Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Chuyển pháp luân

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9557)
Tiết 3: Chuyển pháp luân

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC THÍCH CA THẾ TÔN

TIẾT III: CHUYỂN PHÁP LUÂN

- Đức Phật đi đến Vườn Nai.

Sau khi đức Thích Tôn tự thọ dụng pháp duyệt mà Ngài vừa chứng ngộ dưới cội Bồ Đề. Ngài quyết ý giáo hóa chúng sinh, trước tiên Ngài đến Vườn Nai.

- Lộc Dã Uyển (Mrgadàva) tên Vườn Nai hiện nay là Tát Nhĩ Nại Đức (Sarnath) ở ngoài thành Ba La Nại (Vàràmasì): do vì Ngài nhớ năm người bạn trước kia cùng tu hầu hạ Ngài, sau họ bỏ Ngài mà đi. Nay Ngài đến là để báo đáp công đức của họ trước kia. Đây cũng là năm vị Thị giả đầu tiên có danh xưng là Tỳ kheo. Năm người họ là: A Nhã Kiều Trần Như (Àjnàta - Kundinya), Bạt Đề (Bahadrika), Bà Ba (Vàspa) Ma Ha Nam (Mahanàna), A Thuyết Thị (Asvajit). Năm vị Tỳ kheo này cũng là thính chúng đầu tiên đức Phật nhắm đến để thuyết giảng diệu pháp mà Ngài đã thân chứng. Đời sau gọi đây là sơ chuyển pháp luân. Nghe xong thời thuyết pháp tất cả năm vị đều chứng thánh quả A la hán (quả giải thoát của Tiểu thừa).

Pháp luân - Dharma - Sakra: có thể dịch là chuyển vận chánh pháp (theo cách dịch của Hán văn). Tức là lấy Phật pháp sánh với Luân Bảo của vị Chuyển Luân Thánh Vương. Lúc vị Luân Vương xuất thế thì Luân Bảo cũng tự ứng hiện. Luân Bao dẫn đạo Luân Vương chuyển hướng tứ thiên hạ, khiến các tiểu quốc vương không ai là không thành kính cảm phục Chuyển Luân Thánh Vương, Luân Vương không dụng đến đao binh mà thiên hạ thống nhất, bởi Luân Vương thực hành nền chính trị nhân trị, khiến mọi người trong thiên hạ đều an hưởng thái bình. Đấy là truyền thuyết mà cũng là ước mơ của người dân Ấn Độ về sự trị vì của bậc Luân Vương đem thái bình an lạc đến cho mọi người. Đầu tiên, Luân là một thứ binh khí lấy việc phá địch làm chính, để ẩn dụ việc đức Phật dùng chánh pháp mà Ngài chứng được làm “Luân”. Ngài công bố chánh pháp khắp thiên hạ nhằm mang lại lợi lạc cho quần sinh, và phá đổ các tà thuyết, dị luận. Lấy đó dụ cho chánh pháp nên gọi là Pháp Luân.

- Nội dung Pháp Luân.

Nội dung Pháp luânthành quả do đức Thích Tôn chứng đắc khi Ngài thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Và rộng truyền chánh pháp do Ngài thân chứng, gọi đấy là chuyển Pháp Luân.

Thế nào là chánh pháp (Saddharma)? Căn cứ theo Thánh điển Nguyên thỉ - kinh A Hàm mà nói, thì lần đầu tiên đức Phật thuyết pháp, đó là thuyết về Tứ Thánh đếBát Chánh Đạo. Về sau nội dung kinh, luật, luận của Đại, Tiểu thừa đều do từ Tứ Thánh ĐếBát Chánh Đạo mà khai triển.

Để giới thiệu nội dung Chánh Pháp, trước tiên cần nêu rõ mục đích thuyết Pháp của đức Phật. Mục đích giáo hóa của đức Thích Tôn là nhằm tạo thuận duyên giúp tất cả mọi người để ai cũng có thể đạt đến giải thoát như Ngài. Sự giáo hóa của đức Phật không nhằm làm gia tăng lý luận đối với thế giới, nhân sinh, cũng chẳng phải để giúp giới khoa học và triết học có thêm hứng thú. Điều này xin đọc thêm ở kinh Tiễn Dụ, trong kinh Trường A Hàm. Như vậy, đức Phật không yêu cầu chúng ta nhắm mắt sùng bái Ngài, coi Ngài như một thứ ma túy tín ngưỡng để ủy thác đức tin. Đức Phậtnhà tôn giáo thực tế, là nhà tư tưởng giàu tinh thần phê phán. Ngài tôn trọng luận lý một cách thực tế, và phản đối những “không đàm huyền lý”. Phàm cái gì không hữu ích cho việc tu chứng giải thoát, thì Ngài không chú tâm. Đối tượng được đức Phật khảo sát không là sửa đổi lại vũ trụ, mà bằng nỗ lực lớn nhất, đức Phật thuyết minh những hoạt độngcon người nên tạo thành. Theo đức Phật, nếu khảo sát thế giới mà bỏ qua sự sống cơ bản của con người thì đó không phải là bản hoài của Phật. Xin đọc “Nguyên Thỉ Phật Giáo Tư Tưởng Luận” của Mộc Thôn Thái Hiền, ở thiên thứ I chương 3.

Như vậy, tôn chỉđức Phật giáo hóa thế gian là nguyện vọng muốn cho hữu tình chúng sinh đạt thành giải thoát. Nói cách khác, Phật pháp lấy hữu tình chúng sinh, chủ yếu là lấy con người làm trung tâm. Nếu khảo sát Phật pháptrước mắt không nhìn thấy hữu tình chúng sinh, thì đó quả là sự sai lầm. Tứ Thánh ĐếBát Chánh Đạođức Phật chứng ngộthuyết giảng, đó là con đường giúp con người đạt đến giải thoát.

I. TỨ THÁNH ĐẾ

Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật được gọi là “Tam Chuyển Tứ Đế Pháp Luân”. Nay xin phân thuật như sau:

1. Khổ đế: nhân sinh như khổ hải! Nội dung của khổ, đại loại có ba, đó là khổ khổ, hoại khổhành khổ. Trong khổ khổ có tám thứ khổ đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bắt đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.

2. Tập đế: nguyên nhân của Khổ là Tập. Do phiền não mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà chiêu cảm quả báo khổ.

3. Diệt đế: diệt là khả năng giải thoát khổ quả, là thấu triệt “lý” của Tập đế, là đoạn trừ nghiệp phiền não, tức là khả thể giải thoát mọi chúng khổ.

4. Đạo đế: đạo là phương pháp diệt khổ. Tu trì Bát Chánh Đạo có khả năng diệt trừ tất cả các khổ, chứng đắc quả Niết bàn giải thoát.

II. CHUYỂN TỨ ĐẾ.

1. Thị chuyển: thuyết minh tường tận đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo.

2. Cần chuyển: thuyết minh khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu.

3. Chứng chuyển: thuyết minh khổ ta đã biết, tập ta đã đoạn, diệt ta đã chứng, và đạo ta đã tu.

Trên đây là cương yếu về lần đầu tiên Phật chuyển pháp luân. Giải thíchKhổ đếTập đế đó là do duyên sinh pháp, từ đó giải rõ pháp Thập nhị nhân duyên.

- Thập Nhị Nhân Duyên.

Thập nhị nhân duyên đích thực là một “sáng tạo luận” được lưu lộ một cách đặc biệt độc đáo từ đại bi trí hải của Đấng giác ngộ. Các tín ngưỡng Thần quyền; không một tôn giáo Thần quyền nào mà không cho rằng vũ trụ này là do Thượng đế sáng tạo. Đức Phật dùng mười hai nhân duyên để thuyết minh về căn nguyên của vũ trụ.

Nay xin giới thiệugiải thích mười hai nhân duyên:

1. Vô minh: tức không có trí tuệ, do vì các phiền não như tham dục, sân hận, ngu si v.v… che lấp, lại cũng do tâm lý xuẩn độngnguyên do làm cho bị mê hoặc.

2. Hành: tức các nghiệp thiện, ác được gây tạo nên từ kiếp trước - gồm cả hành vi của thân và tâm.

3. Thức: tức do nghiệp lực ở đời quá khứcảm thọ quả báo, nên lại khởi vọng nghiệp ngay từ lúc ban sơ khi vừa nhập thai mẹ, và thành thần thức ở đời hiện tại.

4. Danh sắc: tức thân tâm của thai nhi sau khi đã nhập thai.

5. Lục nhập: tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Sáu cơ quan này được trưởng thành trong thai mẹ - còn gọi là lục căn.

6. Xúc: tức sau khi ra khỏi thai mẹ. Khi ấy sáu căn tiếp xúc tương đối với sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

7. Thọ: tức do tiếp xúc ngoại cảnh mà có được tri cảm khổ, vui nơi thân, tâm.

8. Ái: tức hoạt động tâm lý, trong đó có nhàm chán sự khổ, ưa thích sướng vui như tài, sắc, danh, thực, thùy - Ngũ dục lạc.

9. Thủ: tức nhân vào ái dục thịnh vượng nên đối với cảnh có sự tham nhiễm, và khởi niệm lưu giữ.

10. Hữu: tức do đời hiện tại tạo tác nhân hữu lậu dẫn đến cảm thọ quả sinh tử đời sau.

11. Sinh: tức nhân vào các nghiệp chủng được tạo tác ở đời hiện tại dẫn đến cảm thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của thân ngũ uẩn đời sau.

12. Lão tử: khi đã có thân ngũ uẩn giả hợp, được sinh ra, tất nhiên thân ấy sẽ suy yếu, già nuacuối cùng là chết.

Mười hai nhân duyên là chuỗi mắc xích được dùng để thuyết minh sinh mệnh con người mà vốn từ nghìn đời nay luôn lưu chuyển từ tiền sinh đến kim sinh và rồi hậu sinh, tạo thành mối quan hệ giữa nhân và quả. Mối quan hệ này được gọi là “tam thế lưỡng trùng nhân quả”. Nhưng về phương diện hồi hoàn, thì mười hai nhân duyên có thể dùng vòng xoay hoặc - nghiệp - khổ để thuyết minh.

- Hoặc - Nghiệp - Khổ.

Từ vô thỉ đến nay do sự xuẩn động của “vô minh hoặc” mà tạo tác các nghiệp thiện ác ở đời quá khứ, nhân đấy dẫn đến việc cảm thọ quả khổ ở đời hiện tại, và cũng ở đời hiện tại, lại tiếp tục chạy theo cái nhân mê mờ (Hoặc) tạo ra các ác nghiệp, các ác nghiệp này đưa đẩy đến quả khổ sinh tửkiếp sau. Đấy chính là phương cách xoay vòng của mười hai nhân duyên.

1. Hoặc: là Vô minh ở đời quá khứ dẫn đến Ái, và Thủ ở đời hiện tại.

2. Nghiệp: ấy là Hành ở đời quá khứ đưa đến Hữu của đời hiện tại.

3. Khổ: ấy là Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ ở đời hiện tại dẫn đến sinh và lão tử ở đời vị lai.

Thuyết minh mười hai Nhân duyên, mục đích là giúp con người hiểu rõ nội dung của Khổ và Tập trong Tứ Thánh Đế. Nhân sinh là bể khổ! Vậy, khổ này là do đâu? Do nhân quả trong ba đời. Khởi đi từ vô minh mà mức đến là quả khổ sinh tử.

Để tiện ghi nhớ, xin lập biểu về mối quan hệ giữa mười hai nhân duyên.

 blank

 

Khi đã biết nguyên nhân của khổ là do tập. Để đoạn tuyệt tận gốc căn nguyên của khổ, là tu theo phương pháp Bát chánh đạo.

- Bát Chánh Đạo.

Bát Chánh ĐạoĐạo đế trong Tứ thánh đế. Nội dung Bát Chánh Đạo như sau:

1. Chánh kiến: ấy là sự hiểu biết, sự kiến giải chính xác. Thế nào là Chính kiến? Hãy dùng Tam pháp ấn để giám định. Tam pháp ấn là gì, sẽ giới thiệu ở phần sau.

2. Chánh tư duy: ấy là dùng Chánh kiến làm cơ sở, để tư tưởng chín chắn về nội dung của Chánh kiến này.

Đây là công phu thực tiễn của ý nghiệp.

3. Chánh ngữ: đặt nền móng trên ý niệm chánh xác, để biểu đạt công phu thực tiễn của nghiệp “khẩu”. Đối với người không nói đảo, nói dối, không dùng ỷ ngữ, đâm thọc, không dùng ác khẩu mạ lỵ làm nhục người khác, nên dùng thiện ngôn để khuyến khích người, dùng ái ngữ để an úy.

4. Chánh nghiệp: là thân nghiệp chánh đáng. Muốn vậy, thân không phạm ác nghiệp sát sinh, trộm cướp, dâm loạn, và không dùng các chất tạo say mê, ngây ngật. Cần phối hợp với ý và ngữ nghiệp, sao cho ba nghiệp: thân, ngữ, ý trở nên thanh tịnh.

5. Chánh mệnh: tức phương pháp mưu sinh phải chân chính. Loại bỏ các nghiệp ác, nên theo những chức nghiệp chánh đáng để hành xử trong các nhu cầu của đời sống. Không dùng sự tài khéo về thuật số giang hồ để thâu tóm tài vật bất nghĩa.

6. Chánh tinh tấn: ấy là đối với đạo nghiệp, tự mình nỗ lực gắng sức, điều ác chưa đoạn, lập tức đoạn ngay, điều thiện chưa tu, thì hãy gắng tu. Điều ác chưa khởi, thì ngăn không cho khởi, điều thiện chưa lớn mạnh hãy cố làm cho tăng trưởng.

7. Chánh niệm: khi tự tâm đã gắng gỏi tinh tấn, thì nên dùng phương pháp bất tịnh quán để nhiếp tâm, chế tâm, khiến tâm trụ “nhất cảnh”, và không khởi tư niệm vật ngã.

8. Chánh định: tu trì theo bảy giai đoạn vừa nêu, ắt sẽ đi vào tứ thiền, bát định. Sau rốt dùng “không huệ lực” để nhập vào định Diệt thọ tưởng. Đấy chính là cảnh giới giải thoát Niết bàn.

Nhân vào Bát chánh đạokhai diễn ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lại qui nạp và diễn hóa thành sáu Ba La Mật Đa (lục độ), tất cả đều thuộc phạm vi tam vô lậu học Giới - Định - Tuệ.

- Giới Định Tuệ.

Chúng ta căn cứ kinh Tạp A Hàm để hiểu về Bát Chánh đạo, dựa vào kinh Trường A Hàm để hiểu rõ ba mươi bảy phẩm trợ đạo, và nhờ kinh Tăng Nhất A Hàm để biết được Lục độ. Đấy là lịch trình được phát triển theo thứ lớp. Hiện nay tại Trung Quốc bộ kinh Tăng Nhất A Hàm bản Hán văn được dịch từ Đại Chúng Bộ; Đại Chúng Bộ lại truyền xuất thành tư tưởng Đại thừa. Vì thế, nội dung tu đạo giải thoát phải tùy vào thời đạilần lượt khai triển. Tuy nhiên, nguyên tắc cơ bản trong tu trì không thể tách rời yêu cầu thiết yếu là Giới Định Huệ.

Xin nêu hai biểu đồ làm tư liệu thuyết minh.

 

blank

 

Nhờ biểu đồ trên cho thấy Bát chánh đạo bao hàm ba mươi bảy đạo phẩm. Chia ba mươi bảy đạo phẩm ra 7 thành bảy loại để giải thích. Có thể tra cứu Phật Học Đại Từ Điển

 blank

 Vòng tròn Hoặc - Nghiệp - Khổ là định luật của sinh tử môn. Giới - Định - Tuệ thuộc tam vô lậu họcđịnh luật của giải thoát môn. Sự quan hệ hỗ tương giữa giới định huệ cũng là một vòng quay tròn, hoặc còn gọi là “Loa toàn hình” (hình tròn trôn ốc). Việc tu giới có thanh tịnh, thì tu thiền mới có khả năng chánh định. Nhờ định lực chánh định mới phát sinh huệ lực vô lậu; lại do huệ lực chỉ đạo trì giới. Duy chỉ có Không huệ, hoặc Chánh kiến của vô lậu huệ chỉ đạo, thì việc trì giới mới phù hợptu thiền mới không bị lạc vào ma cảnh.

Trước nhất cần xác lập Chánh kiến, để làm điều đó, phải dựa vào Tam pháp ấn do đức Phật chỉ dạy.

- Tam Pháp Ấn

Tam pháp ấn là dùng “tam cú thoại” làm tiêu chuẩn để ấn chứng các pháp, pháp nào phù hợp với Tam pháp ấn, pháp đó hợp với Chánh kiến của Phật Đà. Pháp nào không phù hợp với Tam pháp ấn, đó là tà kiến của ngoại ma và nghiêng ngả. Kinh Tạp A Hàm(14) ghi lại cuộc đối thoại giữa đức Phật với các đệ tử Tỳ kheo: “Đức Phật hỏi các Tỳ kheo: Ngũ uẩn v.v… là vô thường chăng?

Các Tỳ kheo đáp: bạch Thế Tôn, vô thường.

Đức Phật: vô thường là khổ, phải không?

Chư Tỳ kheo: bạch Thế Tôn là khổ.

Đức Phật: nếu vô thường, khổ, và pháp dễ biến đổi. Vậy, pháp ấy là ngã hay ngã sở?

Chư Tỳ kheo: bạch Thế Tôn, không phải là ngã, cũng không phải là ngã sở?

Đức Phật tùy căn cơ (trình độ) của đệ tử mà khai thị. Cứ theo cuộc đối thoại trên mà quán sát năm uẩn (hữu lậu pháp), sẽ thấy các pháp là vô thường, vô ngã, sau đó mới là giải thoát (Niết bàn). Dùng tam cú thoại làm chuẩn, nhờ đó mà sáng rõ, ấy là:

1. Chư hành vô thường; 2. Chư pháp vô ngã; 3. Niết bàn tịch tịnh.

Thế nào là ngũ uẩn? Thế nào là các pháp?

Muốn làm rõ hai vấn nạn vừa nêu, phải dùng Tam pháp ấn để giải thích. Hữu lậu pháp thuộc sinh tử môn, để dễ phân biệt nên dùng danh từ ngũ ẩn để thuyết minh.

- Ngũ uẩn.

Phàm là người, ai cũng nghĩ rằng thế gianthường trụ vĩnh hằng. Thân tâm này là ta và của ta (ngã, ngã sở), do vậy nên cần bảo vệ. Đã chấp thế gian là thường, chấp thân tâm (ngũ uẩn) là Ta, thì đương nhiên Ta cần truy tầm khoái lạc và danh lợi để làm thỏa mãn cái “Ta”. Đồng thời chạy trốn sự hao tổn hủy hoại của tự nhiên. Trên thực tế, trong từng sát na, mọi vật trên đời này không vật nào là không bị biến dị (đổi khác). Vì tất cả đều là vô thường.

Dù là đại hoan lạc, và danh lợi cực lớn đi nữa, thì thế gian này vẫn không có cái trường cửu và không tan rã. Bởi chẳng có đóa hoa nào mà không có lúc tàn! Không có con người nào mà lại không chết! Vì thế, dù có vui chơi hoan lạc cho thỏa thích, thì kết cục vẫn là rã rời, là khổ. Đã là vô thường, là khổ thì tìm đâu ra cái “Ngã” chân thực, cái ngã vĩnh hằng, để mà sở hữu cả về tinh thần lẫn vật chất? Phật Giáo tạm dùng thuật ngữ ngũ uẩn để phân tích tinh thầnvật chất. Ngũ uẩn gồm:

1. Sắc Uẩn:

Bao gồm sinh lý con ngườivật lý ngoại tại: Ấy là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân của con người, và đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Sắc uẩn hàm nhiếp tất cả vật chất như, hình sắc, thái sắc, cực vi, (điện tử và nguyên tử), và hồi - viễn sắc (như tinh cầu ở rất xa).

2. Thọ Uẩn:

Lấy sự lãnh nạp làm công dụng, gần với trạng thái cảm giác.

3. Tưởng Uẩn:

Lấy việc lưu giữ hình tướng làm công dụng, gần với tác dụng của tri giác và tưởng tượng.

4. Hành uẩn:

công dụng thiên lưu (dời đổi), và tạo tác. Gồm cả thời gian, không gian, tư tưởng. Trạng thái của Hành là đối với ngoại cảnh sinh khởi tham sân, thiện ác v.v... là công năng của hoạt động tâm lý.

5. Thức Uẩn:

Lấy phân biệt làm công dụng, gần với nghĩa của tri thức; Thức uẩn lấy nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm sở y nên gọi là lục thức thân. Đối với vật, cảnh nó phụ trách việc hiểu rõ, phân biệt và ghi nhớ v.v… lấy đó làm tác dụng. Thức uẩn cũng là tên gọi khác về bản thể của tâm.

Ngũ uẩn là sự phối hợp giữa tâm và vật, cảnh. Sắc uẩn thứ nhất phân tích về vật lýsinh lý, bốn uẩn còn lại phân tích về tâm lý. Phân tích vật lý, sinh lýtâm lý, nhằm thuyết minh tường tận tất cả mọi hiện tượng thuộc nhân sinh giới và vũ trụ giới, rằng tất cả chúng không có thứ gì là không vô thường tất cả là vô ngã, là khổ. Nếu năng chứng được đạo lý này, thì ngay lúc quan sát chính xác như vậy thì đó là cảnh giới Niết bàn.

Chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử là do nhân duyên của mười hai nhân duyên tạo thành. Thế giới thân tâm của chúng sinh là do sự giả hợp giữa ngũ uẩnnhân duyên. Lìa khỏi mười hai nhân duyên sẽ không có sự lưu chuyển sinh tử, ly khai sự giả hợp do ngũ uẩn, sẽ không có thân tâmthế giới. Sinh tử là vậy, thân tâm là vậy. Không cái nào là không phát sinh từ nhân và duyên. Các pháp hư vọng tạm thời có nhưng chỉ là sự huyễn hiện. Vậy, khám phá thế giới thân tâm bằng cách nào? Ấy là dùng tam Pháp ấn. Muốn đoạn tuyệt thân ngũ uẩn khổ thì làm sao? Hãy tu Bát chánh đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14876)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17812)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18222)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15003)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13201)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21178)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32597)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15325)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12354)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12838)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27547)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12147)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34977)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17755)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11832)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12652)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32477)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19464)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14088)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14147)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53189)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11676)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13928)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20704)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14314)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13436)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13628)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34188)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16222)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14204)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13571)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15931)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13520)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22994)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27749)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13910)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24998)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13958)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31338)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15567)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant