pupul hay Achyut có một cảm thấy của điều gì đang xảy ra trong quốc gia này? Liệu bạn có thể sử dụng phía bên ngoài như một tiêu chuẩn và chuyển động vào phía bên trong?” Krishnaji hỏi. “Cái khác lạ luôn luôn hiện diện ở đó. Tôi đang nói điều gì đó rất đơn giản. Ấn độ chuyển động từ một trung tâmtrung tâm đó lan tràn khắp thế giới Châu á qua sự tìm kiếm bên trong, vũ điệu, âm nhạc, và sự diễn tả thuộc văn hóa. Thế giới phương Tây đã tập trung trong niềm tin, mà quá hời hợt. Sự hời hợt đó, chủ nghĩa vật chất đó, liệu điều đó đang chinh phục cái này? Thấy điều này rất quan trọng. Liệu người ta có thể thấy sự biểu lộ phía bên ngoài của chủ nghĩa vật chất này ở Ấn độ, qua hành chánh, công nghệ, khoa học, năng lượng hạt nhân; đang theo đuổi lối sống phương Tây; và thế là liệu hạt giống khởi nguồn, ban sơ của quốc gia này đang dần dần bị phai nhạt? Ấn độ đã tập trung vào một việc. Và vì vậy nó có một ngọn lửa lan tràn khắp thế giới. Hiện nay việc gì đang xảy ra cho hạt nhân Ấn độ?” Nghi vấn đầy đam mê của Krishnaji và ngọn lửa chú ý của anh đang làm bừng bừng những cái trí của chúng tôi.

 “Anh sẽ không nói rằng ở Ấn độ tinh thần đó đã quay về hướng khác, hay sao? Nó đã bị pha trộn. Nó không còn là một sức mạnh. Vì vậy sự khác biệt giữa Ấn độ và phương Tây là gì?” Mary hỏi.

 “Tôi sẽ không nói rằng cánh đồng này đã bị xói mòn trong mười lăm năm qua. Tôi sẽ không nói điều đó,” tôi nói.

 “Tôi hy vọng không. Nhưng tôi sẽ không chấp nhận câu phát biểu của bạn. Tôi đang tìm hiểu nó. Tôi muốn Ấn độ là cái đó. Vì vậy tôi nói tôi hy vọng Ấn độ sẽ không mất đi cái đó. Nếu nó bị mất, nó bị mất. Tôi không muốn Ấn độ mất đi cái đó, bởi vì như thế nó là sự kết thúc của mọi thứ.”

 “Hoặc anh đưa điều gì anh đang nói vào lãnh vực tương đối của thời gianthâm nhập liệu thoạt đầu có nhiều người quan tâm đến hạt nhân, hoặc anh chỉ đưa ra nghi vấn. Liệu ngày nay có những con người đứng vững trong cái này?” Tôi hỏi.

 “Phía bên ngoài của những con người đó mà đã được phơi bày cho Krishnaji ở Ấn độ, liệu có những người mà nhận được cái nguồn của họ, năng lượng của họ từ sự nghi ngờ?” Achyut hỏi.

 “Đã có những lần trong lịch sử của quốc gia này khi năng lượng đã bùng nổ trong những thể hiện quan trọng. Khi anh nói Ấn độ đang thoái hóa, cách đây một trăm năm hay nhiều hơn liệu lúc đó đã có sự nghi ngờ thuộc tôn giáobản chất của nó là gì? Vì vậy đừng đưa ra câu hỏi dựa vào thời gian thẳng. Người ta có thể đưa ra câu hỏi liệu ngày nay có những người bám chặt trong tinh thần này?” Tôi nói.

 “Đã có nhiều nhân tố cũng góp phần cho sự suy tàn của tinh thần này. Phong trào Bhakti cùng sự nhấn mạnh của nó vào niềm tintrung thành, mà tồn tại trong nhiều thế kỷ, có thể được so sánh với Thiên chúa giáo. Rồi thì sự tiếp cận khoa học, hiện đại đã ép buộc tất cả thiên nhiên thành điều kiện thí nghiệm. Tất cả điều này đã cắt đứt cái nguồn tại gốc rễ,” Radha nói.

 “Trong quá khứ đã chỉ có ít người là những người quý tộc của tinh thần mà đứng vững trên những không-hình dạng,” tôi nói.

 “Nhưng những người thông thái đã chi phối văn hóa mà đã bùng nổ,” Achyut nói.

 “Buddha xuất hiện và nói chuyện. Phải mất ba trăm năm trước khi lời giảng được hình thành,” tôi nói.

 “Đừng nói bạn không thể trả lời nghi vấn của tôi.” Krishnaji không buông tha. “Tôi đã thâm nhập nghi vấn này suốt nhiều năm. Lần này khi tôi đi máy bay đến Bombay, lại nữa tôi đang nảy ra nghi vấn đó, liệu phương Tây đang chinh phục phương Đông? Phương Tây có khả năng tổ chức, mang con người lại cùng nhau, nó có công nghệ, truyền thông, vân vân. Nó đã có thể xây dựng những hệ thống đến một mức độ tuyệt vời. Ở đây nó không được đặt nền tảng trên sự tổ chức hay hệ thống. Có những con người mà đứng một mình.”

 “Có một lãnh vực của tốt lành và một lãnh vực của xấu xa. Sự thách thức thực sự là cái gì có thể khiến cho lãnh vực tốt lành đó có uy lực,” tôi nói.

 “Không, tốt lành không thể là uy lực. Tốt lànhtốt lành,” Krishnaji đáp lại.

 “Hãy giả sử rằng trung tâm bị xói mòn. Phản ứng là gì?”

 “Vậy thì chúng ta có thể nói nó kết thúc, chúng ta hãy làm việc gì đó về nó. Nhưng nếu bạn nói nó tồn tại vậy thì chúng ta chỉ tiếp tục,” Krishnaji nói.

 “Nếu tôi thú nhận nó kết thúc?” Tôi hỏi.

 “Vậy thì cái mà có một kết thúc có một khởi đầu mới mẻ. Nếu nó đã kết thúc, vậy là cái gì đó lạ thường đang xảy ra,” Krishnaji nói.

 “Đó là sự khác biệt cơ bản giữa anh và những người khác. Tôi được nuôi dưỡng trong một truyền thống tin tưởng cái nguồn này và mọi người đều suy nghĩ về làm thức dậy tin tưởng này, đều đang nói rằng nó hiện diện. Ông là người duy nhất đang hỏi liệu hạt giống còn tươi tốt hay không,” Achyut nói.

 Tôi thêm vào, “Chừng nào Krishnaji còn ở đó, làm thế nào tôi nói nó bị hư hại?”

 “Tôi cũng không thấy làm thế nào sự nghi ngờ đã hoàn toàn kết thúc và một sự việc mới mẻ đã bắt đầu,” Radha nói.

 “Khi cái gì đó đã kết thúc, một sự việc mới mẻ đang xảy ra,” Krishnaji nói.

 “Anh có thể hỏi, liệu có sự nghi ngờ trong tôi? Tôi có thể trả lời điều đó trực tiếp; nhưng khi anh hỏi tôi liệu hạt giống đó đã bị hư hại, tôi không thể trả lời điều đó.”

 “Tôi sợ rằng nếu sự nghi ngờ đã kết thúcẤn độ, vậy thì nó là một việc khủng khiếp,” Krishnaji nói.

 “Nếu tôi phủ nhận hạt giống tôi đã phủ nhận mọi thứ,” tôi nói.

 “Tôi không đang nói về phủ nhận. Tôi đang đưa ra cho bạn một nghi vấn. Phương Tây rất hùng mạnh bởi khoa học, công nghệ, tổ chức, truyền thông, chiến tranh, tất cả việc đó. Sự hùng mạnh đó đã bóp chết những không-hùng mạnh. Đúng chứ? Liệu hạt nhân của Ấn độ cũng hùng mạnh như thế phía bên trong, đến độ nó có thể đương đầu với sự hùng mạnh của phương Tây và thấy rằng nó chẳng bị mảy may tác động? Bạn thấy điều gì tôi đang nói? Nó không là một vấn đề thuộc địa lý. Tôi đang nói về cái trí Ấn độ mà đã sản sinh ra Upanishads, Buddha. Ấn độ đã là kho lưu trữ của cái gì đó rất, rất vĩ đại. Phương Tây, cùng sự tập trung của nó vào trung thànhchủ nghĩa vật chất của nó, đang hủy diệt vĩ đại đó.”

 “Tôi không thể trả lời câu hỏi của anh,” tôi nói.

 “Bạn phải trả lời. Nó là một thách thức mà bạn phải đương đầu. Nó là một thách thức mà mỗi người Ấn độ phải trả lời,” Krishnaji nói. “Pupulji, điều đó lý thú lắm, cái trí con người đang tự hỏi chính nó nghi vấn này: ‘Liệu có một cái trí mà không thể bị thoái hóa?’ Liệu cái trí đó đang bị hủy diệt bởi phương Tây?

 Tôn giáo ở phương Tây được đặt nền tảng trên sự trung thànhniềm tin cùng tất cả những hàm ý của nó. Bị trói buộc trong sự trung thành hay niềm tin là sự kết thúc của sự nghi ngờ. Sự thâm nhập tôn giáoẤn độ không được đặt nền tảng trên sự trung thành, thế là nó có thể chuyển động trong bất kỳ phương hướng nào. Bởi vì được tự do khỏi phương hướng, có một chuyển động khác hẳn đang diễn ra; đây là bản thể của những Buddha, những trước-Buddha. Liệu bản thể đó đang dần dần bị hủy diệt bởi phương Tây? Hay bản thể đó đang tự-thể hiện chính nó ngay lúc này? Không phải như Buddha hay Maitreya – đây chỉ là những cái tên: nhưng liệu bản thể đó đang tự-thể hiện chính nó?”

 Tôi đáp lại, “Bản thể đó là không thể bị thoái hóa. Vì vậy nó không thể bị ô uế. Ngày nay cái trí Ấn độ bị quy định. Điều duy nhất mà người ta có thể nói là rằng cái trí đó, bởi vì nó đã được hòa hợp với ‘cái khác lạ’ suốt hàng thế kỷ, có lẽ có một thiên về ‘cái khác lạ.’ ”

 “Và thế là có khả năng của sự thay đổi. Tôi nghĩ cái trí này có khả năng lớn lao của sự thay đổi. Điều này không đang phủ nhận phương Tây. Chúng ta không đang nói về phương Tây hay phương Đông như những đối nghịch; chúng ta đang nói về một chất lượng của cái trí không-phương hướng.”

 “Ông muốn nói cái trí bị quy định không liên quan gì với ‘cái đó’?” Radha hỏi.

 “Cái trí bị quy định không liên quan gì với ‘cái đó,’ nhưng ‘cái đó’ có thể có liên quan gì đó với ‘cái này.’ Vì vậy tôi đang hỏi, liệu cái trí của Ấn độ – không phải cái trí của tôi hay cái trí của bạn, nhưng cái trí mà đã tiến hóa qua năm ngàn năm, cái trí của Buddha – liệu cái trí đó có thể bị quy định? Cái trí Ấn độ tìm kiếm ‘cái đó,’ nghi ngờ, chất vấn. Bạn nói, Pupul, đó là dòng chảy chính của cái trí Ấn độ. Liệu chúng ta đang ở trong những dòng nước của sự tìm kiếm đó? Hay chúng ta lại đang trôi nổi trong những từ ngữ, những biểu tượng, những thần thoại, những ý tưởng, những lý thuyết?”

 Chiều ngày 4 tháng mười một, tại bữa ăn tối ở Vasant Vihar, Krishnaji bắt đầu bàn luận sự nhận biếttrạng thái tổng thể. Tôi nói tôi đã và đang gắng sức hiểu rõ một mô hình ba chiều, trong đó một mảnh chứa đựng tổng thể.

 Krishnaji nói trong sự nhận biết tổng thể có tổng thể của nhân loại. Anh nói về một nhận biết của đau khổ, trong đó có sự tự do tổng thể khỏi đau khổ; trong một nhận biết như thế ý thức con người được mới mẻ lại. Sau đó anh tự hỏi mình, “Liệu đó là như thế sao? Trong một nhận biết của đau khổ, liệu có nội dung tổng thể của đau khổ nhân loại?”

 Chúng tôi bắt đầu chất vấn anh, và anh nói, “Nếu bạn thấy chuyển động tổng thể của vui thú – ái ân, giác quan – bạn đã hiểu rõ toàn nội dung của ý thức.”

 “Liệu chúng ta có thể nhận biết thân thể, cái trí như thế?” Achyut hỏi.

 “Liệu có thể có một thâm nhập vào sự chú ý?” Krishnaji hỏi vặn. “Chúng ta đã nói, ‘chú ý.’ Nhưng chúng ta chưa bao giờ thâm nhập vào chú ý! Chú ý là gì?” Một vài người chúng tôi đáp lại, nhưng Krishnaji tiếp tục vặn hỏi.

 “Việc gì xảy ra khi chú ý thâm nhập vào chính nó? Nếu bạn đang chú ý như thế, tất cả những giác quan của bạn hoàn toàn thức dậy. Không chỉ là một giác quan đang chú ý, nhưng tổng thể của tất cả những giác quan. Ngược lại bạn không thể chú ý. Khi có một giác quan mà được tập trung cao độ và những giác quan khác không hiện diện, người ta không thể chú ý. Hoạt động trọn vẹn của những giác quan là một trạng thái của sự chú ý. Hoạt động từng phần của những giác quan dẫn đến sự tập trung. Chú ý không có trung tâm. Chú ý là một trôi chảy từ chính nó, nó đang chuyển động, không bao giờ đứng yên; nó trôi chảy, chuyển động, tiếp diễn. Chú ý nhận được nhiều hơn và nhiều hơn – không phải nhiều hơn trong một ý nghĩa so sánh, nhưng như một con sông đằng sau nó có một khối lượng nước khổng lồ; một khối lượng vô hạn của năng lượng, của chú ý, con sóng này dập lên một con sóng khác dập lên một con sóng khác, mỗi con sóng là một chuyển động khác biệt. Chúng ta không bao giờ thâm nhập việc gì xảy ra vượt khỏi chú ý. Liệu có một tập hợp tổng thể của năng lượng?” Những người khoa học đã nói với anh rằng năng lượngvật chất là một. Sóng vẫn còn là năng lượng, nó không bao giờ có thể đứng yên.

 “Trong thẩm thấu vào một con sóng của sự nhận biết như năng lượng, những sự việc lạ thường xảy ra. Có một ý thức của ngây ngất cao độ; một cảm thấy của không gian vô hạn; một chuyển động mênh mông của màu sắc.” Anh ngừng lại. “Màu sắc là Thượng đế,” anh nói, “không phải những thần thánhchúng ta tôn thờ, nhưng màu sắc của quả đất, bầu trời, màu sắc lạ thường của một bông hoa.”

 Ngần ngừ, Asit hỏi, “Anh sẽ gồm cả mùi vị?”

 “Dĩ nhiên, màu sắc là mùi vị,” Krishnaji nói.

 Anh đang thẩm thấu khi anh nói. “Liệu người ta có thể thấy trọn vẹn cùng tất cả những giác quan? Thấy không phải bằng một mình hai mắt, những bằng cả hai tai; lắng nghe, nếm vị, sờ chạm? Phải có hòa hợp. Cái này chỉ có thể xảy ra khi không-trung tâm, không-chuyển động.”

 “Một ngày nào đó hãy tự-nhìn ngắm,” anh nói cùng chúng tôi. “Nhìn ngắm ánh mặt trời và thấy liệu bạn có thể thấy cùng tất cả những giác quan, hoàn toàn thức dậyhoàn toàn tự do. Nhìn ngắm đó dẫn đến một sự kiện lý thú: Nơi nào có không-hòa hợp, có cái tôi.”

 “Chú ý là sự hòa hợp hoàn toàn. Phải có một khối lượng khủng khiếp của năng lượng được tập hợp qua sự hòa hợp. Nó giống như con sông Ganga. Chú ý là một chuyển động hướng về vĩnh hằng.”

 Chiều hôm đó là một sự kiện lịch sử: Krishnaji lại dạo bộ trên vùng đất của Theosophical Society tại Adyar. Chúng tôi theo cùng anh. Radha Burnier ngồi cùng anh trong xe hơi. Họ được tiếp đón tại cổng bởi phó chủ tịch Theosophical Society. Krishanji được choàng vào vòng hoa hồng. Radha cùng Krishnaji dạo bộ trên con đường dẫn đến bờ biển, qua tòa nhà bộ chỉ huy. Krishnaji đi qua căn phòng cũ của anh; khi quay về, anh đi trên con đường mòn nhỏ dọc theo con sông. Đó là mảnh đất hiền hòa. Cây cối rất đẹp; những con người sống ở đó đang tìm kiếm nơi yên ổn thoát khỏi những lao dịch của thế giới. Quay lại của Krishnaji tạo nên một xúc động vô cùng.

 Trong khi anh ở Madras, mỗi ngày anh đều lái xe qua khuôn viên Theosophical Society đến nhà của Radha, và từ đó anh dạo bộ trên bãi biển. Một chiều tối khi quay về từ dạo bộ, Krishnaji kể về hai người chài lưới – những cậu trai da đen sậm và cao mảnh khảnh. Bằng sự dễ dàng và khéo léo vô cùng họ chuẩn bị đẩy xuống nước chiếc thuyền đôi của họ; hướng đuôi lái ra biển khơi, nhảy vào và đẩy thật mau chiếc thuyền vào biển cả đen kịt không biết được. Krishnaji bị tác động mạnh lắm.

 Sau đó trong năm Krishnaji sẽ đi đến Theosophical Society để dùng bữa trưa cùng Radha Burnier. Trước giờ ăn, bạn ấy đưa Krishnaji đến khu nhà chính nơi Dr. Besant đã có căn phòng của bà và đã sống ở đó. Đầu tiên anh thăm phòng riêng của anh, nhìn ra sông và biển. Anh đứng trước cửa sổ, nhìn chằm chằm thật xa đến tận nơi sông gặp biển. Sau đó anh sẽ nói rằng anh không nhớ nó. Tiếp theo anh đến phòng của Dr. Besant. Thật cẩn thận, anh đứng trước chowki của bà với cái bàn nhỏ xíu của nó, và đi quanh phòng, yên lặng, lắng nghe. Bỗng nhiên, anh ngừng lại trước một bức ảnh lớn của Leadbeater được treo trên tường. “Bức ảnh này không có ở đây trong thời gian tôi ở,” anh nói. Radha trả lời nó đã được đặt ở đó nhiều năm sau. Nhiều phút Krishnaji đứng trước chân dung, nhìn chằm chằm nó; sau đó bỗng nhiên anh dơ tay lên và nói, “An bình, an bình.” Sau đó anh hướng về Radha Burnier và đi ra khỏi phòng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34465)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16906)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23033)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13090)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22038)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22300)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14909)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23673)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24211)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23767)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17192)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19404)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27154)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14464)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13878)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22756)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14812)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17409)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12717)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13914)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10451)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14754)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17238)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12592)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12769)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10403)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28766)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10759)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11180)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16928)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15823)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13372)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12602)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11410)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13074)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19362)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12302)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28718)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10091)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21648)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12832)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17876)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26368)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11749)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10890)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22840)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12092)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10644)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11442)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11567)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant