Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Ý Nghĩa của Sự Không Tranh Biện Trong Phật Giáo

23 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 10727)
05. Ý Nghĩa của Sự Không Tranh Biện Trong Phật Giáo
PHẬT GIÁO
TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Sự canh tân của Phật giáo từ Đông sang Tây
Hoang Phong biên soạn và dịch

Ý NGHĨA CỦA SỰ KHÔNG TRANH BIỆN TRONG PHẬT GIÁO

 Các kinh sách, đặc biệt là kinh sách Nam tông, ghi chép rằng vào thời kỳ của Đức Phật không phải chỉ có một trào lưu duy nhấtPhật giáo, trái lại Đức Phật đã sống trong một thời kỳ vô cùng phong phú gồm nhiều truyền thống triết họctín ngưỡng khác. Có rất nhiều vị Thầy lớn tuổi và nổi tiếng hơn cả Phật, chẳng hạn như vị thầy Bà-la-môn Jina Mahavira mà kinh sách Phật giáo thường nói đến dưới danh hiệu là Nigantha Nathaputta.

Trong bối cảnh đặc biệt của sự phát triển cao độ các trào lưu tinh thần của nước Ấn vào thời bấy giờ, sự tranh biện giữa những nhà lãnh đạo và các người chủ trương các học thuyết cũng hết sức cởi mở, rộng rải và tự nhiên một cách lạ thường. Bối cảnh đó đã được ghi chép trong vô số kinh điển Phật giáo và ngoài Phật giáo. Vậy vị trí của Phật giáo trong bối cảnh ấy như thế nào, Đức Phật đã dạy các đệ tử của Ngài phải giữ thái độ như thế nào trước những tranh biện phức tạpthuần lý mang ít nhiều màu sắc tín ngưỡng ấy?

Các học phái và trào lưu ngoài Phật giáo

Kinh sách (trong số này có kinh Samannaphala-sutta) thường nói đến sáu vị Thầy quan trọng hơn hết, các vị thầy ấy không nhất thiết chủ trương một tôn giáo theo định nghĩa thông thường, nhưng đại diện cho nhiều trào lưu triết học dựa vào sự biện luận duy lý hoặc dựa vào vài sắc thái tín ngưỡng. Những trào lưu ấy được phân loại như sau :

- Trào lưu thứ nhất do vị Thầy Purana Kassapa chủ trương. Trào lưu này tin rằng không có sự thưởng phạt nào cả đối với các hành vi thực thi, tức không có một hậu quả nào trong các hành vi duy ý. Vì vậy trào lưu hay chủ thuyết này chủ trương tính cách ngẫu nhiên của vạn vật, có nghĩa là mọi sự vật và biến cố xảy ra một cách tình cờ, ngẫu nhiên và ngẫu biến, không lệ thuộc vào điều kiện. Kinh sách Phật giáo gọi chủ thuyết này là addhiccasamuppanna-vada, (theo Trường Bộ Kinh – Digha-Nikaya).

- Trào lưu thứ hai do vị Thầy Makkhali Gosala, sống cùng thời đại với Đức Phật, chủ trương thuyết định mệnh, tiền định hay số mệnh, và cho rằng những hành vi đạo hạnh hay độc ác không có ảnh hưởng gì đến việc giải thoát con người. Sự cố gắng và hành vi của con người chẳng có hiệu quả gì trong chuỗi dài hiện hữu của họ. Họ chỉ cần chịu đựng hết cái chuỗi dài đó cho đến khi nào nó chấm dứt một cách tự động, khi ấy con người sẽ đạt được sự giải thoát cuối cùng. Chuỗi dài hiện hữu của mỗi cá thể đã được quyết định từ trước, không thay đổi được. Tuy nhiên trào lưu này lại chủ trương có sự biến cải và thăng tiến tuần tự cho mỗi lần tái sinh, từ dạng thể thấp đến dạng thể cao hơn, cho đến khi nào chấm dứt, (theo Trường Bộ KinhDigha-nikaya).

- Trào lưu thứ ba do vị Thầy Ajita Kesakambali chủ xướng, dựa vào thuyết tự hủy, tức là mọi thứ, mọi vật thể tự tiêu tan hay tan biến hết chẳng còn gì cả (Tây phương gọi là annihilism). Kinh sách Phật giáo gọi chủ thuyết này là ucceda-vada. Chủ thuyết hư không hay hư vô trên đây được phổ biến rộng rãi trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế và chia ra nhiều chi phái, nhưng tất cả đều cho rằng sự tu tập chẳng có ích lợi gì, sự hiểu biếtđạo hạnh chẳng giữ một tầm quan trọng nào nơi mỗi cá thể. Theo các chủ thuyết này, con người gồm tứ đại : đất, nước, lửa và khí. Khi chết, mỗi thành phần vừa kể sẽ quay về bản thể chung, tương ứng với chúng trong thiên nhiên : đất với đất, nước với nước, v.v., các chức năng giác cảm thì hội nhập với không gian. Mỗi cá thể sẽ bị xoá bỏ bằng cái chết, và sau cái chết sẽ chẳng còn gì cả.

- Trào lưu thứ tư chủ trương thuyết bất diệt gọi là sassata-vata, do nhiều vị thầy khác nhau chủ xướng, trong số đó vị nổi tiếng nhất là Pakhuda Kaccayana. Theo chủ thuyết này con người được cấu hợp bởi bảy thành phần : đất, nước, lửa, khí, thích thú, đau đớn và sức sống (jiva). Bảy thành phần riêng rẽ đó không sinh cũng không diệt, không khởi thủy cũng không chấm dứt, chúng trường tồn một cách độc lập, không tác động lẫn nhau, không thay đổi, không biến hoá cũng không thăng tiến, cứ giữ nguyên như thế đến vô tận, (theo Trường Bộ Kinh – Digha-nikaya).

- Trào lưu thứ năm thật ra bao gồm nhiều trường phái khác nhau và chủ trương một hệ thống giáo lý theo đó thế giới này là sự sáng tạo của một đấng tối thượng, kinh sách Phật giáo gọi đấng tối thượng này là issara-nimmana-vada. Các trường phái khác nhau đưa ra các định nghĩa ít nhiều khác nhau về Đấng Sáng tạo này và gọi bằng nhiều danh xưng khác nhau : Maha-Brama, vị Chiến thắng, vị Chủ thế giới, Tác giả, vị Sáng tạo, vị Tác tạo định mệnh, vị Tự quản, người Cha của những kẻ đã được sinh ra và sẽ được sinh ra…Các vị thầy chủ trương các hệ phái này là các vị : Acchariyas, Tittiriyas, Chandokas, Chandavas, Brahmacariyas…, đồng thời tên của các vị thầy cũng được đem ra dùng để gọi các hệ phái do các vị ấy chủ xướng.

- Trào lưu thứ sáu là một trào lưu khá lạ lùng, cũng được truyền bá trong thời kỳ của Đức Phật. Vị Thầy được biết đến nhiều nhất trong trào lưu này là Sanjaya Bellatthiputta, ông không bao giờ trả lời những câu hỏi được nêu lên mà luôn luôn tránh né, dùng luận cứ bất khả tri (không thể hiểu được sự tuyệt đối) để tránh đối đầu, chẳng những với các câu hỏi về các chủ đề liên quan đến đạo đức và siêu hình, mà còn tránh né cả các câu hỏi mang tính cách đại cương. Theo Sanja Bellatthiputta, những câu hỏi và những câu trả lời rốt ráo và đích thực đều liên quan đến những gì không thể xác định được, không thể diễn tả được và không thể giải thích được. Người ta thường ví ông như một cái kim luồn qua hai mép vải.

Thái độ của Phật

Không biết các kinh sách Nam tông có ghi chép và diễn tả đầy đủ tất cả các chủ thuyết thời bấy giờ hay không, nhưng đều cho biết một cách minh bạch rằng Đức Phật không chủ trương ngẫu biến, định mệnh, hư vô, bất diệt, sáng tạo, bất khả tri. Điều đáng chú ý hơn hết là ngay trong tập đầu tiên của Kinh Tạng (tức kinh Brahmajala-sutta) đã nêu lên sự kiện Phật bác bỏ 62 chủ thuyết của các vị thầy đương thời. Trong số 62 chủ thuyết ấy có 23 chủ thuyết chủ trương cái ngã (atman), còn gọi là cái tôi, cái ta, và trong số các chủ thuyết còn lại có nhiều chủ thuyết chủ trương sự bất diệt hay trường tồn.

Phật nói rằng : « Bất cứ một quan điểm nào trong số 62 quan điểm [đã đề cập] đều có thể hiển hiện trong đầu của bất cứ ai mang ý niệm sai lầm về cá tính con người (sakkaya-ditthi), nhưng khi nào khái niệm sai lầm này không có, sẽ không còn có sự bám víu vào các quan điểm ấy nữa » (kinh Sammyutta-nikaya). Câu nói trên đây của Phật có nghĩa là gì? Có nghĩa là Phật muốn ám chỉ đến cái vô minh trong mỗi cá thể con người, cái vô minh về sự hiện hữu của cái ta, cái tôi, cái ngã. Con người diễn đạt những thứ ấy qua cái vô minh của mình và gán cho cá thể con người đủ mọi loại đặc tính như trường tồn, hư vô, an bài, định mệnh, hậu quả hay tác phẩm của sự sáng tạo thiêng liêng v.v… Những diễn đạt ấy sẽ làm phát sinh những quan điểm khác nhau. Tệ hơn nữa là mỗi cá thể chẳng những tự diễn đạt những quan điểm ấy cho riêng mình, mà còn tìm cách áp đặt cho kẻ khác. Sự áp đặt cho kẻ khác những diễn đạt về cái tôi, cái ta, cái ngã theo quan điểm của mình chính là nguồn gốc của mọi sự tranh biện.

Phật cảnh giác chúng ta phải tránh sự tranh biện ấy vì ba lý do như sau :

- lý do thứ nhất : các quan điểm khác nhau, sự cả tin hay đức tin của mỗi người và sự biện luận thuần lý sẽ không có ích lợi gì cả, không thiết thực và không giúp ta nhìn thẳng vào vấn đề, do đó Phật dạy không nên quan tâm đến những thứ như thế .

Trong Trung Bộ Kinh (kinh Culamalunkyaputta-sutta), có kể chuyện về một đệ tử của Phật tên mà Malunkyaputta như sau. Malunkyaputta đang ngồi thiền định một mình bổng nhiên những thắc mắc sau đây vụt hiện ra trong đầu : « Vũ trụ trường tồn vô hạn hay không trường tồn vô hạn ? Vũ trụgiới hạn hay không có giới hạn ? Nguyên lý của sự sống thuộc chung một thứ với thân xác hay là nguyên lý sự sống là một thứ riêng biệt và thân xác là một thứ gì khác ? v.v. ».

Malunkyaputta liền đến tìm Đức Phật để hỏi. Đức Phật giảng cho Malunkyaputta như sau : « Này Malunkyaputta, mặc dù có một quan điểm theo đó vũ trụ vô tận và có một quan điểm [khác] theo đó vũ trụ không vô tận, nhưng trước nhất phải hiểu rằng có sinh, có già, có chết, có khổ, có than khóc, có đớn đau, xót xa và tuyệt vọng. [Đối với] Ta, Ta [chỉ] giảng [cho con] về sự chấm dứt những thứ ấy trong thế giới này, trong chính sự sống này. Vì thế, này Malunkuyaputta, hãy giữ lấy trong tâm những gì Ta giảng, đúng như Ta đã giảng, và những gì Ta không giảng, đúng như Ta không giảng…». Phật trả lời cho Malunkyaputta từng chủ đề một, nhưng chỉ trích ra đây một câu tiêu biểu liên quan đến vũ trụ. Vì tính cách lập đi lập lại triền miên của kinh sách, nếu trích ra hết sẽ làm cho bài viết quá dài.

-lý do thứ hai : Phật giúp ta tránh khỏi những biện luận duy lý hay thuần lý đưa đến những quan điểm đối nghịch làm phát sinh ra những tranh luận bất tận. Các chủ thuyết siêu hình thông thường đưa đến những giáo điều gò bó, cần phải có sự cả tin để chấp nhận, hoặc đưa đến việc tìm tòi những luận cứ đủ loại có tính cách chống đỡ hay bài bác. Các luận cứ ấy không phải là những kinh nghiệm thực tiễn do mỗi người thực hiện được, vì thế không thể giúp cho ta đánh giá luận cứ này đúng hơn một luận cứ khác.

Khoa học tiến triển dựa trên giả thuyết, khi một giả thuyết còn đứng vững chưa bị đã phá thì những hiểu biết do giả thuyết ấy mang đến vẫn còn có giá trị, khi một giả thuyết bị xụp đổ thì những hiểu biết dựa trên giả thuyết ấy cũng mất giá trị theo. Trên phương diện biện luận thuần lý, một quan điểm do một cá nhân đưa ra cũng chỉ là một quan điểm như những quan điểm khác. Nếu ta bám víu vào một quan điểm nào đó sẽ đưa đến sự tranh luận hay biện luận bất tận. Nếu như sự bám víu ấy trở nên quá mạnh sẽ có thể đưa đến sự phân biệt và kỳ thị, cố chấp và thiếu khoan dung, hậu quả đưa đến là sự xung độtchiến tranh tôn giáo như đã từng xảy ra trong lịch sử Phương Tây.

-lý do thứ ba : Phật dạy ta giữ một thái độ «trung hoà» hay đúng hơn «đứng ra ngoài mọi quan điểm», không để cho bất cứ một quan điểm nào gây trở ngại cho sự thăng tiến nội tâm của ta. Không phải chính các quan điểm «đứng ra» gây trở ngại, mà chính sự bám víu của ta vào quan điểm này hay quan điểm khác đã trực tiếp cản trở ta trên đường thăng tiến tâm linh. Sự kiện bám víu sẽ tạo ra vô minh làm cho tâm thức u mê.

Bám víu vào bất cứ một quan điểm nào (dhamma tanha) là một điều Phật cấm đoán. Vượt thoát mọi quan điểmsự Giải thoát. Một trong những thể dạng của kỹ thuật ngồi thiền là không tìm cách «giải thích» mọi sự vật và biến cố, đồng thời cũng không diễn đạt những nhận biết của giác cảm trên thân xác và những tư duy hiển hiện trong tâm thức, và đó cũng là cách ứng dụng vào thực tế lời giảng của Phật trên đây : đứng ra ngoài mọi diễn đạt và mọi quan điểm. Giác cảm là giác cảm, không có sự khác biệt giữa một giác cảm thích thú và một giác cảm khổ nhọc hay bấn loạn. Không có sự khác biệt giữa một quan điểm gọi là «đúng» và một quan điểm gọi là «sai», một quan điểm là một quan điểm.

Sau đây là một thí dụ cụ thể hơn. Qua sự lý luận thông thường, ta cho rằng quan điểm chủ trương «có sự hiện hữu của cái ngã», tức tôi có cái ngã của tôi, là một quan điểm sai (miccha ditthi), quan điểm trái ngược lại tức là vô ngã, có nghĩa là không có cái tôi (anatta vada) sẽ phải là một quan điểm «đúng». Nhưng thật ra nên hiểu như thế này: tin rằng không có sự hiện hữu của cái ngã, hay tin là đúng quan điểm không có cái ngã đều «không đúng», giản dị chỉ cần tránh đừng tin là có cái ngã. Sự tế nhị là ở chỗ phái tránh sự cả tin là có cái ngã. Tin hay không tin là hai thái cực của nhị nguyên, hai thái cực ấy sẽ được diễn đạt thành hai quan điểm đối nghịch, tránh là đứng ra ngoài hay lên trên cả hai quan điểm. Đấy là ý nghĩamục đích của việc tránh sự tranh biện trong Phật giáo.

Những kinh nghiệm thực hiện trong Phật giáo

Phật giáo tránh những quan điểm dựa vào sự biện luận thuần lý và những diễn đạt không phát xuất từ kinh nghiệm bản thân, nhất là những biện luận «siêu hình», nhưng không phải vì thế mà Phật giáo không đạt được những hiểu biết siêu việt. Kinh nghiệm do bản thân đối với Phật giáo không phải chỉ dựa trên sự cảm nhận của giác cảm và tâm thức mà còn dựa trên sự hiểu biết «siêu giác cảm», «siêu tâm thức», một sự hiểu biết trực giáctối thượng, nhờ vào sự tu tập lâu dài, chẳng hạn như sự nhận biết về các kiếp trước, về sự tái sinh sau khi chết, sự nhận biết bản thể đích thực của thế giới này, về bản chất của mọi vật thể và biến cố. Những kinh nghiệm trực giáctối thượng đó chính là mục đích của việc tu tập Phật giáo.

Trong kinh Sangarava-sutta, thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật phân biệt ba loại thầy chủ xướng ba xu hướng tâm linh khác nhau, liệt kê như sau : xu hướng thứ nhất có tính cách thần khải (tiết lộ bằng thần cảm) (anussavika), sự hiểu biết thần khải dựa trên kinh sách thiêng liêng gọi là thánh kinh, chẳng hạn như trường hợp các vị thầy Bà-la-môn, nhất là thuộc trường phái Phệ đà (Veda). Các vị thầy thuộc xu hướng thứ hai dựa vào những khái niệm siêu hình căn cứ trên sự biện luận duy lý (takki vimansi) và các vị thầy này tự cho rằng họ có thể đạt được những hiểu biết căn cứ trên sự biện luận và những luận cứ thuần lý. Xu hướng thứ ba gồm các vị thầy đạt được sự hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp xuyên qua sự luyện tập tâm thức. Đức Phật là một vị Thầy thuộc vào nhóm thứ ba.

Đối với Phật giáo, không có chỗ nào dành cho các quan điểm thuần lý cũng như những quan điểmtính cách thần khải. Trong rất nhiều kinh sách, chẳng hạn các kinh Kalama-sutta (trong Tăng Nhất Bộ Kinh), Canki-sutta (trong Trung Bộ Kinh), Phật luôn luôn cảnh giác các đệ tử của Ngài phải xem xét, kiểm tra thật cẩn thận bằng sự hiểu biết kinh nghiệm bất cứ một điều gì trước khi chấp nhận hay phủ nhận. Sự hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp hay trí tuệ do sự tu tập đem đến khác với sự kiệnmột quan điểm hay có một đức tin, hai thể dạng hoàn toàn khác nhau.

Kết luận

Sự lý luận, phân giải, tranh biện rất cần thiết cho khoa học, giúp khoa học thiết lập những giả thuyết, trên những giả thuyết ấy sẽ xây dựng sự hiểu biết. Những giả thuyết đánh đổ lẫn nhau để thúc đẩy sự tiến bộhiểu biết. Nhưng theo Phật giáo, những hiểu biết ấy vẫn là những hiểu biết chủ quan, công thứcquy ước, mang tính cách nhị nguyên, không thể dùng để diễn tả sự thực thực tuyệt đối của hiện thực.

Tránh sự biện luận trong Phật giáo là tránh những đối nghịch và bế tắc do sư hiểu biết nhị nguyên, quy ước và sự biện luận thuần lý gây ra. Tránh sự đối nghịch không phải là một thái độ sợ sự hiểu biết mà là phương cách vượt lên trên sự hiểu biết để đạt được sự quán nhận trực tiếp, rốt ráotối thượng về bản chất đích thực của hiện thực. Sự hiểu biết rốt ráotối thượng ấy gọi là sự quán nhận siêu nhiên (panna). Đối với Phật giáo Nam tông, sự hiểu biết ấy tượng trưng cho cấp bậc thứ ba trong việc tu tập. Cấp bậc thứ nhất là tu giới, cấp bậc thứ hai là tu định (samadhi), cấp bậc thứ ba là tu quán (vipassana), tức sự quán thấy hay minh sát bằng trí tuệ. Theo Nam tông trí tuệ ấy giúp người tu tập nhận biết chính xác và trực tiếp tứ diệu đếvô ngã của con người, kết quả đưa đến là thể dạng giải thoát của bậc A-la-hán. Bắc tông gọi cấp bậc thứ ba trên đây là tu tuệ và định nghĩa khác hơn một chút. Bắc tông gọi trí tuệ đạt được trong cấp bậc tu tập thứ ba là Trí tuệ siêu nhiên còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật (prajnaparamita), tức là sự quán nhận trực tiếp hay sự thực hiện trực tiếpnh không của cá thể con người và của tất cả mọi hiện tượng từ tâm thức đến ngoại cảnh, sự quán nhận hay thực hiện Tánh không ấy sẽ đưa đến sự Giải thoát cuối cùng

 

Ghi chú : bài viết chủ yếu dựa theo kinh sách Nam tông. Các lời trích dẫn được trích từ các kinh sách đã được dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang ngôn ngữ Tây phương, do đó có thể có vài sự khác biệt nhỏ so với kinh sách tiếng Việt dịch từ kinh sách gốc Hán. Các chữ chú thích trong hai dấu ngoặc đơn là tiếng Pa-li, nhưng vì lý do kỹ thuật nên không đánh dấu được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3989)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3168)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7176)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5695)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 4040)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3151)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12290)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5199)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3933)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9293)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7569)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27189)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5990)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5714)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6233)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5805)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5566)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7899)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4823)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12243)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21920)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6562)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7523)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6794)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6360)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8615)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6138)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5752)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14359)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20393)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 7006)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6907)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6458)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6561)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6082)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7508)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7463)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8606)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6538)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6950)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10561)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 20003)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30307)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16274)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19747)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11123)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14452)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7866)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10537)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 8005)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant