Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 4: Sự hành hóa của đức Thích Tôn và giáo đoàn La hán đệ tử

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9531)
Tiết 4: Sự hành hóa của đức Thích Tôn và giáo đoàn La hán đệ tử

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC THÍCH CA THẾ TÔN

TIẾT IV. SỰ HÀNH HÓA CỦA ĐỨC THÍCH TÔN VÀ GIÁO ĐOÀN LA HÁN ĐỆ TỬ

Tại Lộc Dã Uyển Đức Thích Tôn độ năm vị Tỳ kheo - năm anh em Kiều Trần Như. Nhân đấy mới có giáo chủ, giáo phápgiáo đoàn (Phật - Pháp - Tăng). Tiếp đó đức Phật độ ngài Da Xá (Yasá) và thân hữu của ông cả thảy mười người. Sau đó Phật độ ngài Mãn Từ Tử, Đại Ca Chiên Diên, Bà Tỳ Da v.v… các vị này từ bỏ ngoại đạo, qui y Phật pháp, và đều chứng quả A la hán ly dục.

Đức Thích Tôn trải qua mùa mưa tại Vườn Nai bằng sinh hoạt an cứ đầu tiên. Sau mùa An cư, Ngài khuyến khích các La hán đệ tử mỗi người nên đi du hóa mỗi phương để rộng truyền giáo nghĩa Phật pháp. Ngài yêu cầu các La hán đệ tử không nên du hóa hai người trên cùng một địa xứ. Riêng đức Phật, Ngài đơn độc đi đến làng Ưu Lâu Tần Loa, tại đây Ngài hóa độ ngoại đạo thờ lửa là Ưu Lâu Tần La Ca Diếp (Urivilvà - Kàsyapa) và hai người em của ông này là Na Đề Ca Diếp (Nadì Kàsyapa) và Già Da Ca Diếp (Giayà - Kàspa), cùng chúng đệ tử của ba vị nầy cả thảy một nghìn người.

Đức Thích Tôn nhớ lời hẹn trước đây với vua Tần Bà Sa La nên Ngài cùng ba anh em nhà Ca Diếp và chúng đệ tử đi đến thành Vương Xá. Tại đây, đức Phật được quốc vương đích thân thống lãnh thần dân ra tận ngoại thành nghênh đón. Bấy lâu vua Tần Bà Sa La đã từng nghe danh của ba anh em nhà Ca Diếp, nay mới được hội kiến, nhưng lúc này cả ba đã trở thành đệ tử Phật, điều đó khiến cho tín tâm của vua và thần dân thêm phần khẩn thiết. Do đó, sau thời thuyết pháp do đức Phật thuyết giảng, nhà vua liền đắc pháp nhãn tịnh (Kiến Địa vị). Còn có trưởng giả Ca Lan Đà (Kalanda) đem vườn Trúc của ông ở ngoại thành Vương Xá cúng dường đức Phật, trong khi đó vua Tần Bà Sa La kiến tạo tịnh xá tại vườn Trúc để cúng Phậtchúng thánh đệ tử; và từ đó vườn Trúc trở thành đạo tràng qui mô to lớn của Phật giáo. Bốn năm sau Phật thành đạo, một trong sáu lục sư ngoại đạo thuộc phái Ngụy Biện là Tượng Xá Lợi Phất, khi ông đang trên đường đi, bỗng nhiên có tiếng nói lớn hướng về ông mà nói: “Các pháp do nhân duyên sinh, các pháp cũng do nhân duyên diệt. Chư hành vô thường, vì là pháp sinh diệt, diệt hết sinh diệt, tịch diệt là vui”. Khi lời vừa dứt ông liền đắc pháp Nhãn tịnh; vì đó là giáo nghĩa căn bản của Phật pháp nên không có gì lạ. Xá Lợi Phất lòng cảm thấy bồn chồn vì chưa từng được nghe diệu pháp này. Ông đem diệu pháp vừa nghe thuật lại với người bạn đồng mônĐại Mục Kiền Liên, và rồi cả hai cùng đưa hai trăm năm mươi đệ tử của mình đi đến bái kiến đức Phật, và cùng xin xuất gia theo Phật. Sau khi xuất gia, tất cả đều chứng đắc A la hán quả.

Lại nữa, có ngài Ma Ha Ca Diếp (Maha Kàsyapa), ông là người sớm xuất gia tu hạnh yểm ly, và được quốc dân Ma Kiệt Đà kính ngưỡng. Có lần Ngài tự nói: “Nếu không gặp Phật ra đời, thì ta là vị Độc Giác”. Nhân khi ông đang ở tại thành Vương Xá, và nghe nhiều người nói là đã gặp đức Phật trước thành, lúc ông nhìn thấy hình tướng đức Phật, ông tự giác ngộ thiểu phần, và liền hồi tâm đi vào pháp hải của Phật.

Như thường thấy trong kinh Phật có đoạn viết: “thiên nhị bá ngũ thập nhân câu, giai thị đại A la hán” (Hai nghìn năm trăm người câu hội, họ đều là bậc đại A la hán), đây là nói lúc giáo đoàn đã hình thành.

Năm năm sau khi thành đạo, đức Phật nhận lời thỉnh mời của dân thành Xá Vệ (Sràvast) thuộc nước Kiều Tát La (Kosala)ä, để đi đến thành này, tại đây có ông trưởng giả Tu Đạt (Sudatta - còn gọi là Tu Đạt Ta). Bỏ tiền mua một tòa “Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên” vô cùng giá trị để cúng dường đức Phật. Tức thì nơi đây trở thành trung tâm hoằng pháp đương thời. Cùng năm đó, Đức Thích Tôn nhận được lời triệu vời của vua Tịnh Phạn. Ngài liền lên đường hồi qui cố quốc để thăm lại phụ vương. Vua Tịnh Phạn cho kiến lập tịnh xá tại vườn Ni Câu Luật để làm nơi tiếp đãi đức Phật. Lần trở về cố hương này rất là trang nghiêm, bởi tất cả chúng Thánh đệ tử cùng đi với đức Phật. Đức Thích Tôn vì phụ vương mà thuyết pháp. Đang khi nghe Phật thuyết pháp Tịnh Phạn vương liền đắc “Pháp nhãn tịnh”. Cũng trong dịp này, có rất nhiều người trong hoàng cung cầu xin thọ giới pháp; đồng thời đức Phật độ người em dị bào là A Nan(15) xuất gia. Thân tử Ngài là La Hầu La cũng cầu Phật xin xuất gia. Chuyến hồi hương này, đức Phậtchúng Thánh đệ tử lưu lại quê nhà trong bảy ngày; Ngài từ biệt phụ vương để trở lại thành Vương Xá. Những người trong Thích Ca vương tộc xin theo Phật xuất gia làm đệ tử, trong đó có nhiều vị nổi danh như ngài A Na Luật (Aniruddha), A Nan (Ànanda), Kim Tỳ La (Kumbalùra) Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) v.v… những vị này đặc biệt xin đức Phật “ưu ngộ”, nghe xong lời đề nghị, đức Phật liền quở trách các vương tử; vì đức Phật muốn biểu lộ sự bình đẳng trong Phật pháp; mặt khác, Ngài muốn ức chế tính khí kiêu ngạo của các vương tử.

Hậu thế truyền tụng mười vị đại để tử của Phật, trong đó ngoại trừ ngài Tu Bồ Đề (Subhùti) xuất gia hơi muộn, còn chín vị kia đều đã xuất gia.

- Đức Phật với Tăng Đoàn.

Tăng đoàn được gọi là Tăng Già (Sangha). Khi lần đầu tiên đức Phật độ năm vị Tỳ kheo, thì đó là lúc Tăng Già được hình thành.

Tăng Già trong Phật Giáo lấy Tỳ kheo làm trung tâm. Nhưng nội dung Tăng Già gồm có bảy chúng.

Việc vua Tần Bà Sa La qui y Phật, nhân đấy mà số nam, nữ tín đồ tại gia ngày càng tăng. Do vị thiếu niên xuất giaLa Hầu La, mà trong Tăng đoàn có vị Sa di. Do bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng năm trăm người nữ trong dòng họ Thích xuất gia, mà trong Tăng đoànTỳ kheo ni; trong số những người nữ xuất gia, có người còn ở tuổi vị thành niên, nên Tăng đoàn có nhiều vị Sa di ni. Lại nữa, có hạng người nữ đã từng có chồng, nhưng không rõ là họ có thai hay không (hoặc vì chồng chết, hoặc đã ly dị, ly thân) nay xin xuất gia. Ngại rằng chẳng lâu sau họ lại sinh con, khiến thế nhân phỉ báng, vì vậy tạm cho mỗi người thời gian là hai năm ở vị trí Thức xoa ma ni, sau hai năm nghiệm thấy họ không mang thai mới cho thọ giới Tỳ kheo ni.

Theo thứ tự và vị trí, Tăng đoàn đệ tử Phật có bảy chúng: 1. Tỳ kheo (Bhiksu), 2. Tỳ kheo ni (Bhiksun), 3. Thức xoa ma ni (Siksamànà), 4. Sa di (Sràma), 5. Sa di ni (Sràmanerikà), 6. Ưu bà tắc (Upàsaka), 7. Ưu bà di (Upàrikà).

Đến thời điểm này Đức Thích Tôn đã hoàn thành việc chế định giới luật cho bảy chúng đệ tử. Thông thường Tỳ kheo thọ, giữ hai trăm năm mươi giới. Tỳ kheo ni năm trăm giới. Thức xoa ma ni có sáu giới. Sa diSa di ni, giữ mười giới. Ưu bà tắcƯu bà di, tức nam nữ đệ tử tại gia thọ năm giới và phải thọ pháp qui y Tam Bảo. Sự khác biệt về giới tính, cần căn cứ theo giới pháp mà họ thọ trì để phân định. Nội dung giới luật, xin tham cứu “Giới Luật Cương Yếu”.

- Đức Phật và sự Truyền Ký.

Tính từ khi đức Phật thành đạo đến năm thứ sáu, tuy không có năm tháng rõ ràng, địa điểm hoạt động của Ngài để có thể khảo cứu. Chỉ biết sinh hoạt của đức Phật và chúng đệ tử vào mùa mưa, và được chép trong các tư liệu rất ít ỏi. Đấy là nhân vào các Truyền Ký trong văn học ghi chép về đức Phật. Như kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, kinh Phật Bản Hạnh Tập, Phật Sở Hành Tán, kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, kinh Bản Sinh v.v… Đại loại các kinh vừa nêu tự thuật lại những năm hoạt động sau khi Phật thành đạo. Do đó, chưa thể dùng những tự thuật này để quán xuyến các Truyện Ký về những sự tích trong quá trình hoạt động của Ngài để có thể lưu hậu.

Hiện tại căn cứ vào kinh Tăng Già La Sát Sở Tập(16), quyển hạ có liệt kê những nơi đức Phật và chúng đệ tử an cư vào các mùa mưa như sau:

Năm thứ nhất tại nước Ba La Nại, năm thứ hai, thứ ba tại đỉnh núi Linh Thứu, gần ngoại thành Vương Xá, năm thứ năm tại Tỳ Thư Ly (Tỳ Xá Ly), năm thứ sáu tại núi Ma Câu La (là núi Pandava cũng ở ngoại thành Vương Xá), năm thứ bảy ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên (tức cõi trời Đao Lợi, tại đây đức Phậtthân mẫuthuyết pháp). Năm thứ tám, thứ mười một, thứ mười hai, thứ mười ba, tại Quỉ Thần Giới (một bộ tộc của nước Kiều Thưởng Di, tức rừng Khủng Bố của nước Ba Kỳ), năm thứ chín tại nước Câu Khổ Tỳ (Kiều Thưởng Di), năm thứ mười trong núi Chi Đề (vị trí núi này chưa biết được). Năm thứ mười hai tại Ma Già Đà (Ma Kiệt Đà) thuộc xứ Nhàn Cư, năm thứ mười bốn tại Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên tại nước Xá Vệ, năm thứ mười lăm, mười sáu tại nước Ca Duy La Vệ, năm thứ mười bảy, mười tám và hai mươi tại thành La Duyệt (thành Vương Xá), năm thứ mười chín và hai mươi mốt tại núi Gia Lê (núi Calya phụ cận thành Vương Xá), về sau đức Phật và chúng đệ tử an cư tại Quỉ Thần Giới bốn lần, thành Xá Vệ mười chín lần. Năm thứ bốn lăm, đức Phật lần cuối an cư cùng Thánh chúng đệ tử tại thôn Tỳ Tướng thuộc nội cảnh nước Bạt Kỳ (Vriji).

Đức Thích Tôn lúc tuổi về già có nhiều việc Ngài không thuận ý. Tại thành Vương Xá, ông Đề Bà Đạt Đa yêu cầu đức Phật trao quyền lãnh đạo Tăng đoàn lại cho ông. Do không thỏa nguyện, Đề Bà Đạt Đa nuôi ý dấy lên phong trào phản Phật, hại Phật. Ông dùng thần thông biến hóa và hiệu triệu giới tu khổ hạnh cực đoan, tranh thủ vua A Xà Thế (Ajasatru) để tất cả đều ủng hộ ý đồ của ông. Vì thế, mười năm cuối đời Đức Thích Tôn không còn lưu lại thành Vương Xá, và cũng không trở lại thành Vương Xá.

Tại thành Xá Vệ sau cùng không được an ninh, ở phía nam, vua A Xà Thếám muội mà giết chết vua cha là Tần Bà Sa La để lên làm vua - đời thứ sáu của nước Ma Kiệt Đà. Ở mạn phía bắc, nước Kiều Tát La, thì vương tử Lưu Ly (Virùdhaka) của thành Xá Vệ, trước Phật nhập diệt vài năm cũng nổi lên xua đuổi vua cha là Ba Tư Nặc (Prasenajit) để đoạt lấy vương vị, đồng thời cử đại quân đánh úp thành Ca Tỳ la Vệ, quê quán của đức Phật. Đấy là lần diệt thành quách, diệt tộc họ - một cuộc đại thảm sát. Tộc Thích Ca cơ hồ bị tuyệt chủng trong cuộc binh biến này.

Tuy nhiên, sau lần giáo đoàn bị phân chia, và tổ quốc bị diệt vong, và Đề Bà Đạt Đa cũng đã chết, vua Lưu Ly bị vua A Xà Thế đánh bại, nước Kiều Tát La qui về bản đồ nước Ma Kiệt Đà, và rồi sau cùng vua A Xà Thế cầu qui y Phật. Vậy là Đức Thích Tôn sau mười năm khổ hạnh, phong sương, Ngài vẫn đi lại nhiều nơi để giáo hóa, sau rốt sắc thân ngũ uẩn của Ngài cũng dần dà lão suy.

- Sự giáo hóa sau cùng.

Qua bốn mươi lăm năm giáo hóa, cuối cùng đức Phật tự biết thân đã đến thời gian Ngài quyết định xả thân ngũ uẩn. Tuy vậy, nhưng Ngài vẫn cân nhắc thời gian thích hợp trước khi xả bỏ báo thân. Đầu tiên Ngài triệu tập toàn thể các Tỳ kheo đang có mặt tại Tỳ Xá Ly về tụ hội tại tịnh xá Trúc Lâm, đây là lần giáo hóa sau cùng vô cùng trọng yếu. Tiếp đó, Ngài đi về hướng thành Câu Thi Na La (Kusinagara). Thành này xưa tên là Câu Thi Na, cứ mỗi chặng đường đi qua, cảm thấy mệt thì Ngài nghỉ, nhất là khi đi qua các thôn ấp, đức Phật đều dừng lại nghỉ chân, và trong thời gian nghỉ ngơi, Ngài hướng về dân làng mà thuyết pháp. Sau cùng Ngài đến rừng cây Ta La (Sàla) ở ngoài thành Câu Thi Na La; đức Thích Tôn chọn khu rừng hoang của một tiểu quốc ít người biết đến làm nơi nhập diệt.

Đức Thích Tôn kiết tọa trên chiếc tăng Già Lê (Đại y) mà ngài A Nan vừa trải ra, rồi đức Phật nghiêng người nằm xuống nghỉ hướng về phía hữu. Trong lúc cơn suy kiệt không thể chịu đựng được nữa, thì có người ngoại đạo tên là Tu Bạt Đà La (Subhadra) đến khẩn cầu ngài A Nan cho phép ông bái kiến đức Phật. Nghe vậy, đức Phật gắng sức tiếp ông ta và Tu Bạt Đà La trở thành người đệ tử cuối cùng được đức Phật độ thoát.

Trước lúc đức Phật xả thọ, Ngài hướng về chúng Tỳ kheo đệ tử mà giáo giới: “Thế này các Tỳ kheo, vô viphóng dật, ta chọn không phóng dật, ta tự thành chánh giác. Vô lượng chúng thiện, cũng do không phóng dật mà có. Tất cả vạn vật, không vật nào là thường tồn. Đây là lời dạy sau cùng được Như Lai nói ra(17). Trong kinh Phật Di Giáo(18), đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, thường nên nhất tâm, siêng năng cầu đạo xuất ly. Tất cả các pháp động và bất động của thế gian, đều là tướng tán hoại và bất an là lời dạy cuối cùng của ta.” Đấy là biểu lộ lòng thương người tối hậu của đức Phật trong tình cảnh cuối cùng. Đức Phật sánh như người mẹ hiền vĩ đại! Trước lúc sắp đi xa, lòng cứ xót xa lo lắng cho những đứa con gái thơ dại của mình, chúng không biết tự lo những việc như ăn mặc, đi đứng, vì thế Ngài căn dặn đi, căn dặn lại, và rồi dặn đi dặn lại.

Từ khi đức Phật thành đạo đến lúc Ngài sắp nhập diệt, đức Phật luôn hết lòng cứu giúp và giáo hóa chúng sinh. Bất luận ở hoàn cảnh nào, Ngài cũng đều xử sự một cách ôn hòa, khoan đại, giữ lấy trung đạo mà hành xử. Ngài chưa từng bao giờ thốt ra một câu nói ngạo mạn, khinh người. Ngài cũng chưa bao giờ có động thái biểu lộ sự bất bình dù là trong nội tâm.

Nơi tự thân Ngài, đức Phật luôn ôm lòng bi mẫn giáo hóa chúng sinh. Trí huệ quang minh, vô hạn và sâu kín của Ngài là hoàn toàn sung mãn. Vì thế bất luận là vấn đề gì, khi xử lý Ngài cân nhắc cả về lý, tình của nó, không nghiêng ngả chủ quan. Quả thực Ngài là đấng cha lành của thế gian, là đấng đạo sư của Trời, người. Đức Phật là Phật ở chính những gì Ngài đem lại cho nhân loại.


(1) Đại Chánh Tạng-1, trang 771

(2) .Đại Chánh tạng - 1, từ trang 88 đến trang 94

(3) Đại Chánh tạng - 49, trang 23.

(4) Đại Chánh tạng - 49, trang 142.

(5) Đại Chánh tạng - 49, trang 23.

(6) Tiểu Dã Huyền Diệu viết trong Phật Giáo Niên Đại Khảo.

(7) Ấn Độ Triết học, nghiên cứu của Vũ Tỉnh Bá Thọ, quyển 2, trang 59, năm Chiêu Hòa 40. Nham Ba Thư Điếm.

(8) Tân Phật Giáo Từ Điển, của Giám Tu Trung Thôn Nguyên, trang 245, Chiêu Hòa năm 62, bản thứ tám. Thánh tín thư phòng.

(9)Phật Giáo Ấn Độ, của Ấn Thuận pháp sư, trang 84, tiết I, chương V.

(10) Tăng Nhất A Hàm Kinh, phần cuối quyển 4 có chú thích việc này. Đại Chánh tạng-2, từ trang 75 trở lui.

(11) Đại Chánh tạng-24, giữa trang 114.

(12) Chandaka có nơi dịch là Siển Đà hoặc Siên Nô

(13) Trung A Hàm Kinh, quyển 56, kinh 2004 - Ma La Kinh. Đại Chánh tạng-1, trang 777.

(14) Đại Chánh tạng-2, từ trang 7 trở lui.

(15)A Nan là con bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề.

(16) Đại Chánh Tạng-4, giữa trang 144.

(17)Kinh Trường A Hàm, quyển 4, Kinh thứ 2. Du Hành Kinh. Đại Chánh tạng-10, giữa trang 26.

(18)Đại Chánh tạng-12, giữa trang 1112.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17803)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18218)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14993)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13192)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32590)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15320)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12836)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27531)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34966)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17751)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32473)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19461)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53179)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11665)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13432)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34178)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13566)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15916)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22978)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13906)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24978)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant