Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 4: Sự hành hóa của đức Thích Tôn và giáo đoàn La hán đệ tử

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9534)
Tiết 4: Sự hành hóa của đức Thích Tôn và giáo đoàn La hán đệ tử

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC THÍCH CA THẾ TÔN

TIẾT IV. SỰ HÀNH HÓA CỦA ĐỨC THÍCH TÔN VÀ GIÁO ĐOÀN LA HÁN ĐỆ TỬ

Tại Lộc Dã Uyển Đức Thích Tôn độ năm vị Tỳ kheo - năm anh em Kiều Trần Như. Nhân đấy mới có giáo chủ, giáo phápgiáo đoàn (Phật - Pháp - Tăng). Tiếp đó đức Phật độ ngài Da Xá (Yasá) và thân hữu của ông cả thảy mười người. Sau đó Phật độ ngài Mãn Từ Tử, Đại Ca Chiên Diên, Bà Tỳ Da v.v… các vị này từ bỏ ngoại đạo, qui y Phật pháp, và đều chứng quả A la hán ly dục.

Đức Thích Tôn trải qua mùa mưa tại Vườn Nai bằng sinh hoạt an cứ đầu tiên. Sau mùa An cư, Ngài khuyến khích các La hán đệ tử mỗi người nên đi du hóa mỗi phương để rộng truyền giáo nghĩa Phật pháp. Ngài yêu cầu các La hán đệ tử không nên du hóa hai người trên cùng một địa xứ. Riêng đức Phật, Ngài đơn độc đi đến làng Ưu Lâu Tần Loa, tại đây Ngài hóa độ ngoại đạo thờ lửa là Ưu Lâu Tần La Ca Diếp (Urivilvà - Kàsyapa) và hai người em của ông này là Na Đề Ca Diếp (Nadì Kàsyapa) và Già Da Ca Diếp (Giayà - Kàspa), cùng chúng đệ tử của ba vị nầy cả thảy một nghìn người.

Đức Thích Tôn nhớ lời hẹn trước đây với vua Tần Bà Sa La nên Ngài cùng ba anh em nhà Ca Diếp và chúng đệ tử đi đến thành Vương Xá. Tại đây, đức Phật được quốc vương đích thân thống lãnh thần dân ra tận ngoại thành nghênh đón. Bấy lâu vua Tần Bà Sa La đã từng nghe danh của ba anh em nhà Ca Diếp, nay mới được hội kiến, nhưng lúc này cả ba đã trở thành đệ tử Phật, điều đó khiến cho tín tâm của vua và thần dân thêm phần khẩn thiết. Do đó, sau thời thuyết pháp do đức Phật thuyết giảng, nhà vua liền đắc pháp nhãn tịnh (Kiến Địa vị). Còn có trưởng giả Ca Lan Đà (Kalanda) đem vườn Trúc của ông ở ngoại thành Vương Xá cúng dường đức Phật, trong khi đó vua Tần Bà Sa La kiến tạo tịnh xá tại vườn Trúc để cúng Phậtchúng thánh đệ tử; và từ đó vườn Trúc trở thành đạo tràng qui mô to lớn của Phật giáo. Bốn năm sau Phật thành đạo, một trong sáu lục sư ngoại đạo thuộc phái Ngụy Biện là Tượng Xá Lợi Phất, khi ông đang trên đường đi, bỗng nhiên có tiếng nói lớn hướng về ông mà nói: “Các pháp do nhân duyên sinh, các pháp cũng do nhân duyên diệt. Chư hành vô thường, vì là pháp sinh diệt, diệt hết sinh diệt, tịch diệt là vui”. Khi lời vừa dứt ông liền đắc pháp Nhãn tịnh; vì đó là giáo nghĩa căn bản của Phật pháp nên không có gì lạ. Xá Lợi Phất lòng cảm thấy bồn chồn vì chưa từng được nghe diệu pháp này. Ông đem diệu pháp vừa nghe thuật lại với người bạn đồng mônĐại Mục Kiền Liên, và rồi cả hai cùng đưa hai trăm năm mươi đệ tử của mình đi đến bái kiến đức Phật, và cùng xin xuất gia theo Phật. Sau khi xuất gia, tất cả đều chứng đắc A la hán quả.

Lại nữa, có ngài Ma Ha Ca Diếp (Maha Kàsyapa), ông là người sớm xuất gia tu hạnh yểm ly, và được quốc dân Ma Kiệt Đà kính ngưỡng. Có lần Ngài tự nói: “Nếu không gặp Phật ra đời, thì ta là vị Độc Giác”. Nhân khi ông đang ở tại thành Vương Xá, và nghe nhiều người nói là đã gặp đức Phật trước thành, lúc ông nhìn thấy hình tướng đức Phật, ông tự giác ngộ thiểu phần, và liền hồi tâm đi vào pháp hải của Phật.

Như thường thấy trong kinh Phật có đoạn viết: “thiên nhị bá ngũ thập nhân câu, giai thị đại A la hán” (Hai nghìn năm trăm người câu hội, họ đều là bậc đại A la hán), đây là nói lúc giáo đoàn đã hình thành.

Năm năm sau khi thành đạo, đức Phật nhận lời thỉnh mời của dân thành Xá Vệ (Sràvast) thuộc nước Kiều Tát La (Kosala)ä, để đi đến thành này, tại đây có ông trưởng giả Tu Đạt (Sudatta - còn gọi là Tu Đạt Ta). Bỏ tiền mua một tòa “Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên” vô cùng giá trị để cúng dường đức Phật. Tức thì nơi đây trở thành trung tâm hoằng pháp đương thời. Cùng năm đó, Đức Thích Tôn nhận được lời triệu vời của vua Tịnh Phạn. Ngài liền lên đường hồi qui cố quốc để thăm lại phụ vương. Vua Tịnh Phạn cho kiến lập tịnh xá tại vườn Ni Câu Luật để làm nơi tiếp đãi đức Phật. Lần trở về cố hương này rất là trang nghiêm, bởi tất cả chúng Thánh đệ tử cùng đi với đức Phật. Đức Thích Tôn vì phụ vương mà thuyết pháp. Đang khi nghe Phật thuyết pháp Tịnh Phạn vương liền đắc “Pháp nhãn tịnh”. Cũng trong dịp này, có rất nhiều người trong hoàng cung cầu xin thọ giới pháp; đồng thời đức Phật độ người em dị bào là A Nan(15) xuất gia. Thân tử Ngài là La Hầu La cũng cầu Phật xin xuất gia. Chuyến hồi hương này, đức Phậtchúng Thánh đệ tử lưu lại quê nhà trong bảy ngày; Ngài từ biệt phụ vương để trở lại thành Vương Xá. Những người trong Thích Ca vương tộc xin theo Phật xuất gia làm đệ tử, trong đó có nhiều vị nổi danh như ngài A Na Luật (Aniruddha), A Nan (Ànanda), Kim Tỳ La (Kumbalùra) Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) v.v… những vị này đặc biệt xin đức Phật “ưu ngộ”, nghe xong lời đề nghị, đức Phật liền quở trách các vương tử; vì đức Phật muốn biểu lộ sự bình đẳng trong Phật pháp; mặt khác, Ngài muốn ức chế tính khí kiêu ngạo của các vương tử.

Hậu thế truyền tụng mười vị đại để tử của Phật, trong đó ngoại trừ ngài Tu Bồ Đề (Subhùti) xuất gia hơi muộn, còn chín vị kia đều đã xuất gia.

- Đức Phật với Tăng Đoàn.

Tăng đoàn được gọi là Tăng Già (Sangha). Khi lần đầu tiên đức Phật độ năm vị Tỳ kheo, thì đó là lúc Tăng Già được hình thành.

Tăng Già trong Phật Giáo lấy Tỳ kheo làm trung tâm. Nhưng nội dung Tăng Già gồm có bảy chúng.

Việc vua Tần Bà Sa La qui y Phật, nhân đấy mà số nam, nữ tín đồ tại gia ngày càng tăng. Do vị thiếu niên xuất giaLa Hầu La, mà trong Tăng đoàn có vị Sa di. Do bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng năm trăm người nữ trong dòng họ Thích xuất gia, mà trong Tăng đoànTỳ kheo ni; trong số những người nữ xuất gia, có người còn ở tuổi vị thành niên, nên Tăng đoàn có nhiều vị Sa di ni. Lại nữa, có hạng người nữ đã từng có chồng, nhưng không rõ là họ có thai hay không (hoặc vì chồng chết, hoặc đã ly dị, ly thân) nay xin xuất gia. Ngại rằng chẳng lâu sau họ lại sinh con, khiến thế nhân phỉ báng, vì vậy tạm cho mỗi người thời gian là hai năm ở vị trí Thức xoa ma ni, sau hai năm nghiệm thấy họ không mang thai mới cho thọ giới Tỳ kheo ni.

Theo thứ tự và vị trí, Tăng đoàn đệ tử Phật có bảy chúng: 1. Tỳ kheo (Bhiksu), 2. Tỳ kheo ni (Bhiksun), 3. Thức xoa ma ni (Siksamànà), 4. Sa di (Sràma), 5. Sa di ni (Sràmanerikà), 6. Ưu bà tắc (Upàsaka), 7. Ưu bà di (Upàrikà).

Đến thời điểm này Đức Thích Tôn đã hoàn thành việc chế định giới luật cho bảy chúng đệ tử. Thông thường Tỳ kheo thọ, giữ hai trăm năm mươi giới. Tỳ kheo ni năm trăm giới. Thức xoa ma ni có sáu giới. Sa diSa di ni, giữ mười giới. Ưu bà tắcƯu bà di, tức nam nữ đệ tử tại gia thọ năm giới và phải thọ pháp qui y Tam Bảo. Sự khác biệt về giới tính, cần căn cứ theo giới pháp mà họ thọ trì để phân định. Nội dung giới luật, xin tham cứu “Giới Luật Cương Yếu”.

- Đức Phật và sự Truyền Ký.

Tính từ khi đức Phật thành đạo đến năm thứ sáu, tuy không có năm tháng rõ ràng, địa điểm hoạt động của Ngài để có thể khảo cứu. Chỉ biết sinh hoạt của đức Phật và chúng đệ tử vào mùa mưa, và được chép trong các tư liệu rất ít ỏi. Đấy là nhân vào các Truyền Ký trong văn học ghi chép về đức Phật. Như kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, kinh Phật Bản Hạnh Tập, Phật Sở Hành Tán, kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, kinh Bản Sinh v.v… Đại loại các kinh vừa nêu tự thuật lại những năm hoạt động sau khi Phật thành đạo. Do đó, chưa thể dùng những tự thuật này để quán xuyến các Truyện Ký về những sự tích trong quá trình hoạt động của Ngài để có thể lưu hậu.

Hiện tại căn cứ vào kinh Tăng Già La Sát Sở Tập(16), quyển hạ có liệt kê những nơi đức Phật và chúng đệ tử an cư vào các mùa mưa như sau:

Năm thứ nhất tại nước Ba La Nại, năm thứ hai, thứ ba tại đỉnh núi Linh Thứu, gần ngoại thành Vương Xá, năm thứ năm tại Tỳ Thư Ly (Tỳ Xá Ly), năm thứ sáu tại núi Ma Câu La (là núi Pandava cũng ở ngoại thành Vương Xá), năm thứ bảy ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên (tức cõi trời Đao Lợi, tại đây đức Phậtthân mẫuthuyết pháp). Năm thứ tám, thứ mười một, thứ mười hai, thứ mười ba, tại Quỉ Thần Giới (một bộ tộc của nước Kiều Thưởng Di, tức rừng Khủng Bố của nước Ba Kỳ), năm thứ chín tại nước Câu Khổ Tỳ (Kiều Thưởng Di), năm thứ mười trong núi Chi Đề (vị trí núi này chưa biết được). Năm thứ mười hai tại Ma Già Đà (Ma Kiệt Đà) thuộc xứ Nhàn Cư, năm thứ mười bốn tại Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên tại nước Xá Vệ, năm thứ mười lăm, mười sáu tại nước Ca Duy La Vệ, năm thứ mười bảy, mười tám và hai mươi tại thành La Duyệt (thành Vương Xá), năm thứ mười chín và hai mươi mốt tại núi Gia Lê (núi Calya phụ cận thành Vương Xá), về sau đức Phật và chúng đệ tử an cư tại Quỉ Thần Giới bốn lần, thành Xá Vệ mười chín lần. Năm thứ bốn lăm, đức Phật lần cuối an cư cùng Thánh chúng đệ tử tại thôn Tỳ Tướng thuộc nội cảnh nước Bạt Kỳ (Vriji).

Đức Thích Tôn lúc tuổi về già có nhiều việc Ngài không thuận ý. Tại thành Vương Xá, ông Đề Bà Đạt Đa yêu cầu đức Phật trao quyền lãnh đạo Tăng đoàn lại cho ông. Do không thỏa nguyện, Đề Bà Đạt Đa nuôi ý dấy lên phong trào phản Phật, hại Phật. Ông dùng thần thông biến hóa và hiệu triệu giới tu khổ hạnh cực đoan, tranh thủ vua A Xà Thế (Ajasatru) để tất cả đều ủng hộ ý đồ của ông. Vì thế, mười năm cuối đời Đức Thích Tôn không còn lưu lại thành Vương Xá, và cũng không trở lại thành Vương Xá.

Tại thành Xá Vệ sau cùng không được an ninh, ở phía nam, vua A Xà Thếám muội mà giết chết vua cha là Tần Bà Sa La để lên làm vua - đời thứ sáu của nước Ma Kiệt Đà. Ở mạn phía bắc, nước Kiều Tát La, thì vương tử Lưu Ly (Virùdhaka) của thành Xá Vệ, trước Phật nhập diệt vài năm cũng nổi lên xua đuổi vua cha là Ba Tư Nặc (Prasenajit) để đoạt lấy vương vị, đồng thời cử đại quân đánh úp thành Ca Tỳ la Vệ, quê quán của đức Phật. Đấy là lần diệt thành quách, diệt tộc họ - một cuộc đại thảm sát. Tộc Thích Ca cơ hồ bị tuyệt chủng trong cuộc binh biến này.

Tuy nhiên, sau lần giáo đoàn bị phân chia, và tổ quốc bị diệt vong, và Đề Bà Đạt Đa cũng đã chết, vua Lưu Ly bị vua A Xà Thế đánh bại, nước Kiều Tát La qui về bản đồ nước Ma Kiệt Đà, và rồi sau cùng vua A Xà Thế cầu qui y Phật. Vậy là Đức Thích Tôn sau mười năm khổ hạnh, phong sương, Ngài vẫn đi lại nhiều nơi để giáo hóa, sau rốt sắc thân ngũ uẩn của Ngài cũng dần dà lão suy.

- Sự giáo hóa sau cùng.

Qua bốn mươi lăm năm giáo hóa, cuối cùng đức Phật tự biết thân đã đến thời gian Ngài quyết định xả thân ngũ uẩn. Tuy vậy, nhưng Ngài vẫn cân nhắc thời gian thích hợp trước khi xả bỏ báo thân. Đầu tiên Ngài triệu tập toàn thể các Tỳ kheo đang có mặt tại Tỳ Xá Ly về tụ hội tại tịnh xá Trúc Lâm, đây là lần giáo hóa sau cùng vô cùng trọng yếu. Tiếp đó, Ngài đi về hướng thành Câu Thi Na La (Kusinagara). Thành này xưa tên là Câu Thi Na, cứ mỗi chặng đường đi qua, cảm thấy mệt thì Ngài nghỉ, nhất là khi đi qua các thôn ấp, đức Phật đều dừng lại nghỉ chân, và trong thời gian nghỉ ngơi, Ngài hướng về dân làng mà thuyết pháp. Sau cùng Ngài đến rừng cây Ta La (Sàla) ở ngoài thành Câu Thi Na La; đức Thích Tôn chọn khu rừng hoang của một tiểu quốc ít người biết đến làm nơi nhập diệt.

Đức Thích Tôn kiết tọa trên chiếc tăng Già Lê (Đại y) mà ngài A Nan vừa trải ra, rồi đức Phật nghiêng người nằm xuống nghỉ hướng về phía hữu. Trong lúc cơn suy kiệt không thể chịu đựng được nữa, thì có người ngoại đạo tên là Tu Bạt Đà La (Subhadra) đến khẩn cầu ngài A Nan cho phép ông bái kiến đức Phật. Nghe vậy, đức Phật gắng sức tiếp ông ta và Tu Bạt Đà La trở thành người đệ tử cuối cùng được đức Phật độ thoát.

Trước lúc đức Phật xả thọ, Ngài hướng về chúng Tỳ kheo đệ tử mà giáo giới: “Thế này các Tỳ kheo, vô viphóng dật, ta chọn không phóng dật, ta tự thành chánh giác. Vô lượng chúng thiện, cũng do không phóng dật mà có. Tất cả vạn vật, không vật nào là thường tồn. Đây là lời dạy sau cùng được Như Lai nói ra(17). Trong kinh Phật Di Giáo(18), đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, thường nên nhất tâm, siêng năng cầu đạo xuất ly. Tất cả các pháp động và bất động của thế gian, đều là tướng tán hoại và bất an là lời dạy cuối cùng của ta.” Đấy là biểu lộ lòng thương người tối hậu của đức Phật trong tình cảnh cuối cùng. Đức Phật sánh như người mẹ hiền vĩ đại! Trước lúc sắp đi xa, lòng cứ xót xa lo lắng cho những đứa con gái thơ dại của mình, chúng không biết tự lo những việc như ăn mặc, đi đứng, vì thế Ngài căn dặn đi, căn dặn lại, và rồi dặn đi dặn lại.

Từ khi đức Phật thành đạo đến lúc Ngài sắp nhập diệt, đức Phật luôn hết lòng cứu giúp và giáo hóa chúng sinh. Bất luận ở hoàn cảnh nào, Ngài cũng đều xử sự một cách ôn hòa, khoan đại, giữ lấy trung đạo mà hành xử. Ngài chưa từng bao giờ thốt ra một câu nói ngạo mạn, khinh người. Ngài cũng chưa bao giờ có động thái biểu lộ sự bất bình dù là trong nội tâm.

Nơi tự thân Ngài, đức Phật luôn ôm lòng bi mẫn giáo hóa chúng sinh. Trí huệ quang minh, vô hạn và sâu kín của Ngài là hoàn toàn sung mãn. Vì thế bất luận là vấn đề gì, khi xử lý Ngài cân nhắc cả về lý, tình của nó, không nghiêng ngả chủ quan. Quả thực Ngài là đấng cha lành của thế gian, là đấng đạo sư của Trời, người. Đức Phật là Phật ở chính những gì Ngài đem lại cho nhân loại.


(1) Đại Chánh Tạng-1, trang 771

(2) .Đại Chánh tạng - 1, từ trang 88 đến trang 94

(3) Đại Chánh tạng - 49, trang 23.

(4) Đại Chánh tạng - 49, trang 142.

(5) Đại Chánh tạng - 49, trang 23.

(6) Tiểu Dã Huyền Diệu viết trong Phật Giáo Niên Đại Khảo.

(7) Ấn Độ Triết học, nghiên cứu của Vũ Tỉnh Bá Thọ, quyển 2, trang 59, năm Chiêu Hòa 40. Nham Ba Thư Điếm.

(8) Tân Phật Giáo Từ Điển, của Giám Tu Trung Thôn Nguyên, trang 245, Chiêu Hòa năm 62, bản thứ tám. Thánh tín thư phòng.

(9)Phật Giáo Ấn Độ, của Ấn Thuận pháp sư, trang 84, tiết I, chương V.

(10) Tăng Nhất A Hàm Kinh, phần cuối quyển 4 có chú thích việc này. Đại Chánh tạng-2, từ trang 75 trở lui.

(11) Đại Chánh tạng-24, giữa trang 114.

(12) Chandaka có nơi dịch là Siển Đà hoặc Siên Nô

(13) Trung A Hàm Kinh, quyển 56, kinh 2004 - Ma La Kinh. Đại Chánh tạng-1, trang 777.

(14) Đại Chánh tạng-2, từ trang 7 trở lui.

(15)A Nan là con bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề.

(16) Đại Chánh Tạng-4, giữa trang 144.

(17)Kinh Trường A Hàm, quyển 4, Kinh thứ 2. Du Hành Kinh. Đại Chánh tạng-10, giữa trang 26.

(18)Đại Chánh tạng-12, giữa trang 1112.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14301)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14561)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14356)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13269)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14633)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12640)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25228)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27862)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26338)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17226)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16523)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15914)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22130)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17128)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24897)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21950)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19057)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16168)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16779)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14664)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16698)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25026)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18769)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21196)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14774)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14371)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16611)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12919)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14939)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12699)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13884)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14598)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28017)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27178)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14346)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20946)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14667)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24173)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28671)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14732)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13283)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16444)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27227)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12018)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16074)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21476)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12375)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant