Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 1: Công sự của vua A Dục

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9503)
Tiết 1: Công sự của vua A Dục

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG IV

A DỤC VƯƠNG VÀ ÐẠI THIÊN

TIẾT I. CÔNG SỰ CỦA VUA A DỤC

- Sự phân biệt của Phật giáovua A Dục.

Phật giáo sau khi trải qua lần kết tập thứ hai, về thái độ đối với giới luật, tuy đã phân thành Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ, nhưng về giáo nghĩagiáo đoàn vẫn chưa xảy ra hiện tượng đối lập nổi bật. Nhưng đến thời vua A Dục, thì tự việc Luật chế mà phát triển thành tranh chấp, và đều thông qua việc dùng lý nghĩa để luận biện. Kết quả, Ðại Chúng Bộ chiếm ưu thế tại trung Ấn Ðộ, nhờ thái độ tự do tiến bộ.

Theo ghi chép của luận Ðại Tỳ Bà Sa (quyển 99) của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ(1), lấy việc vua A Dục yêu sách phải tiến bộ, và cho là vua A Dục kết phe nhóm với “tặc trú Tỳ kheo”, một phái của Ðại Thiên, và không chú ý đến ý kiến của những vị Thượng tọa trưởng lão. Vì vậy, mới có chuyện bức áp chư vị Thượng tọa phải đi đến Ca Thấp Di La để cùng với phái tiến bộ của Trung Ấn chia thành cương thổ để giáo hóa. Tuy ở đây chỉ nói về Hữu Bộ Thượng Tọa. Nhưng phải khảo sát sâu hơn, khi thấy địa phương Ma Kiệt Ðà thỉ chung vẫn là môi trường thích hợp đối với vấn đề tự do tư tưởng, nên có khả năng phái bảo thủ không được nhiều người hoan nghênh tại Ma Kiệt Ðà. Ðấy cũng là việc thông thường về mặt tình lý.

- Vương Thống của Ấn Ðộ.

Vua A Dục, tức vua A Luân Ca (Asoka), ông là vị quân vương thứ ba của vương triều Khổng Tước (Maurya Bynasty). Từ rất sớm Ấn Ðộ đã là một nước văn minh. Ấn Ðộ có những niên đại khả tín và có thể khảo cứu được, chẳng hạn như việc mở đầu vương triều Khổng Tước của vua A Dục. Nhân giới thiệu về vua A Dục, trước hết xin giới thiệu về lịch đại vương thống của đất nước Ấn Ðộ, dù chỉ là cái nhìn lướt qua các sự kiện và diễn biến của lịch sử Ấn Ðộ.

1. Vương thống Ma Ha Tam Ma Ða:

Ðây là vương triều sớm nhất của Ấn Ðộ, vương triều này được đọc thấy trong chín bộ Kinh, Luật của Phật giáo như: Hữu Bộ Luật, Phá Tăng Sự, Tứ Phần Luật, Phật Bản Hạnh Tập Kinh, Chúng Hứa Ma Ha Ðế Kinh, Khởi Thế Kinh, Trường A Hàm Kinh, Chương Sở Tri Luận v.v... Duy có điều danh hiệu của các vị vua kế truyền có tính bất nhất, vì không ghi rõ thời gian.

2. Vương Thống Nguyệt Thống (Candravasal):

Xem Tứ Thư trong thần thoại Ấn Ðộ.

3. Vương Thống Nhật Thống (Suryavansa):

Xem Tứ Thư trong thần thoại Ấn Ðộ.

4. Vương Thống Tô Tu Na Già (Saisunnàga Dynasty):

Vương triều này liền trước vương triều Khổng Tước, nơi đây là nước Ma Kiệt Ðà, cũng được đưa vào “Khải Mông Chánh Sử”, khoảng sáu, bảy trăm năm, hoặc bốn, năm trăm năm trước Công nguyên. Ðiều đó tìm thấy trong kinh Phật với mười sáu nước lớn đều thuộc về thời đại này, riêng có điều niên đại của mỗi vị vua khó có thể biết hết.

5. Vương triều Khổng Tước (Maurya Danasty):

Khoảng từ thế kỷ thứ tư đến thế kỷ thứ hai trước tây lịch. Ðây là thời kỳ Phật giáo đại định.

6. Vương thống Huân - Gia (Sanga Dynasty):

Trước Công nguyên ước khoảng 180 năm đến 80 năm, vào năm đầu của vị vua thứ tư của vương triều này là vua Bồ Sa Ðà La, Phật giáo tại trung Ấn Ðộ bị pháp nạn, nhưng tại bắc và nam Ấn Ðộ, Phật giáo chuyển sang thời thịnh.

7. Vương thống Ca Nạp Bà (Kanva Dynasty):

Còn có tên là vương thống Khương Ngõa, vương thống Ca Ân Bà, vương triều chỉ tồn tại có bốn mươi năm.

8.Vương thống Án Ðạt La (Andhrabhritya Dynasty):

Trước Công nguyên hai mươi bảy năm, cho đến sau Công nguyên hai trăm ba mươi sáu (236) năm.

9. Vương thống Quí Sương (Kusam - Dynasty):

Vào thời này ở nam Ấn Ðộ thuộc vương triều Án Ðạt La. Vương thống Quí Sương là một bộ tộc của tộc Ðại Nguyệt Thị. Tộc này có vị vua rất nổi danh về đường lối cai trị nhân hậu, đó là vua Ca Nị Sắc Ca. Những bậc danh đức của Phật giáo như Mã Minh, Long Thọ, Ðề Bà, Ðạt Ma Ða La, Ha Lê Bạt Ma, Di Lặc v.v... tất cả đều xuất hiệnthời đại này. Vương triều Quí Sương được kiến lập trước Công nguyên mười năm và kéo dài sự tồn tại đến cuối thế kỷ thứ ba sau công nguyên.

10. Vương thống Cấp Ða (Gupta Dynasty):

Vương triều Cấp Ða hưng khởi từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI tây lịch. Những vị như: Vô Trước, Thế Thân, La Thập, Giới Hiền, Kiên Huệ, Giác Âm v.v... đều thuộc về thời kỳ này. Chùa Na Lan Ðà cũng được tạo dựng vào thời kỳ này. Ðây là thời đại Phật giáo Mật tông bắt đầu tiến đến hưng thịnh. Ngài Pháp Hiển của Tung Quốc đến Ấn Ðộ cũng ở thời kỳ này. Ðây cũng là giai đoạn xuất hiện những vị như An Huệ, Trần Na, Thanh Biện, Hộ Pháp v.v...

11. Vương thống Giới Nhật (Vardhana Dynasty, dịch âm Hán ngữ là Phạt Ðàn Na):

Vương thống này ước vào khoảng đầu thế kỷ thứ VI cho đến hậu bán thế kỷ thứ VIII tây lịch. Thời này có ngài Long Trí làm hưng vương Mật giáo. Ở trung Ấn Ðộ có ngài Nguyệt Xứng hoằng truyền “Không tông”. Ðường Huyền Trang của Tung Quốc tây du Ấn Ðộ cũng ở thời này, và một lần nữa, ngài Pháp Xứng chấn hưng Nhân Minh học.

12. Vương thống Ba La (Pala Dynasty):

Vương triều Ba La không phải là trực tiếp kế thừa vương triều Giới Nhật, nhưng cũng là vương triều có phần tín ngưỡng Phật giáo. Mật giáo đặc biệt thịnh hành ở thời này.

Các vương thống vừa nêu, phần lớn đều lấy Ma Kiệt Ðà làm trung tâm để giới thiệu về vương triều của mình.

Vì rằng các vương thống của Ấn Ðộ rất ư là phồn tạp, bởi vậy ở đây chỉ nêu lên những nét chính.

Từ sau vương triều Giới Nhật, Ấn Ðộ qui tụ lại thành lập vương bang, và có nhiều vương triều hưng khởi. Ðến thế kỷ XII tây lịch, Hồi giáo xâm nhập Ấn Ðộ và tiêu diệt các vương triều Ấn Ðộ. Phật giáo tại Ấn Ðộ nhân đấy cũng bị Hồi giáo tuyệt diệt. Sự kiện này diễn ra tương đương với thời nam Tống của Tung Quốc - năm Tống Ninh Tông, Phật giáo khởi nguyên tại Ấn Ðộ, và tồn tại được một nghìn sáu, nghìn bảy trăm năm thì bị diệt vong. Nguyên nhân vì sao? Xin sẽ trình bày ở chương XII của tập sách này.

- Con người của vua A Dục.

Hệ thống các đời trước thuộc vương triều Khổng Tước không được rõ lắm; nhưng chẳng có gì phải ngờ khi nói rằng vương triều này không hoàn toàn là giống người Aryan thuần chủng. Có người cho rằng tổ mẫu của vua A Dục xuất thân từ giai cấp tiện dân. Vua Chiên Ðà La Quật Ða (Candrogupa) là tổ phụ của vua A Dục và là người khai sáng vương triều Khổng Tước, đời thứ hai của vương triều là vua Tần Ðầu Sa la (Bindusàra), đời thứ ba là vua A Dục, ông lên ngôi vào năm 268 trước công nguyên. Ðiều này là căn cứ theo ghi chép của Nam truyền, qua các bộ kinh, sử như: luật Thiện Kiến, Ðảo Sử, Ðại Sử và tuyền thuyết từ Phật giáo Miến Ðiện. Duy có điều mãi đến nay, niên đại lên nôi của vua A Dục, các học giả vẫn còn nỗ lực khảo đính. Truyền thuyết kể rằng, lúc vừa sinh ra đời vua A Dục vốn có hình dạng rất xấu xí, tính cách thì ngu dốt, kém cỏi nên chẳng mấy khi được vua cha yêu mến, khi trưởng thành cũng là lúc ở địa phương Ðức Xoa Thi La (Takkasilà) ở bắc Ấn Ðộ có xảy ra biến loạn; vua cha là Tần Ðầu Sa La liền phái ông đến đó bình loạn. Chủ ý của phụ vương ông là nhân đấy mà tống ông đến chỗ chết, do đó mà trang bị vũ khí cho đoàn quân của ông rất sơ sài. Cứ ngỡ bấy giờ vua A Dục chưa lớn đủ, cũng chẳng có trí dũng gì. Nhưng nào ngờ ông lại hoàn thành nhiệm vụ, và được cử làm tổng đốc tại đấy, kế tiếp ông nhận được sự ủng hộ của triều thần. Ðến khi phụ hoàng ông băng hà, ông liền giết chết nhiều anh em ruột thịt, và tự tay nắm chính quyền. Ðại khái vì lúc bấy giờ tình hình nội bộ không mấy ổn định; và tình hình đó kéo dài đến bốn năm sau cái chết của vua Tần Ðầu Sa La. Ðồng thời, lúc này vua A Dục cũng tròn hai mươi lăm tuổi, và ông chính thức cử hành lễ đăng quang. Truyền thuyết kể là vua A Dục có đến một trăm lẻ một người anh em cùng cha khác mẹ. Trong số đó bị ông giết đến chín mươi chín người, chỉ còn mình ông Ðế Tu là chưa bị giết. Nhưng theo lời răn dạy dân của vua A Dục được khắc vào bia đá của thời ông đương tại vị, thì không thấy nói gì đến tình hình giữa anh em nhà ông. Như vậy cho thấy truyền thuyết không hẳn là đúng và đáng tin.

Truyền thuyết còn chép là phụ vương ông bị ông bức hiếp mà chết, và khi lên chấp chính ông mới tiến hành cuộc tận diệt những người anh em. Ông còn tạo tội hình địa ngục để xử trí người dân. Ðồng thời ông cũng xua quân chính phạt nước Yết Lăng Già (Kalinga) nay là tỉnh A Lý Sa (Orìssa) thuộc Ấn Ðộ. Tại đây ông tàn sát vô số người, vì thế ông có xú danh là “bạo ác A Dục vương”.

Theo nghiên cứu, thì việc vua A Dục qui y Phật giáo cách đó một năm, tức sau khi chinh phạt nước Yết Lăng Già, ông tận mắt chứng kiến thảm trạng sát hại sinh linh do chính cuộc chinh phạt của ông gây ra, và ông sinh lòng “đại hối”. Nên chỉ lúc hồi triều ông thân cận Tăng Già, qui ytu trì theo Phật pháp. Ông tự hứa sẽ dùng đường lối cai trị theo lý tưởng Luân Vương. Ðó là dùng chánh sách hòa bình để kiến thiết quốc gia, đem lại phồn vinh an lạc cho xã hội. Gần đây nhờ phát hiện được “Ðại Ma Nhai Pháp”, chương mười ba là chương được dùng để dạy răn người dân. Trong đó chép rõ việc vua A Dục “y thắng pháp, thị vi tối thắng” (phép trị dân tốt nhất, ấy là nương theo chánh pháp của đức Phật).

- Vua A Dục với Phật giáo

Từ khi vua A Dục qui y Tam Bảo, thì mọi ngôn hành của ông đều có liên quan đến Phật giáo. Nghiên cứu tư liệu viết về vua A Dục, ngoài cuốn “A Dục Vương Thí Dụ” được viết bằng Phạn Văn (Asokavadàna), và cuốn “A Dục Vương Kinh” bản Hán dịch, cùng những truyện tích về ông, gần đây các học giả còn chú trọng đến:

1. “Ðại Ma Pháp Sắc”(2) Thất xứ”. Và chia thành giáp thiên có mười bốn chương, ất thiên có hai chương.

2. Thạch Trụ Pháp Sắc Lục Xứ, giáp có sáu chương, ất có một chương, bính có hai chương.

3. Tiểu Thạch Trụ Pháp Sắc Tứ Xứ, có bốn thứ.

4. Tiểu Ma Nhai Pháp Sắc, giáp có bảy xứ ba thứ, ất có một xứ một thứ, bính có một xứ một thứ.

5. Thạch bản.

Từ sau năm 1356 (tây lịch), những cổ vật lần lượt được phát hiện, đến năm 1837 trở lui, được ông J. Prinsep liên tục phát hiện, căn cứ ngữ nguyên học và sự hiệp sức của các học giả Phạn ngữ để dịch tất cả sang Anh văn. Căn cứ Ðại Ma Nhai Pháp Sắc, từ chương một đến chương bốn, chương mười một, và Thạch Trụ Pháp Sắc chương thứ năm, chương thứ bảy chép rằng. Sau khi lên ngôi, vua A Dục đã từng có hai mươi lăm lần đặc xá tù nhân, mỗi năm mở Vô Giá hội thí một lần. Ngoài các việc trên, vua A Dục còn cấm sát sinh, khuyến khích hạnh bố thí, trồng cây xanh, đào giếng, tu sửa đường xá, tạo Phật tự, kiến lập tháp Phật. Những việc như vậy được thực hiện trên khắp cả nước. Vua A Dục cho thiết lập “Chánh pháp Ðại Quan” (Dharma - Màhamtras), có nhiệm vụ đi đến các địa phương để tuyên dương chánh pháp, rộng thi hành chánh sách nhân trị, thương yêu và giúp đỡ người dân, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo. Vua A Dục cũng tự thân hành thăm viếngđảnh lễ các Phật tích, tại mỗi Phật tích, ông đều cho dựng trụ đá, trên mỗi trụ đá đều có khắc ghi lại sự tích để kỷ niệm. Những trụ đá này hiện vẫn còn, tuy có bộ phận nào đó bị hư hoại. Hiện nay chính phủ Ấn Ðộ coi những trụ đá này là trân bảo của nền văn vật cổ của quốc gia, và cho qui tập về viện bảo tàng để lưu giữ. Vua A Dục rất yêu thươngbảo vệ động vật do đời trước lưu lại, nhờ đó những động vật này hiện nay tại Ấn Ðộ vẫn còn.

Lại nữa, theo sắc lệnh thành văn được khắc trên đá chứng thực rằng, vua A Dục đã từng sai phái Chánh Pháp Ðại Quan đi đến các nước ngoài để hoằng hóa Phật pháp, điều này được đọc thấy trong sắc lệnh đề cập đến năm vương quốc Hy Lạp, đó là: Tự Lợi Á, Ai Cập, Mã Kỳ Ðốn, Khắc Lai Nại, Ái Tỳ Lao Tư. Ðây là các khu vực mà sau này Gia Tô giáo và Hồi giáo phát triển rất mạnh. Phật giáo bị ảnh hưởng hai tôn giáo này như thế nào, có thể suy nghiệm được. Về phía đông, vua A Dục cũng phái Chánh Pháp Ðại Quan đến tận Giản Bộ Trai để hoằng pháp. Việc rộng truyền bá Phật giáo của vua A Dục chủ yếu là đem giáo nghĩa của đức Phật tuyên dương một cách hòa bình, nhằm thăng tiến tính thân thiện quốc tế.

Việc làm trên của vua A Dục được các nhà sử học sau này đem sánh với việc vua Constatinhe của La Mã ủng hộ Cơ Ðốc giáo, và cho là tương tự. So sánh như thế có phần nào đúng, nhưng hoàn toàn bất xứng. Bởi việc vua Constatine ủng hộ Thiên chúa giáo vừa là một thủ đoạn chính trị, vua không dung nạp các tôn giáo khác. Trong khi sắc lệnh của vua A Dục được khắc nơi bia đá có ghi rõ cho dân biết là “không được bài xíchchê cười tín ngưỡng của người khác”. Thời vua A Dục, Ấn Ðộ có bộ “Ma na Pháp Ðiển” rất nổi tiếng được thành lập. Theo đó, thì sự độ lượng, bao dung được coi là đương nhiên phải có của tôn giáo. Việc hoằng dương Phật pháp của vua A Dục chỉ thuần bày tỏ lòng kính tin những điều Phật dạy, thực hiện việc phụng hành chánh pháp bằng cách yêu thương mọi người và các loài động vật.

Dưới thời vua A Dục, bản đồ nước Ấn Ðộ là rất lớn, có thể nói trên thế giới không nước nào lớn bằng. Biên giới ở đông bộ Ấn Ðộ giáp với Mãnh Gia Lạp Ô, bắc Ấn Ðộ bao gồm cả hai tiểu vương quốc là Ni Bạc Nhĩ và Khách Thập Mễ Nhĩ, cương giới ở nam bộ Ấn Ðộ kéo dài đến sông Ba Na (Panna River), nay là sông Cát Tư Ðặc na, thuộc phía nam tỉnh Hải Ðức Lạp Ba, tây Ấn Ðộ giáp với A Lạp Bá, tây bắc Ấn Ðộ đến tận Ðể Ðạt, nay là một bộ phận thuộc nội cảnh của Afghanistan.

Theo luật Thiện Kiến quyển hai(3), thì vua A Dục lên ngôi được mười bảy năm. Ông thỉnh ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế Ta làm Thượng tọa, và nhờ ngài đứng ra triệu tập một nghìn vị trưởng lão vân tập về tại thành Hoa Thị. Chính nhờ sự kiện này mới diễn ra cuộc kết tập lần thứ ba, và kéo dài đến chín tháng. Nhưng theo thuyết của “Luận Sự” (Katthàvatthu) thuộc tạng Ba Lị của Nam truyền thì nói đấy là thành quả cụ thể của cuộc kết tập tại thành Hoa Thị.

Sau cuộc kết tập, vua A Dục phái nhiều đoàn truyên giáo nối tiếp nhau chia ra để đến nhiều địa phương hoằng truyền Phật pháp, luật Thiên Kiến quyển hai(4), có liệt kê danh tánh của các vị lãnh đạo các đoàn truyền giáo, cũng như tên các địa phương mà đoàn đi đến.

1. Ngài Mạt Xiển Ðề (Mejjhàntika) được phái đến Kế Tân, và Kiền Ðà La Tra (Ikasmìra Gandhara)¸, nay thuộc các địa phương ở Khách Thập Mễ Nhĩ ở bắc Ấn Ðộ.

2. Ngài Ma Ha Ðề Bà (Mahàdeva - tức ngài Ðại Thiên) được phái đến Ma Ê Bà Mạt Ðà La (Mahisaka Mandala), nay là các địa phương thuộc Mai Sách Nhĩ ở vùng nam Ấn Ðộ.

3. Ngài Lặc Khí Ða (Rakkhita) được phái đến Bà Na Bà Tư (Vanavàsi), tên vùng đất này hiện nay không rõ ở đâu, hoặc có thể là ở nam Ấn Ðộ.

4. Ngài Ðàm Vô Ðức (Yonaka - Dhammarakkhita), được phái đến A Ba Kan Ða Ca(Apurantaka), nay là vùng đất phía bắc Tô Khố Nhĩ ở tây Ấn Ðộ.

5. Ngài Ma Ha Ðàm Vô Ðức (Mahadhammarkkhita) được phái đến nước Ma Ha Lặc Tra (Mahàrattha) nay là địa khu Mãnh Mãi ở nam Ấn Ðộ.

6. Ngài Ma Ha Lặc Khí Ða (Mahàrakkta) được phái đến Du Na Thế Giới (Yonakaloka), nay là địa vực thuộc phía tây A Phú Hãn (Afghanistan).

7. Ngài Mat Thị Ma (Majjhima), ngài Ca Diếp Ba (Kasyapa - còn có tên là Ca Diếp Suy), được phái đến vùng biên của núi Tuyết Sơn (Himavantapadesa) nay là dọc theo dải Nepali - Ni Bạc Nhĩ.

8. Ngài Tu na Ca (Sonaka) ngài Uất Ða La (Utttra) được phái đến nước Kim Ðịa (Suvanabhùmi), nay là nước Miến Ðiện.

9. Ngài Ma Sẫn Ðà cùng nhiều vị khác được phái đến nước Sư Tử (Tambapannidìpa) nay là nước Tích Lan Sri-Lanka.

Như những gì vừa nêu cho thấy dưới thời vua A Dục, Phật Giáo đã trở thành tôn giáo mang tính quốc tế. Vua A Dục chủ tâm dùng giới luật của đức Phật để giáo hóa khắp vùng châu Á, châu Phi, và giáp biên giới châu Âu. Ðây được coi như vua Dục đảm nhiệm sứ mệnh mang lại hòa bình thế giới. Thậm chí có người dựa vào “Lịch Ðại Tam Bảo Ký”(5) cho rằng dưới thời Tần Thỉ Hoàng có Sa môn Thích Lợi Phồng cả thảy mười tám người từ Tây Vực đến được Trung Quốc. Tuy truyền thuyết trên không đủ chứng cứ, nhưng thời đại vua A Dục tương đương với thời Tần Thỉ Hoàng, cũng có khả năng đây là một nhánh truyền giáo do vua A Dục phái đi và bị đi lạc vào Trung Quốc(6) cũng nên.

Ðối với việc rộng truyền bá Phật Giáo, thì công đức của vua A Dục là cực kỳ to lớn, đối với lịch sử Ấn Ðộ, thì sự cống hiến của vua A Dụcvô cùng vĩ đại. Do đó, ông được người đời xưng tụng với mỹ danh là “Chánh pháp A Dục Vương” (Dharma Asoka). Ðiều đáng tiếc là những ngôi tự viện do ông kiến lập hiện nay không tìm thấy. Những Phật tháp được kiến tạo dưới thời vua A Dục, khi ngài Huyền Trang đến Ấn Ðộ - thế kỷ thứ VII tây lịch - ông trông thấy được là không dưới năm trăm tháp. Nhưng hiện tại chỉ mới phát hiện được có hai nơi; một là nhóm tháp Tang Khư (Sãnchi), và hai là tháp Bà Nhĩ Hô Ðặc (Bharhut). Còn thạch trụ và thạch tràng do vua A Dục kiến lập khi Huyền Trang đến Ấn Ðộ, ông ghi nhận là có mười sáu nơi, nhưng hiện chỉ còn có chín.

- Hai vua A Dục.

Theo sự truyền thừa của Nam truyền thì sau Phật diệt độ khoảng trăm năm, tại thành Tỳ Xá Ly diễn ra cuộc Thất Bách kết tập vào thời vua Ca La A Dục (Kàtasoka), và từ cuộc kết tập này mới đưa đến việc phân chia Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ. Còn lần kết tập thứ ba diễn ra sau Phật Niết bàn khoảng hai trăm hai mươi năm dưới thời Chánh Pháp A Dục Vương. Nguyên do của lần kết tập này là để giải quyết cuộc khởi tranh của hàng tặc trú Tỳ kheo. Cũng từ sau cuộc kết tập này dẫn đến việc Ðại Chúng Bộ lại chia ra thành sáu bộ, như Ðông Sớn Bộ v.v...

Nhưng theo sự ghi chép của Bắc truyền, thì lần Thất Bách kết tập xảy ra sau Phật nhập diệt ước khoảng trăm năm, nhưng vị quốc vương ủng hộ lần kết tập này là ai không rõ. Sau Phật diệt độ một trăm mười sáu năm(7)). Vua A Dục thống lãnh vùng đất Diêm Phù Lợi, nhân việc khởi tranh luận của Ðại Thiên về “Ngũ Sự”, từ đó mới đi đến phân chia thành Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ. Và cũng dưới thời vua A Dục; sau Phật diệt độ hai trăm năm, nhân việc tranh cãi về “Ngũ Sự” của Ðại Thiên mà Ðại Chúng Bộ chia thành ba bộ, như Bộ Ðông Sơn v.v.. Do sự kiện trên mà Nam truyền nói là có hai vua A Dục, trong khi Bắc truyền chỉ có một vua A Dục. Niên đại vua Ca La A Dục của Bắc truyền được nói đến trong “Thập Bát Bộ Luận”. Vua A Dục thứ hai của Nam truyền là nhân vật trung tâm của lần kết tập thứ ba. Lần kết tập thứ ba cũng xuất phát từ sự ghi chép của Nam truyền, thì vua A Dục này là nhân vật trung tâm, so ra vua A Dục này của Nam truyền sau vua A Dục của Bắc truyền cả trăm năm.”Ðại Tỳ Bà Sa Luận” quyển 99(8), cũng nói rất rõ: vào thời quốc vương A Luân Ca (tức vua A Dục), do vua nghe theo Ðại Thiên (Mahàdeva) nên muốn sát hại các Thánh tăng của Thượng Tọa Bộ, do đó các Thánh tăng mới đến ngụ tại nước Ca Thấp Di La. “Ðại Ðường Tây Vực Ký” quyển ba(9) của Huyền Trang cũng ghi tương tự về vấn đề trên. Cả hai thuyết vừa nói đều cho rằng sự việc trên xảy ra sau Phật nhập diệt một trăm năm. Do đó, sự thật về sự kiện trên, đứng về mặt lịch sử Phật Giáo quả là vấn đề rất khó thanh lý.

Cũng từ vấn đề trên nếu gia tâm khảo sát tường tận, thì thật sự dưới thời vua A Dục có xảy ra cuộc tranh luận về “Ngũ Sự”, nhưng không hẳn vua A Dục nghiêng về Ðại Thiên - một phái có tư tưởng tiến bộ. Theo ghi chép của luật Thiện Kiến(10), thì bấy giờ vua A Dục thỉnh mời ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu làm Thượng tọa đứng ra tuyển chọn nghìn vị Tỳ kheođủ tư cách nhất tham gia bình nghị xem trong cuộc tranh luận nay ai đúng ai sai. Ngài Ðế Tu được đón từ trung tâm núi A Kiệt hà, ông thuộc đông hệ Ba Lị - nhân vật phân chi của Thượng Tọa Bộ. Ông đứng trên lập trường Thượng Tọa Bộ, nhưng lại đồng tình với tư tưởng cực đoan của Thượng Tọa Bộ. Ðấy chính là cái đích được nhắm tới của cuộc bình nghị này. Ðối với tư tưởng của Ðại Chúng Bộ, ông có phần chấp nhận, tất nhiên đấy là sự thật. Lần kết tập này kéo dài đến chín tháng, thiết nghĩ về mặt giáo nghĩa cần nên có các cuộc thảo luận về những dư thiếu. Nhưng về niên đại của lần kết tập này không được tỏ rõ, nhưng thuyết của Nam truyền ghi chép là diễn ra khoảng hai trăm hai mươi năm sau Phật diệt độ. Nhưng do đâu có sự ghi chép như vậy? Theo Bắc truyền là do sau Phật diệt độ hai trăm năm, trong Tăng đoàn có xảy ra cuộc tranh luận “Ngũ Sự”.

Còn như việc Nam truyền chia vua A Dục thành hai, một là vua Ca La A Dục, nghĩa là “Hắc A Dục vương” chữ “Hắc” được dùng trong Phật Giáo là chỉ cho “ác tác” (làm điều xấu, nghĩ suy xấu), giống như nói hắc nghiệpbạch nghiệp. Do đó, Nam truyền dùng Ca La A Dục vương, ngụ ý nói một ông vua A Dục bạo ác khi ông chưa qui y Tam Bảo (điều này trong “A Dục Vương Kinh” của Bắc truyền gọi là Chiên Ðà A Dục Vương), đấy là nói một ông vua A Dục đại biểu cho tính thực tiễn sau khi ông đã qui hóa thành chánh pháp A Dục Vương. Nếu thuyết này khả tín, thì đúng là vì cách nhau cả trăm năm nên có sự nhầm lẫn giữa hai vua A Dục. Xét thấy cần nêu vấn đề này ra ở đây để tiện khảo chứng.

Cách kiến giải trên là của Ðịch Nguyên Văn Lai Thị, người Nhật Bản, và pháp sư Ấn Thuận của Trung Quốc có đọc đến, nhưng vấn đề có khả tín hay không cần có thêm sự nghiên cứu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34389)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16883)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22985)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13067)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21977)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22211)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14878)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23603)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24137)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23665)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17160)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19371)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27097)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14436)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13857)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22702)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14771)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17377)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12692)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13892)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10428)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14720)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17211)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12566)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12731)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10385)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28731)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10726)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11148)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16894)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15792)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13357)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12568)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11387)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13038)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19324)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12265)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28647)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10064)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21572)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12806)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17844)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26281)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11723)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10869)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22776)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12060)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10619)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11424)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11544)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant