Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Đại sư Hám Sơn

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10544)
04. Đại sư Hám Sơn

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ĐẠI SƯ HÁM SƠN  

Mình sinh ra và lớn lên, mỗi người đều có những khoảng đường riêng, như bị một loại định mệnh chi phối. Một loại định mệnh không do ông trời sắp đặt, không do thượng đế ban cho, mà do hành động và những thói quen mình đã gầy ra trong quá khứ.

Những thói quen, mà cái quả của nó đã thành định nghiệp, tức NHÂN đã có, DUYÊN đã đủ, thì mình không thể thay đổi gì nữa.[01] Đại sư Hám Sơn ra đời với một điềm mộng : Bồ tát Quán Thế Âm mang đến một đứa trẻ, mẹ Sư ôm vào lòng và sinh ra Sư. Cội từ bi đã khai hoa nở nhụy. Đứa con của lòng từ, ắt hẳn phải theo con đường từ bi hỉ xả. Một tuổi, Đại sư đau nặng, bà phải phát nguyện đưa con vào chùa. Định nghiệp tu hành, con đường của bậc Long tượng, lần nữa lại được xác định.

Tôi sinh ra ở Toàn Tiêu thuộc Nam Kinh. Mẹ tôi là một Phật tử mộ đạo, suốt đời bà thờ Bồ tát Quán Thế Âm. Một hôm bà nằm mộng thấy Bồ tát dắt đến một đứa bé, bà ôm vào lòng, sau đó sinh ra tôi. Nhưng được một tuổi thì tôi đau nặng. Sợ con qua không khỏi, bà cầu Quán Thế Âm và hứa, nếu tôi hết bệnh bà sẽ cho tôi vào chùa làm tăng. Vì thế, khi tôi hồi phục, bà ghi tên tôi vào chùa Trường Thọ.

Liễu thoát sinh tử là một trong những đích nhắm của người tu Phật. Đó là việc đã được huân tập từ bao kiếp trước, nên trong cái tuổi đáng nhẽ chỉ biết chơi đùa vô tư vòi vĩnh mẹ cha, Sư lại chú tâm vào việc sống chết. Sống từ đâu có và chết sẽ đi về đâu? 

Năm lên 7, mẹ cho tôi đi học. Một lần đi về, thấy cậu nằm bất động trên giường, tôi hỏi thì mẹ trả lời “Cậu ngủ”. Nhưng tôi gọi cậu mấy lần, cậu vẫn nằm yên. Còn mợ tôi thì gào thét “Trời ơi! mình đi đâu rồi hở mình?”. Bàng hoàng, tôi hỏi “Cậu nằm đó sao mợ nói đi đâu?” Lúc đó mẹ mới nói thật “Cậu con chết rồi”. Tôi hỏi bà “Chết đi về đâu?”. Bà lắc đầu. Từ đó câu hỏi ấy bám chặt vào tâm trí tôi.

Ít lâu sau, mợ tôi sinh được một em bé. Lần đầu tiên đến thăm, tôi hỏi “Đứa bé này vào bụng mợ bằng cách nào?”. Mẹ tôi cười “Vớ vẩn! Thế mày vào bụng mẹ bằng cách nào?”. Sanh tử trở thành mối nghi rất lớn đè nặng tâm trí tôi.

Tình thương của mẹ đối với con là vô bờ. Nhưng cách thể hiện thì không như nhau. Có thứ khiến con trẻ hư hoại bê tha. Có thứ khiến con trẻ đắm chìm trong tình cảm thường tình. Có thứ khiến con trẻ vững vàng rắn rỏi. Túc duyên sâu dày, căn khí thượng thừa sẵn đủ, nên mẹ là hiện thân trợ cho căn duyên đời trước có điều kiện đâm chồi, Tổ thầy là hiện thân trợ cho căn khí thượng thừa được mãi xum xoe, kết lá ra hoa, che mát chúng hữu tình. 

Năm tôi lên 8, để tiện cho việc học hành, Tôi được gởi qua ở nhờ nhà một người bà con cách đó một con sông. Mẹ tôi cho tôi về nhà thăm bà một tháng một lần. Sau ngày nghỉ thường lệ, tôi không muốn trở lại trường và nói với bà “Con không muốn xa mẹ”. Bà nổi xung thiên, đánh và đuổi tôi ra tận bờ sông. Nhưng tới đó, tôi vẫn bám chặt lấy bà. Đang cơn giận, bà túm tóc tôi ném xuống sông rồi bỏ đi thẳng. Khi tôi thoát chết về được đến nhà, bà hét lớn “Để cái đồ vô tích sự đó sống làm gì, thà để nó chết đi còn hơn”. Bà lại đánh và đuổi tôi. Tôi thấy mẹ quá nghiêm khắc và tàn nhẫn, nên quyết từ rày về sau không về nhà nữa. 

Sau này tôi mới biết, bà đã nhiều lần đứng khóc ở bờ sông và nói với ngoại ‘Con phải làm cho nó vượt qua cái tính đa cảm thường tình, để nó có thể học hành nghiêm túc”. 

Năm lên 9, tôi được gởi vào chùa đi học. Khi nghe tụng đến phẩm Phổ Môn, biết Quán Thế Âm có thể cứu độ muôn loài thoát khỏi khổ đau, tôi rất phấn khích. Một lần theo mẹ đến chùa lễ tạ Bồ tát, tôi hỏi “Mẹ có biết kinh của Bồ tát Quán Thế Âm không?”. Bà lắc đầu. Tôi lập tức tụng cho bà nghe. Giọng tôi lúc đó cứ như một ông tăng già, khiến bà thích thú vô cùng. Bà hỏi “Con đã học ở đâu?”. Tôi trả lời là tôi đã mượn kinh về tự nghiên cứu tụng lấy. 

Năm tôi lên 10, bị mẹ ép học quá, tôi buồn lắm. Một lần hỏi bà : Vì sao con phải đi học?

- Để có được một địa vị trong xã hội
- Vậy sau này con được địa vị gì?
- Bắt đầu có thể chỉ là một địa vị thấp. Nhưng có thể sau đó sẽ lên chức tể tướng. 
- Cho là con có thể trở thành tể tướng đi, nhưng sau đó thì sao?
- Người ta chỉ có thể lên tới đó mà thôi. 
- Nhưng làm một công chức cao cấp thì có ích gì? Làm việc cực khổ cả đời để chẳng được gì thì thật vô ích. Con muốn làm cái gì đó có giá trị vĩnh hằng.
- Trời đất! Một đứa con vô tích sự như mày, thì chắc chỉ làm được một ông tăng du phương mà thôi.
- Làm một tăng du phương thì có ích gì?
- Tăng là một đệ tử Phật. Ông muốn đi đâu trên thế gian này cũng được. Ông là một người tự do thật sự. Ở đâu, thiên hạ cũng cúng dườngphục dịch ông. 
Tôi thấy rất hứng khởi với việc đó, nên nói : Vậy thì hay lắm. Con muốn làm một ông tăng.
Bà lắc đầu : Ta e con không có tài cán đó.
Thấy tôi ngạc nhiên, bà giải thích : Trên thế gian này có rất nhiều trạng nguyên, nhưng Phật Tổ thì rất hiếm. Hàng tăng mà mẹ Đại sư muốn nói chính là hàng có chí nguyện làm Phật làm Tổ, lấy định tuệ nuôi sống tuệ mạng của mình. 

Nghe vậy tôi quả quyết : Con có khả năng đó, chỉ sợ mẹ không cho con đi.

Bà hứa : Nếu con có khả năng, ta sẽ cho con theo đường của con.

Tôi nuôi trong lòng lời hứa đó của mẹ.
Năm tôi 11 tuổi, thấy gần nhà có vài người đầu đội nón lá, trên vai chất đầy vật dụng, tôi liền hỏi mẹ : Mấy người đó là ai?

- Là những tăng sĩ du phương

Nghe vậy, tôi rất thích. Tôi quan sát kỹ mọi thứ. Họ đặt gánh xuống, rồi nghỉ ở một gốc cây bên đường. Một người hỏi mẹ “Có thể kiếm đâu ra thức ăn thưa bà?”. Mẹ trả lời “Xin chờ, tôi sẽ nấu cơm cúng dường”. Rồi bà phục dịch các tăng sĩ với tất cả sự tôn kính của mình.

Ăn xong, các tăng nhân quảy gánh lên vai. Họ dơ một tay lên chào từ biệt và định nói một cái gì đó. Nhưng mẹ vội nói “Xin đừng cám ơn”. Tôi thì không mấy vừa lòng về thái độ từ biệt của mấy ông tăng, tôi nói với mẹ “Mấy ông tăng này quá vô lễ. Không chào hỏi lấy một lời mà đã bỏ đi”. Bà giải thích “Nếu họ cảm ơn, ta sẽ được ít phước hơn với việc cúng dường của mình”. Lúc đó, tôi càng thấy ưu thế của hàng tu sĩ. Cuộc gặp gỡ khiến quyết định làm tăng của tôi càng mạnh mẽ. Nhưng trở ngại duy nhất của tôi lúc này là tôi chưa có cơ hội.

Rồi thời cơ cũng đến. Năm tôi 12 tuổi, nghe ở chùa Báo Ân có một cao tăng tên là Tây Lâm, tôi thưa với cha mình muốn đến đó. Cha không cho đi, nhưng mẹ lý luận “Tốt hơn, nên để cho con theo ý nguyện của nó. Giúp nó thực hiện hơn là ngăn cản”. Và thế là tôi được gởi đến chùa Báo Ân.

Ngay khi thấy tôi, Đại sư liền nói “Thằng bé này không phải thường. Nếu để nó trở thành một ông tăng bình thường thì thật là phí”. Rồi thầy dẫn tôi đến tự viện. Lúc ấy thầy Vô Cực đang thuyết pháp. Thầy Triệu Văn Túc rất thích khi trông thấy tôi, ngài nói “Thằng nhỏ sau này sẽ thành bậc thầy của trời người”. Rồi ngài hỏi tôi “Con thích làm quan hay làm Phật?” Tôi trả lời “Dĩ nhiên là làm Phật”. Ngài cười và quay lại nói với những tăng sĩ khác “Không được coi thường đứa bé này, phải dạy dỗ nó cẩn thận”. Lúc đó tuy không hiểu thầy Vô Cực giảng gì dù chỉ một chữ, tôi vẫn thấy tha thiết và nhiệt thành như thể tôi đang hiểu một thứ gì đó mà không thể bày tỏ bằng lời.

Khi tôi được 19 tuổi, bạn tôi nhiều đứa đã đậu kỳ thi hương. Khi nghe các bạn thúc tôi đi thi, thầy Vân Cư đã khuyến khích tôi tu đạo và nổ lực tham thiền. Thầy kể tôi nghe về hành trạng của rất nhiều cao tăng thời trước, và đưa cho tôi quyển Cao Tăng Truyện. Sau khi đọc xong Trung Phong TruyệnCao Tăng Truyện, tôi cảm động “Đây chính là điều mình muốn làm”. Rồi tôi quyết định hiến đời mình cho đạo Phật từ đó, và xin Đại sư thí phát.

Gạt bỏ thế sự và việc học hành, tôi tập trung cho việc nghiên cứu thiền nhưng chẳng đến đâu. Tôi bắt đầu chuyên tâm niệm danh hiệu đức A Di Đà ngày đêm không gián đoạn. Không bao lâu, tôi nằm thấy ngài hiện ra trong giấc mộng. Ngài ngồi trên trời cao và hướng về phía mặt trời lặn, gương mặt từ bi linh động trong sáng. Tôi phục dưới chân ngài với tâm trạng khó tả. Khi tôi vừa nghĩ “Vậy còn Bồ tát Quán Thế ÂmĐại Thế Chí ở đâu”, liền thấy chư vị hiện ra. Nhờ giấc mơ đó tôi càng tin tưởng và nổ lực tiến tu. Tôi tin, việc tu hành của mình sẽ có kết quả tốt đẹp.

Mùa động năm ấy, tự viện chúng tôi mời thầy Vô Cực đến giảng Hoa Nghiêm. Khi giảng đến Thập Huyền Môn, hải ấn xum la thường trụ xứ, tôi bỗng nhận ra yếu chỉ pháp giới viên dung vô tận. Quá hăm mộ ngài Thanh Lương, người đã sáng lập tông Hoa Nghiêm, tôi lấy đó làm danh hiệu của mình, và lấy tên tự là Trừng Ấn.

Tôi trình bày chỗ nhận của mình lên thầy Vô Cực, thầy nói “Vậy là con muốn theo con đường Hoa Nghiêm. Nhưng con có biết vì sao ngài lại lấy tên là Thanh Lương? Vì ngài thường ở trên núi Thanh Lương. Mùa hè thì mát, mùa đông thì băng giá”. Từ đó, tôi cứ thấy thế giới kỳ diệu của băng tuyết hiện ra trước mắt. Tôi quyết tâm đến trụ ở ngọn núi ấy. Không gì trên thế gian có thể mê hoặc tôi được nữa. Cái khao khát lìa bỏ thế giới này không ngừng sống dậy trong tôi.

Khi tôi 20 tuổi thì Đại sư qua đời. Trước khi thị tịch ngài gọi môn chúng lại và nói “Ta đã 83 tuổi, chẳng bao lâu sẽ rời bỏ cõi đời này. Ta có khoảng 80 đệ tử nhưng kẻ nối pháp của ta chính là Hám Sơn. Sau khi ta đi các con phải nghe lệnh chú ấy. Đừng lơ là mệnh lệnh chỉ vì vấn đề tuổi tác”. Ngài cho họp tất cả tăng chúng, tập trung niệm danh hiệu A Di Đà trong suốt năm ngày liền. Tràng hạt trong tay, ngài ngồi kiết già, bình tĩnh niệm danh hiệu Di Đà rồi thoát. Không lâu sau, căn phòng ấy bị cháy rụi, như thể báo một điềm gì đó cho các môn đồ.

Vào tháng 10 năm đó, thầy Vân Cốc mở Thiền hội. Nhờ sự tiến cử của thầy, tôi được nhập hội. Thoạt đầu tôi không biết phải dụng công thế nào và rất khổ sở với sự vô minh của mình. Sau khi đốt hương dâng thầy, xin thầy chỉ dạy, tôi thiền định suốt ba tháng liền. Suốt thời kỳ này, tôi không chú ý tới bất cứ ai trong hội hoặc bất cứ gì xảy ra quanh tôi. Phần tiếp theo, nói về quá trình tu tập thiền định và những cảnh giới tự tâmĐại sư Hám Sơn đã chứng nhập, thuộc phần công phu tu chứng, nên không trích ra đây.

Năm 40 tuổi, tôi bắt đầu đọc Đại tạng, giải kinh Pháp Hoa và luận Đại Thừa Khởi Tín. Từ ngày rời Ngũ Đài Sơn, tôi đã có ý định về thăm song thân, nhưng lại sợ những hệ lụy thế gian làm mờ mắt, nên hơi do dự. Nhưng trong khi thiền định, tôi đã làm bài kệ :

Ngày ngày sóng nổi ngập thái không
Chim cá cùng bơi một kính trong
Đêm qua trăng bỗng rụng bên trời
Sáng bừng như lẫn ngọc ly long

Vì thế, tôi gọi thị giả vào và bảo với ông ấy tôi đã có thể về quê thăm cha mẹ.

Ở quận nhà, chùa Báo Ân từ lâu vẫn muốn xin trọn một bộ Đại Tạng. Tôi đi Kinh Sư thỉnh kinh và về đến chùa Báo Ân tháng mười một. Trước khi bộ Đại tạng về, trong chùa phát sáng mấy ngày. Kinh về đến nơi thì ánh sáng biến hình như một chiếc cầu vồng trải từ trời xuống đất. Người đến xem, mỗi ngày có đến vạn người.

Khi mẹ hay tin tôi về. Bà cho người đến hỏi khi nào tôi về thăm nhà. Tôi trả lời “Triều đình phái con đi hộ tống kinh, không phải để về nhà. Nhưng nếu mẹ có thể tiếp con một cách vui vẻ không sầu thương như con chưa từng rời đi, thì con sẽ về nhà hai đêm”. Nghe vậy, bà nói “Cuộc gặp gỡ này giống như vừa tìm lại được người nhà trong một kiếp khác, làm sao mụ có thì giờ để khổ đau. Mụ rất hài lòng nếu gặp được con mình dù chỉ tích tắc. Hai đêm là quá nhiều so với sự mong mỏi của mụ”. Khi tôi về nhà, mẹ rất vui. Thật là ngạc nhiên!

Buổi chiều, họ hàng đến thăm, một người hỏi “Thầy đến bằng thuyền hay đường bộ?”. Mẹ lập tức trả lời “Nói vậy là ngụ ý gì?”. “Điều tôi thực sự muốn biết là thầy ấy từ đâu về”. Bà trả lời “Từ cái không về với chúng ta”.

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe bà nói vậy. Chẳng lạ gì bà cụ cho tôi đi tu. 

Rồi tôi hỏi mẹ : Từ khi con rời khỏi nhà, mẹ có nghĩ đến con?

Bà đáp : Dĩ nhiên là có, làm sao không được.

- Vậy mẹ làm gì để khuây khỏa?

- Thoạt đầu mụ không biết làm gì. Rồi nghe người ta nói con ở Ngũ Đài Sơn, mụ hỏi một thầy tăng “Nơi đó ở đâu?”, thầy bảo “Ngay dưới sao Bắc đẩu”. Mụ đảnh lễ sao bắc đẩu và niệm danh hiệu Bồ tát. Mụ thấy khuây khỏa và không còn nghĩ tới con nữa. Mụ nghĩ con đã chết. Mụ thấy không còn khổ não, không còn nghĩ đến con. Bây giờ mụ gặp con như thể trong một kiếp khác.

Sáng hôm sau, tôi đi thăm mộ tổ tiên và chọn địa điểm làm mộ cho song thân. Lúc đó cha tôi đã 80 tuổi. Tôi nói đùa “Hôm nay con đào huyệt cho cha, giúp cha không phải trở lại thế gian này nữa”. Vừa nói tôi vừa gõ cuốc xuống đất. Mẹ tôi giựt cuốc khỏi tay tôi và nói “Để mụ tự đào mồ lấy, không cần ai lo cho mụ”. Rồi bà bắt đầu đào huyệt một cách vui vẻ.

Tôi từ giã gia đình sau đó ba hôm. Khi tiễn đưa, mẹ tôi vẫn vui vẻ. Đến lúc đó, tôi mới hiểu, bà là một người rất khác thường.

(Phần tự thuật của Đại sư Hám Sơn, lược trích trong Thiền Đạo Tu Tập của Chang Chen Chi)  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10507)
Tập Kỷ Yếu này ghi nhận lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những hình ảnh sinh hoạt của Trường Hạ Minh Quang như một món quà tinh thần kỷ niệm cuối khóa cho mọi hành giả tham dự khóa tu... Giáo Hội ÚC Châu
(Xem: 9602)
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời... Nhất Hạnh
(Xem: 9286)
Toàn bộ mục tiêu của tôn giáophổ cập từ ái và bi mẫn, nhẫn nhục, bao dung, khiêm tốn, tha thứ... Dalai Lama
(Xem: 31314)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 20739)
Những bài nói chuyện trong tập sách này được đề cập đến những vấn đề rất tổng quát của tâm, nhân dịp Lạt ma Yeshe đi thuyết giảng vòng quanh thế giới lần thứ hai cùng với Lạt ma Zopa...
(Xem: 23176)
Thơ Văn Lý Trần - Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977, Nhiều Tác Giả
(Xem: 17801)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 11668)
Mục đích có được thân người quý báu này không phải chỉ để tạo hạnh phúc cho chính mình, mà còn để làm vơi bớt khổ đau, đem lại hạnh phúc cho người. Đó là mục đích đời sống.
(Xem: 21472)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 8784)
Đại ý bài kinh đại khái nói về việc ngài Anan thưa hỏi đức Thế Tôn về việc phụng sự Phật phápkiết tường hay hung tai? HT Thích Minh Thông
(Xem: 22259)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 13353)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38566)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 13496)
Nhà Sư Vướng Lụy hay truyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly - Nguyên tác Tô Mạng Thù; Bùi Giáng dịch
(Xem: 24408)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 15004)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24751)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 10215)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
(Xem: 17678)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22812)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 22710)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7555)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng...
(Xem: 14103)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 27118)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 26860)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 19907)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20892)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21435)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13238)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
(Xem: 13376)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 29925)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 13920)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13963)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 32545)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 24117)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 29856)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31642)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 34232)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 18504)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
(Xem: 19545)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 32908)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 18764)
Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng.
(Xem: 30899)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 16169)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26824)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 32680)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39434)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40540)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 19350)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
(Xem: 19336)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant