Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 4: Thánh điển thời sơ kỳ

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9743)
Tiết 4: Thánh điển thời sơ kỳ

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG III

NGUYÊN THỈ PHẬT GIÁOTAM TẠNG KINH ÐIỂN

TIẾT IV. THÁNH ÐIỂN THỜI SƠ KỲ

- Mở đầu Thánh Ðiển.

Sự cấu thành Thánh điển của thời này là chỉ đạo giai đoạn hoàn thành hình thái Phật điển ở vào thời sơ kỳ. Thời sơ kỳ ước phỏng từ thời đại đức Phật đến thời đại vua A Dục, hoặc ngay cả thời đại Bộ phái mãi đến sau này.

Tại tiết hai của chương này đã có nói đến thời đại đức Phật, thời này chỉ tập thành có: Pháp Cú, Nghĩa Phẩm, Ba La Diên, Ô Ðà Nam, Ba La Ðề, Mộc Xoa. Tất cả là do các đệ tử Phật ghi nhớ và đọc tụng ra, rồi tùy theo tính cách của mỗi đề cương được đức Phật thuyết giảng mà phân loại để biên tập.

Theo “Ðại Sử” của Nam truyền, thì lần kết tập thứ nhất sau Phật Niết bàn chỉ có Pháp (kinh) và Luật (giới) nhưng chưa đưa ra danh mục. Trong khi “Ðảo Sử” thì cho rằng, nội dung lần kết tập thứ nhất gồm có “Cửu phần giáo”. Khi nói đến tam tạng Thánh điển thì phải bao quát cả Luận tạng. Nhưng sự xuất hiện của Luận tạng, theo Nam truyền, sớm nấh là khi có sự ra đời của “Di Lan Ðà Vấn Kinh” (Milinda pãnha- tương đương với kinh Na Tiên Tỳ kheo của bản Hán dịch; thời đại xuất hiện của kinh này khoảng một thế kỷ trước công nguyên). Tuy nhiên, cũng có thể xác định là ở thời đại Phật tại thế, thực chất là đã có Luận, dù chưa định hình thành một khoa độc lập.

- Luật TạngPháp Tạng

Luật là khuôn phép tối sơ vốn từ quá khứ đã khó tra cứu. Các học giả cận đại dùng tạng luật Ba Lị, và luật Ma Ha Tăng Kỳ bản Hán văn để đối chiếu so sánh với chủ ý tiến gần đến “cận cổ”. Có người đem tạng Luật của thời kỳ đầu khi mới xuất hiện phân ra thành hai đại cương gồm luật Tỳ kheoLuật Tỳ kheo ni. Mỗi cương lại chưa thành: Tỳ Ni, Tạp Bạt Cứ, và Oai nghi; dựa vào cách chia này, thì nội dung “Tỳ kheo Giới Kinh” của cổ bản cũng chỉ có Tứ Ba Di, mười ba giới Tăng Già Ba Thi Sa, hai giới Bất định, ba mươi giới Ni Tát Kỳ Ba Dật Ðề, chín mươi hai giới Ba Dật Ðề, bốn Hối Quá, cộng cả thảy là 145 giới. Chúng học pháp lý đán thuộc về Oai nghi loại. Thất diệt tránh, là xuất từ Tạp Bạt Cứ loại chứ không thuộc Tỳ Ni loại. Hiện tại, hai trăm năm mươi giới mà Tỳ kheo thọ nhận, rõ là vì phương tiện học tập nên hậu nhân mới lấy Chúng học pháp, và Thất diệt tránh thêm vào mà thành giới kinh.

Có người lấy từ bia đá được khắc dưới thời vua A Dục, trong đó ghi: “pháp tối thắng được nói trong Tỳ Nại Da” rồi suy luận rằng. Tạng luật chắc chắn là đã được định hình trước thời vua A Dục. Thực thì đây chỉ là căn cứ theo nguyên tắc phán đoán của Thượng Tọa Bộ, vì Bộ này đặc biệt coi trọng giới luật. Do đó, có thể là lần kết tập thứ nhất, ắt cũng đã hoàn thành khuôn phép tối sơ của tạng Luật, dù chỉ mới nói đến tám mươi lần tụng luật. Và đó cũng là tạng Luật căn bản, đời sau dựa vào đấy mà có sự phân chia giữa Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ. Thời Bộ phái Phật Giáo, đa số đều tuân theo Luật của Bộ phái mình. Hiện vẫn còn sáu bộ Luật tạng:

1. Tạng Luật Vinayapitaka, bằng văn tự Ba Lị của Thượng Tọa Bộ, thuộc Nam truyền.

2. Luật Ma Ha Tăng Kỳ, gồm bốn mươi quyển của Ðại Chúng Bộ, do ngài Phật Ðà Bạt Ðà La cùng dịch ra Hán văn với ngài Pháp Hiển, vào thời Ðông Tấn.

3. Luật Ngũ Phần, gồm ba mươi quyển, của Hóa Ðịa Bộ, do ngài Phật Ðà Thập và ngài Trí Thắng dịch ra Hán văn dưới thời Lưu Tống.

4. Luật Tứ Phần, gồm sáu mươi quyển của Pháp Tạng Bộ, do ngài Phật Ðà Da Xá và ngài Trúc Phật Niệm dịch ra Hán vào đời Diêu Tần.

5. Luật Thập Tụng, gồm sáu mươi quyển của Ma Thâu La Hữu Bộ, do ngài Cưu Ma La Thập dịch ra Hán văn vào đời Diêu Tần.

6. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da, gồm năm mươi quyển, của Hữu BộCa Thấp Di La, do ngài Nghĩa Tịnh dịch ra Hán văn vào đời nhà Ðường.

Ðúng ra luật của Thượng Tọa Bộ xuất hiện trước luật của Ðại Chúng Bộ, và luật của Thượng Tọa Bộ thuộc về Nam truyền. Trong Thượng Tọa Bộ có một chi phái, có tên là Phân Biệt Thuyết, chi này lại có khuynh hướng nghiêng về Ðại Chúng Bộ. Do đó, nên luật Ma Ha Tăng Kỳ mãi về sau mới xuất hiện. Bốn Bộ còn lại cũng thuộc Thượng Tọa Bộ, nhưng đó là do sự phân Bộ mà ra. Hiện nay không tìm thấy tạng luật căn bản của Thượng Tọa Bộ.

Bộ phận trọng yếu nữa của Thánh điển Phật Giáo, ấy là Kinh (pháp). Những nghiên cứu gần đây cho thấy lớp diễn đạt của Kinh (pháp) phải qua ba thời kỳ, sau đó mới đại định.

1. Một là, thu thập tất cả những “ngôn hành” của đức Phật làm thành chín bộ kinh (cửu phần giáo).

2. Hai là, diễn đạt cửu bộ kinh thành bốn bộ A Hàm kinh.

3. Ba là, căn cứ vào bốn bộ A Hàm để thành lập tam tạng. Do tam tạng mới có sự xuất hiện của tạng Ðại thừa, và tạng Cấm - Chú. Ðây là phạm vi của Ðại thừa.

- Chín Bộ KinhMười Hai Bộ Kinh.

Sau khi Phật nhập diệt, những đệ tử Phật thu thập tất cả mọi “ngôn hành” của Ngài, rồi tùy vào tính chất “ngôn hành” mà phân loại, và tập thành chín bộ kinh. Ðó là:

1. Tu Ða La (Sùtra), tức là thuyết pháp theo lối tản văn, thường được gọi là văn trường hàng.

2. Kỳ Dạ (Geya), là dùng văn vần để lập lại (trùng tuyên) nội dung đã được thuyết bằng tản văn qua hình thức kệ tụng. Thông thường được dịch thành tụng hoặc trùng tụng.

3. Già Ðà (Gatha), là khi thuyết pháp thì dùng vận văn để tuyên thuyết, nhưng lúc dịch thì dịch thành “cô khởi tụng” hoặc phúng tụng (cô tụng là những kệ tụng, nhưng không lập lại những gì đã được thuyết giảng trước đó, mà khởi lên ý mới, ý riêng).

4. Ni Ðà La (Nidàna), là ghi chép lại những sự tích, những duyên sự một cách có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Thường là nhân vào sự duyên để trợ duyên thuyết pháp. Do đó, nên dịch là Nhân duyên.

5. A Bát Ðà Da (Avadàna), là dùng thí dụ để thuyết pháp, hoặc phàm khi nhan việc gì đó mà ứng cảm thuyết pháp, thì đều gọi là Thí dụ.

6. Xà Ða Già (Jâtaka), là nhân duyên để đức Phật tự thuyết về đời quá khứ của các vị Phật, và những công hạnh của các vị Thánh đệ tử. Nên còn gọi là Bản sinh.

7. Y Ðế Mục Ða Ca (Itivittaka), là tự thuật về tích sự của chư vị cổ Phật, nên còn gọi là Bản sự.

8. A Phù Ðạt ma (Adbhacta Dharma), là nói rõ những thần tích kỳ lạ không thể nghĩ bàn của đức Phật và của chư Thánh đệ tử Phật. Do đó, còn có tên là Vị Tằng Hữu, tân dịchA Tỳ Ðạt Ma.

9. Ưu Ba Ðề Xá (Upadesa), tức là đối với những pháp nghĩa thậm thâmgiản yếu lại. Do đó, còn gọi là Luận ngữ, đời sau gọi là Luận tạng, thoát thai từ đây.

Trong chín bộ kinh trên đây, ba bộ trước thuộc loại tối cổ, hoặc gần nhất đối với hình thức Phật điển nguyên thỉ. Do đó, nó được coi là tương đương với kinh Tạp A Hàm, kinh Tạp A Hàm tuy bị nhiều diễn biến, nhưng vẫn có thể tìm thấy diện mạo cổ xưa của kinh. Vì đối với giáo nghĩa do Ðức Thích Tôn thuyết giảng, thì ba bộ là Tu Ða La, Kỳ Dạ và Già Ðà thuộc loại được tập thành sớm nhất; chữ “Tạp” của pháp tạng kinh Tạp A Hàm, và chữ “Tạp” trong Luật tạng Tạp Bạt Cừ, về ý nghĩa thì giống nhau, nhưng phải tùy sự tương ưng về nghĩa loại mà tập hợp lại biên tập; vì vậy, chữ “Tạp” có ý là tương ưng (thích hợp), và đó cũng là cựu chế của lần kết tập thứ nhất. Từ bộ thứ tư - Nhân duyên, đến bộ thứ tám. Vị Tằng Hữu, năm bộ này mang tính tập hợp những đức độ kỳ vĩ của Phật. Về tính chất, thì năm bộ này so với ba bộ trước là rất khác nhau. Kỳ thực thì sáu bộ trong số chín bộ kinh nêu trên, tất cả đều phân xuất từ ba bộ trên.

Có phải tên gọi chín bộ kinh đã có từ lần kết tập thứ nhất? Ðây là điều mà các học giả cận đại hãy còn nghi vấn.

Xin nói thêm về tên của mười hai bộ kinh. Theo luận Ðại Trí Ðộ quyển 33(22), thì ngoài chín bộ kinh vừa nêu, còn thêm bộ Ưu Ðà Na (Udàna) hay Ô Ðà Nam, kinh này thuộc về loại: “vô vấn tự thuyết”, gồm có bộ Tỳ Phật Lược (Vaipulya), tức Phương Quảng, và bộ Hòa Già La (Vyàkarana), tức Thọ Ký.

Có thể căn cứ vào những khảo sát kinh, luật Tiểu thừa, thì bộ Thọ Ký là do các đệ tử Phật nhân lúc nghe Tu Ða La mà chứng quả pháp, do đó mới biệt xuất bộ Thọ Ký. Bộ Phương Quảng so với bộ Phương Ðẳng của Ðại thừa thì bộ Phương Ðẳng là sự tổng hợp những pháp thậm thâm vi diệu đã thịnh hành rộng rãi. Còn bộ Ưu Ðà Na có nhiều tên gọi khác nhau, về nội dung thì bất nhất. Áng chừng do hậu nhân sưu tập được nhiều pháp giải tinh yếu có liên quan rồi tập thành Tạp Tạng, đại để là như thế. Nhưng nếu cho rằng Tạp Tạng mới xuất hiện về sau này thì trong đó chính xác cũng có những bộ phận tối cổ, chẳng hạn như: Pháp Cú, Nghĩa Phẩm và Ba La Diên. Ðó là những tiểu tập được đưa vào Ưu Ðà Na, và chúng đều thuộc về loại tối cổ. Nội dung Tạp Tạng hiện vẫn còn, nhưng không hẳn tất cả đều là tối cổ.

- Tứ A HàmNgũ A Hàm.

A Hàm được viết bằng Phạn Ngữ, tân dịch là A Cáp Ma (Agama), có nghĩa là Pháp qui, tức tất cả vạn pháp đều qui thú về đây mà không hề có chút sơ sót nào. Còn theo văn tự Ba Lị, thì gọi là Ni Ca Da (Nikàya). Nghĩa của Ni Ca Da là tập hoặc bộ. Nhân vì ngữ văn được Nam truyền sử dụng thuộc tạng văn Ba Lịlợi thế là tiếp cận được những tục ngữ được dùng vào thời Phật tại thế. Vì vậy, người ta lấy văn tự Ba Lị làm Ngũ Ni Ca Da của Nam ruyền. So với tứ “A Hàm kinh” của Bắc truyền được dịch ra từ Phạn văn ra Hán văn, thì sắc thái của Ngũ Ni Ca Da gần gũi với nguyên thỉ hơn. Do đó, các học giả cận đại khi khảo chứng tư liệu Phật giáo nguyên thỉ, đa số họ đều ưa thích sử dụng Thánh điển được viết bằng văn tự Ba Lị. Hơn nữa, năm Ni Ca Da của Nam truyền được xuất xứ từ một bộ. Trong khi Tứ A Hàm kinh thuộc Bắc truyền được dịch ra Hán văn, lại xuất phát từ nhiều bộ phái khác nhau.

Theo nghiên cứu thì Nhất Thiết Hữu BộTạp A Hàm, Trường A Hàm, Trung A Hàm, và Tăng Nhất A Hàm, gọi chung là Tứ A Hàm, nhưng hiện chỉ còn Tạp A HàmTrung A Hàm. Hóa Ðịa Bộ có thêm bộ Tạp Tạng mà thành Ngũ A Hàm kinh, tuy vậy, cả hai bộ hiện không còn; Pháp Tạng Bộ cũng có Ngũ “A Hàm kinh”, và hiện chỉ còn Trường A Hàm. Ðại Chúng Bộ cũng có ngũ “A Hàm kinh”, nay chỉ còn Tăng Nhất A Hàm. Trong khi đó Phật giáo Nam truyền vẫn còn đủ năm Ni Ca Da bằng ngữ văn Ba Lị.

Bốn kinh A Hàm của bản Hán dịch, theo Vũ Tỉnh Bá Thọ trong cuốn “Ấn Ðộ Triết Học Nghiên Cứu”, thuyết thứ hai, trang 150 đến trang 166 của ông, và cho rằng kinh Tạp A Hàm và kinh Trung A Hàm là của Hữu Bộ, đem cộng với kinh Trường A Hàm của Pháp Tạng Bộ, và kinh Tăng Nhất A Hàm của Ðại Chúng Bộ mà thành Tứ A Hàm. Bản Hán dịch có dịch riêng bộ kinh Tạp A Hàm của Ẩm Quang Bộ. Bốn bộ kinh A Hàm hiện còn, được dịch ra Hán văn một cách riêng lẻ thì rất nhiều, và cũng được dịch xuất từ nhiều Bộ phái. Bốn kinh A Hàm của bản Hán dịch nếu đem so với năm Ni Ca Da của Nam truyền, đại loại như sau:

1. Kinh Trường A Hàm của Bắc truyền gồm hai mươi quyển với ba mươi kinh; trong khi Trường Bộ (Dìghani Kàya) của Nam truyền thì chia thành ba phẩm với ba mươi bốn kinh.

2. Kinh Trung A Hàm của Bắc truyền gồm sáu mươi chín quyển với hai trăm hai mươi kinh, trong khi Trung Bộ (Majjhinani Kàya) của Nam truyền được chia thành mười lăm phẩm với một trăm năm mươi hai kinh; trong đó có đến chín mươi tám kinh hoàn toàn trùng khắp với Bắc truyền.

3. Kinh Tạp A Hàm của Bắc truyền có năm mươi quyển với một nghìn ba trăm sáu mươi hai kinh (1362), trong khi Tương Ưng Bộ (Saimyuttani Kàya) của Nam truyền chia thành năm phẩm với hai nghìn tám trăm tám mươi chín (2889) kinh.

4. Kinh Tăng Nhất A Hàm của Bắc truyền có năm mươi mốt quyển, với hơn một nghìn kinh. Trong khi Tăng Chi Bộ (Anguttarani Kàya) của Nam truyền phân làm một trăm bảy mươi hai (172) phẩm với hai trăm chín mươi mốt (291) kinh. Theo ngài Giác Âm, thì kinh này có đến 9557 kinh.

5. Tiểu Bộ (Khuddakani Kàya) của Nam truyền gồm cả Ðại - Tiểu với mười lăm kinh; trong đó có sáu loại chủ yếu:

a) Pháp Cú - Dhammapada, tương đương với kinh Pháp Cú của bản Hán dịch, và “Pháp Cú Thí Dụ Kinh” cũng của Hán dịch.

b) Tự Thuyết Kinh - Udàna, kinh này Ưu Ðà Na, nhưng trong bản Hán dịch không có.

c) Bổn Sự - Intivutta Ka. Tương đương kinh Bổn Sự của bản Hán dịch.

d) Kinh Tập - Suttanipata, tương đương với kinh Nghĩa Túc của bản Hán văn, cổ bản Hán dịch có tên là Nghĩa Phẩm, là Ba La Diên v.v...

e) Trưởng Lão, Trưởng Lão Ni Kệ - Thera Their Gatha, trong Hán dịch không có.

f) Bản Sinh - Jàtaka, tương đương với “Sinh kinh” của bản Hán dịch.

Từ các so sánh, đối chiếu trên, cho thấy Bắc truyền tuy có bốn kinh A Hàm, nhưng trong đó đại bộ phận của đệ ngũ “Ni Ca Da”, và Tiểu Bộ của Nam truyền bản Hán cũng đã có, duy có điều là về nội dung có ít nhiều “xuất nhập” (giống và không giống nhau).

- Tứ “A Hàm” và Tạp Tạng.

Tên gọi của bốn kinh A Hàm:

1. Kinh Tạp A Hàm ấy là tùy vào sự tương ứng với sự việc và lý nghĩa, như Tu Ða La, Kỳ Dạ, Già Ðà v.v... loại biệt theo thứ lớp mà biên tập.

Chẳng hạn “xứ” và “xứ tương ứng” với nhau thì xếp cùng một loại (xứ là nơi sinh ra tác dụng của tâm, và tâm sở, của căn và cảnh, cho nên gọi là xứ)(23); “giới” và “giới tương ưng” cũng liệt vào cùng loại (giới - tức mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức).

Do đó, Nam truyền gọi là “Tương Ưng Bộ” nghĩa của chữ “tương ưng” là khế hợp, nhưng văn thì “tạp toái” (vụn nát), cho nên con có tên là: Tạp A Hàm kinh. Chữ “Tạp” ở đây không đồng nghĩa như chữ “Tạp” trong “Văn Nguyên Thích Giáo Lục”, là “Tạp hữu bất khả chỉnh lý” (hỗn tạp không thể chỉnh sửa).

2. Kinh Trung A Hàm

3. Kinh Trường A Hàm gọi là Trung, là Trường ấy là tùy vào sự ngắn dài của kinh mà đặt tên. Kinh văn không quá dài, không quá ngắn nên gọi là Trung A Hàm, còn kinh văn rất dài thì gọi là Trường A Hàm.

4. Kinh Tăng Nhất A Hàm, là số chữ lần lượt tăng dần cứ như thế mà biên tập kinh, như một rồi hai, hai rồi ba, mỗi một, mỗi một gia tăng cho đến nhiều pháp, do đó, gọi là Tăng Nhất.

Tính chất của Tập Tạng, hoặc là chưa đưa vào tứ “A Hàm kinh”, hoặc là được lưu xuất từ tứ “A Hàm kinh”. Nhưng đa số của Tạp Tạng là các tiểu tập của Ưu Ðà Na, hoặc là truyền thuyết được trích từ những kinh như kinh Bản Sinh. Nguyên ủy của Tạp Tạng là do đức Phật giảng thuyết nhưng chưa được kết tập vào kinh A Hàm. Do đó, nên có biệt danh là Tạp Tạng.

Tạp Tạng có thể quan hệ rất lớn đối với Phật giáo dưới thời vua A Dục. Thời ấy Thượng Tọa Bộ rất tôn quí kinh Tạp A Hàm, hệ phía tây còn có riêng một Trung Hệ (hệ Phân Biệt Thuyết), hệ Phân Biệt Thuyết rất tôn quí kinh Trường A Hàm; Ðại Chúng Bộ, tức hệ phía đông thì tôn quí kinh Tăng Nhất A Hàm. Ba hệ trên, mỗi hệ đều giữ ý kiến khác nhau của hệ mình. Riêng Trung hệ của ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu vẫn giữ thái độ ôn hòa, và dường như Trung hệ được Ðông hệ hợp tác. Do đó, khi chủ trì lần kết tập thứ ba, hệ Phân Biệt khéo “lấy” khéo “bỏ” những ưu khuyết của các hệ Ðông, Tây. Còn đối với tiểu tập Ưu Ðà na, và các thuyết về bản Sinh v.v... thì Trung hệ tuy có tiểu dị nhưng đại đồng. Ðiều này coi như được lưu tồn, do đó mà biên tập thành Tạp Tạng thứ năm, và về sau được phụ vào bốn kinh A Hàm (Tứ A Hàm kinh). Tạp Tạng cũng được Nam truyền cho vào “Tiểu tập” cuối của ngũ “Ni Ca Da”.

Tuy không rõ thời gian phân loại và biên tập thánh điển tứ “A Hàm Kinh”, nhưng các Bộ phái đều đồng ý tứ “A Hàm Kinh” là hình thái của Thánh điển nguyên thỉ. Việc biên tập thành bốn kinh A Hàm trước cả lần Thất Bách Kết Tập, nhưng không hẳn bốn kinh A Hàm được xuất hiện ở lần kết tập thứ nhất. Cứ theo nội dung của bốn kinh A Hàm mà suy định, thì kinh Tạp A Hàm xuất hiện sớm nhất, thứ đến là Trung A Hàm, tiếp đó mới là Trường A Hàm, và Tăng Nhất A Hàm. Phàm lúc nhân một việc gì đó mà đọc Tạp A Hàm trong bốn A Hàm kinh, thì sự tự thuật của Tạp A Hàm là rất trong sáng, giản gọi và dung dị. Trung A Hàm thì gần cận với Tạp A Hàm, nhưng đến Trường A Hàm, và Tăng Nhất A Hàm, thì lại biến sự trong sáng, giản gọn thành dài dòng và ly kỳ. Kinh Tạp A Hàm lấy những pháp nghĩa khi Phật còn tại thế và chuyển cái “phồn” thành cái “giản”, trích yếu những đề cương chủ yếu nhất. Ðời sau lại đem những cương lĩnh chủ yếu này mà chuyển “giản” thành “phồn”. Phu diễn có tính tổ chức và luận biện. Tựa hồ như đây là công tác khôi phục lại diện mạo cổ xưa. Việc làm này về mặt hoằng hóa, và mang tính đối ngoại mà nói, thì tất yếu phải có.


(1) Thái Hư đại sư Toàn tập, trang 455

(2) Thái Hư đại sư Toàn tập, trang 514-517

(3) Kinh Tăng Nhất A Hàm - quyển 23, Phẩm Tăng Thượng thứ 7. Ðại Chánh tạng- 2, giữa trang 670. Thảo khảo Tăng Nhất A Hàm quyển 24. Phẩm Thiện Tụ, thứ 4 - Ðại Chánh tạng-2, giữa trang 676.

(4) Ðại Chánh tạng-1, đầu trang 804 đến cuối trang 805.

(5) Ðại Chánh tạng-1, giữa trang 114 đến cuối trang 149. Kinh còn có bản dịch khác với Thi: khởi Thế Nhân Bản Kinh, Ðại Lâu Thán kinh.

(6) Cái, có nghĩa là che.

(7) Ðại Chánh tạng-1, giữa trang 25.

(8) Chu Trước “Triết Học Sử Ấn Ðộ” quyển 2, Chương III.

(9) Ðiều này được chép một cách nhất trí trong kinh, luật của Thanh Văn.

(10) Ðại Chánh tạng-48, trang 871.

(11) Ðại Chánh tạng-23, đầu trang 892.

(12) Hải Triều Âm-trang 4, kỳ bốn, quyển 46.

(13) Ðại Chánh tạng-51, đầu trang 923.

(14) Ngoài Thập Tụng Luật, tất cả đều theo thuyết này.

(15) Nam Truyền Ðại Tạng Kinh-quyển 4, trang 433.

(16) Ðại Chánh tạng-22, trang 191.

(17) Thực phẩm dành cho Tỳ kheo, để qua đêm gọi là nội túc thực là một trong các đồ ăn bất tịnh, Tỳ kheo không được ăn.

(18) Hải Triều Âm - quyển 46, Kỳ 4, trang 8.

(19) Tỳ Ni Mẫu Kinh - quyển 3, Ðại Chánh tạng - 24, trang 818.

(20) Ngũ Phần Luật - quyển 30, Ðại Chánh tạng-22, giữa trang 192.

(21) Phật Giáo Ấn Ðộ - của Pháp sư Ấn Thuận. Chương 4, tiết 3, trang 63.

(22) Ðại Chánh tạng-25, cuối trang 306 đến trang 308.

(23) Tự Ðiển Phật Học Hán Việt- Chú của người dịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14851)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17777)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18207)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13171)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21132)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32552)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15295)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12340)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27475)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12129)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34913)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17728)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11803)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12638)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14563)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32450)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19452)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14081)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15310)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14134)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11951)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53142)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11651)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13916)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13809)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20680)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14308)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13606)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34144)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16207)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14069)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14196)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13549)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15892)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13500)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22947)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27723)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13891)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24931)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13942)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31310)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13858)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15556)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14956)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant