Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 2: Tư tưởng bộ phái

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9412)
Tiết 2: Tư tưởng bộ phái

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG V
SỰ PHÂN CHIA BỘ PHÁI PHẬT GIÁO

TIẾT II. TƯ TƯỞNG BỘ PHÁI

- Thực chất là có bao nhiêu Bộ Phái?

Về đại thể, thì mỗi Bộ phái đều dựa vào kiến giải của Bộ phái mình, do vậy nên có sự phân phái. Tương truyền có cả thảy mười tám Bộ phái. Thêm nữa, tất cả đều lấy Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ làm căn bản, vì vậy mới thành hai mươi Bộ. Nhưng theo thư liệu hiện còn, thì Thuyết Nhất Thiết Hữu BộKinh Lượng Bộ thuộc hệ Thượng Tọa Bộ, tư liệu về hai Bộ này là di sản vô cùng phong phú và cực kỳ quí. Bởi hai Bộ trên hiện có rất nhiều luận điển, nhờ những luận điển đó chúng ta mới cơ sở để nghiên cứu. Tư tưởng của các Bộ phái khác đều dựa vào những luận điển của Hữu bộ mới có được khái niệm để tự thuật một cách gián tiếp về Bộ phái mình. Ðặc biệt nhất là Ðại Chúng Bộ. Bộ này tuy trước sau được chia thành chín bộ, nhưng luận thư của chín Bộ này cơ hồ như không bị thất tán.

- Nói về giới luật, như chúng ta biết, trong các Bộ phái Phật giáo, có Bộ rất coi trọng giới luật, có Bộ thì đối với giới luật chẳng có gì phải tranh luận. Với các Bộ phái coi trọng giới luật, vẫn có vấn đề ý kiến bất đồng. Ðó là vì các Bộ phái giải thích luật căn bản theo kiến giải của Bộ phái mình, nhân đó hình thành luật tạng mang tính Bộ phái. Với các Bộ phái không tranh luận gì về giới luật, tuy vậy, ý kiến của mỗi Bộ cũng có bất nhất, dù tất cả đều sử dụng luật tụng của Bộ mình làm căn bản cho những sinh hoạt của Tăng đoàn.

Vấn đề ở đây là, hai mươi Bộ trong truyền thuyết, nhưng không có kinh luận của hai mươi Bộ phái lưu lại đến ngày nay. Cũng không có Luật tạng của hai mươi Bộ phái còn lưu hậu. Nếu phân tích kỹ, chưa hẳn chỉ có hai mươi Bộ phái. Và như vậy, con số hai mươi Bộ, đó chỉ là thuyết phổ thông của Phật giáo Bắc truyền.

- Phân thành Năm Bộ Luật.

Theo sự phân chia Luật tạng, thì thông thường đều cho rằng “Luật Phân Ngũ Bộ”. Truyền thuyết về “Luật Phân Ngũ Bộ”. Truyền thuyết về “Luật Phân Ngũ Bộ” cũng gồm ba loại:

1. “Ðại Tập Kinh” được truyền bởi: Ðàm Ma Cúc Ða, Tát Bà Ðế Bà, Ca Diếp Tỳ, Di Sa Tắc, Bà Tha Phú La.

2. Sư Tư của Tát Bà Ða Bộ được truyền bởi: Ðàm Vô Ðức, Ma Ha Tăng Kỳ, Di Sa Tắc, Ca Diếp (Di), Ðộc Tử.

3. “Tăng Kỳ Luật Tư Ký”, “Xá Lợi Phất Vấn Kinh”, “Ðại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi”, “Phật Bản Hạnh Tập Kinh” v.v... được truyền bởi: Ðàm Vô Ðức, Di Sa Tắc, Ca Diếp Di, Tát Bà Ða, Ma Ha Tăng Kỳ.

Trong ba truyền thuyết trên, cũng có ít nhiều sai khác, nhưng về đại thể thì giống nhau. Theo ý kiến của pháp sư Ấn Thuận, thì thuyết thứ ba là thuyết rất có nhiều khả năng cho thấy được ý của cổ nhân. Sáu bộ luật tạng hiện vẫn còn truyền, sách này đã giới thiệu ở chương ba, tiết bốn.

- Bộ phái được phân chia từ thời nào?

Nghiên cứu về việc phân chia các Bộ phái xảy ra vào thời nào truyền thuyết cũng không nhất trí. Trong số các học giả cận đại, có bác sĩ Vọng Nguyệt Tín Hạnh, viết trong cuốn “Phật Giáo Niên Ðại Biểu” của mình, ông đưa ra giả định là có bao nhiêu Bộ phái thuộc Thượng Tọa Bộ là như thế này: Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ: sau Phật diệt độ ba trăm bốn mươi lăm năm (345 - trước Công nguyên 141 năm).

- Ðộc Tử Bộ: Sau Phật diệt 385 năm (trước Công nguyên 101 năm).

- Pháp Thượng Bộ, Hiền Trụ Bộ, Chánh Lượng Bộ, kế tiếp nhau phân xuất từ Ðộc Tử Bộ, Hóa Ðịa Bộ được phân xuất từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, trong khi Pháp Tạng Bộ lại phân xuất từ Hóa Ðịa Bộ. Các Bộ trên có niên đại rất gần với Ðộc Tử Bộ.

- Ẩm Quang Bộ: Xuất hiện sau Phật Niết bàn 425 (trước Công nguyên 41 năm).

Trên đây là các Bộ phái được phân chia căn bản là từ Thượng Tọa Bộ, thuộc về thời đại vua A Dục. Những ghi chép trên là của Nam truyền đây là thời gian vua A Dục lên ngôi sau Phật nhập diệt 218 năm (trước Công nguyên 268 năm). Trên thực tế, sự phân phái của Ðại Chúng Bộ diễn ra trước Thượng Tọa Bộ một trăm năm. Nói cách khác, Thượng Tọa Bộ bị kích thích bởi tư tưởng của Ðại Chúng Bộ mới xảy ra việc phân phái. Việc phân phái của Thượng Tọa Bộ, theo luận Dị Bộ Tông Luân của Bắc truyền là sau Ðại Chúng Bộ xấp xỉ một trăm năm.

- Hai mươi Bộ Phái.

Theo ghi chép của luận Dị Bộ Tòng Lâm, thì có thảy hai mươi Bộ phái. Thịnh hành nhất trên thực tế chỉ có Ðại Chúng Bộ, Nam truyền thì có Thượng Tọa Bộ, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, Chánh Lượng Bộ, Kinh Lượng Bộ những Bộ này được truyền trên khắp lục địa Ấn Ðộ, cộng lại có năm Bộ. Trong năm Bộ này, chỉ có ba Bộ là có hệ tư tưởng đáng kể nhất, đó là Ðại Chúng Bộ, Thuyết Nhất Thiết Hữu BộKinh Lượng Bộ. Tuy vậy, nhưng hệ tư tưởng của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ có phần rời rạc, rối rắm hơn cả.

Về danh mục mà nói thì có hai mươi Bộ Phái, nhưng ở đây căn cứ theo luận Dị Bộ Tông Luân(9) để giới thiệu các Bộ như sau:

I. CHÍN BỘ THUỘC HỆ ÐẠI CHÚNG BỘ.

1. Ðại Chúng Bộ (Mahasanghikàh):

Ðây là Bộ căn bản của hệ Ðại Chúng, chữ Mahasanghikàh dịch ra âm Hán là Ma Ha Tăng Kỳ. Tư tưởng của Bộ này sẽ trình bày rõ ở tiết sau.

2. Nhất Thuyết Bộ (Ekavyàvahàrikah):

Bộ này y vào tông nghĩa được lập thành mà có tên, vì thế nên kinh Văn Thù Sở Vấn(10) gọi Bộ này là Chấp Nhất Ngữ Ngôn Bộ”. Tông Luân Luận Thuật Ký(11) của Khuy Cơ, nói chủ trương của Bộ này là “Pháp thế gianxuất thế gian đều không có thực thể, chỉ có giả danh”. Vin vào chủ trương này các học giả cận đại cho rằng “Vô Tướng Giai Không Luận” của Bát Nhã Ðại Thừa, cùng với “Chư Pháp Thực Tướng Luận” do Mã Minh, Long Thọ đề xướng có điểm nhất trí với nhau.

3. Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravàdinah):

Bộ này cũng dựa vào chỗ lập tông nghĩa mà có tên. “Thập Bát Bộ Luận” gọi Bộ này là Xuất Thế Gian Thuyết Bộ, còn “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” thì gọi Bộ này Xuất Thế Gian Ngôn Ngữ Bộ. Bộ này chủ trương pháp thế gian ấy là do điên đảo mà sinh phiền não, do phiền não sinh nghiệp, do nghiệp mà sinh quả báo, quả báo đó là khổ; pháp xuất thế gian do Ðạo mà sinh, Ðạo quả được sinh là nhờ tu đạo. Ðạo quả tức Niết bàn. Như vậy cho thấy hệ phái này đối với Tứ Thánh Ðế có sự nhận thức phê phán Khổ đếTập đế là vọng chứ chẳng thực, chỉ có Ðạo đế và Diệt đế mới là pháp chân thực. Nhận thức này đối với giả, thực, chơn, vọng của Ðại thừa còn có khoảng cách (nhân vì nhận thức này chỉ tương đối, trong khi Ðại thừa là tuyệt đối), nhưng ngài Khuy CơPháp Tạng v.v... cho rằng nhận thức như vậy là “phần thông” với giáo nghĩa Ðại thừa.

4. Kê Dẫn Bộ (Kaukkatutikah):

“Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là Khôi Sơn Trụ Bộ, trong khi “Thập Bát Bộ Luận” gọi Bộ này là Quật Cư Bộ, còn “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” dịch ra âm Hán ngữ là Cao Câu Lê Ha Bộ, và “Tông Luân Luận Thuật Ký” thì gọi Bộ này là Kiều Củ Ni Bộ. Bộ này lấy hai tạng Kinh và Luật làm phương tiện giáo, lấy Luận tạng (A Tỳ Ðạt Ma) làm chân thực giáo. Sở dĩ Bộ này chủ trương “tùy nghi phúc thân” (có ba y hay không có ba y đều do đức Phật hứa khả), “tùy nghi ẩm thực” (ăn đúng thời hay ăn phi thời cũng đều do đức Phật cho phép), và “tùy nghi trụ xứ” (kiết giới hoặc không kiết giới đều không phải do đức Phật so đo hơn thiệt). Nhưng việc cần kíp phải là sớm loại trừ phiền não, đó mới là ý của đức Phật. Sinh hoạt của Bộ phái này là không quan tâm đến giáo điều, tự do nhưng nghiêm túc, tinh tấn dụng công trong tu trì, tích cực sửa cái sai của người. Chủ trương này đương thời tại Ấn Ðộ được xác nhận là trào lưu mới có tính tiến bộ và cách mệnh. Như vậy, quả như người tu hành không tinh tấn dụng công, mà chỉ nêu cao ba điểm - Tùy nghi phúc thân - Tùy nghi ẩm thực - Tùy nghi trụ xứ, do Bộ phái này chủ trương, có lẽ Phật giáo cuối cùng sẽ bị tiêu vong!

5. Ða Văn Bộ (Bàhusrutìyàh):

“Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là “Ða Văn Ðắc Bộ” hàm nghĩa là bác học. Vị sư tổ của Bộ này là ngài La hán Tự Bì Y, tên gọi này trùng tên với nhân vật trung tâm trong Áo Nghĩa Thư, đó là Yajnõa - Valkya, có người dùng tư tưởng của Bộ này để tham khảo loại hình triết học của Áo Nghĩa Thư. Trong “Bộ Chấp Dị Luận Sớ” nói là: “Luận Thành Thực ra đời từ Bộ này, do đó, Thành Thực Luậntham dự ý thú của Ðại thừa”. Nhưng theo sự giới thiệu của “Dị Bộ Tòng Luân Luận”, thì luận này không phát hiện thấy có áo nghĩa Ðại thừa nào trong Bộ phái này.

6. Thuyết Giả Bộ (Prajnõaptìvàdinàh):

Không tìm thấy tên của Bộ này trong “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” (Kathavatthu Datthakatha) do ngài Phật Âm (Buddhagghsa - còn dịch là Giáo Âm) trước tác cũng không thấy đề cập đến tên của Bộ này. “Thập Bát Bộ Luận”(12) gọi Bộ này là Thi Thiết Luận Bộ. Còn “Bộ Chấp Dị Luận”, thì gọi Bộ này với tên Phân Biệt Thuyết Bộ, hoặc Phân Biệt Bộ. Ðây là Bộ lấy luận Thi Thiết Túc làm trung tâm tư tưởng. Ðối với “pháp” của “hiện tại”, Bộ này cho rằng hiện thực thế giới một mặt là “giả”, nhưng mặt khác lại là “chân”, tư tưởng chân và giả này đến thời của “Ðại Thừa Khởi Tín Luận” nó trở thành thế giới quan chơn vọng lưỡng diện của Ðại thừa. “Duy Thức Thuật Ký” của Khuy Cơ thì cho rằng: “Nay Thuyết Giả Bộ, nói về “Hữu phần thức”, thể của nó thường hằng bất đoạn, chu biến khắp tam giới, làm nhân cho tam hữu”. Quả như Bộ này thực sự có nói đến “Hữu phần thức”, và như vậy có thể nói tư tưởng về A Lại Da thức của Ðại thừa được triển khai là từ “Hữu phần thức” này đây.

7. Chế Ða Sơn Bộ (Caitysailàh).

8. Bắc Sơn Trụ Bộ (Uttarasailàh).

9. Tây Sơn Trụ Bộ (Aprasailàh).

Ba bộ (7, 8, 9) này được phân xuất từ Ðại Chúng Bộ vào thời kỳ sau cùng. Theo Tông Luân Luận Thuật Ký, thì sau Phật nhập diệt tròn hai trăm năm, có ngoại đạo tên là Ðại Thiên xin xuất gia với Ðại Chúng Bộ, và rồi ông này cùng với tăng thân của Ðại Chúng Bộ một lần nữa lại nói về Ngũ Sự. Nhân đó gây nên cuộc tranh luận trái nghịch nhau đưa đến việc phân chia thành ba Bộ. Vì lập lại vấn đề Ngũ Sự mà đi đến phân chia, nhưng sau việc này Ðại Thiên liền về phương nam hoằng hóa trong vòng mười năm, các học giả Ðại Chúng Bộ vin vào “Ðại Thiên Ngũ Sự” mà tranh luận nên có khả năng vì tư tưởng và trụ xứ bị cách ly, nhân đấy mới phân chia thành một số Bộ phái. Theo Bộ Chấp Dị Luận, phân chia lần này thành hai Bộ là Chi Ðề Sơn (tức Chế Ða Sơn) Bộ và Bắc Sơn Trụ Bộ. Trong khi Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh thì cho rằng lần phân chia này được chia thành hai Bộ là Ðông Sơn Bộ và Bắc Sơn Bộ. Còn ngài Phật Âm viết trong bộ “Luận Sự Chú”, thì lần phân chia này chia thành bốn Bộ là: Ðông Sơn Bộ, Tây Sơn Bộ, Vương Sơn Bộ và Nghĩa Thành Sơn Bộ, tất cả đều thuộc về Án Ðạt La phái. Ngài Huyền Trang viết trong Ðại Ðường Tây Vực Ký là ở núi phía đông và núi phía tây của thành lớn Án Ðạt La có hai ngôi cổ tự xưa kia thuộc về Ðại Chúng Bộ.

Vậy Án Ðạt La là xứ nào? Vấn đề này cần khảo sát về vị trí núi Chi Ðề “Quốc Dịch Ðại Tạng Kinh” của Nhật Bản, quyển ba ở phần luận Bộ có phụ đính chép: Án Ðạt La nằm tại ranh giới giữa sông Cát Tư Ðặt Na (Kistna R) của thành phố Biệt Khắc Sĩ Vi Ðà (Bexvada) nhìn qua núi Chi Ðề. Xứ Án Ðạt La ở đây là chỉ sông Ca Ðạt Nghĩa Lý (Godavari R) thuộc nam Ấn Ðộ, nó bao quát cả địa khu phía bắc sông Cát Tự Ðặt Na. Tại đây người dân địa phương đã có nền văn hóatín ngưỡng mang tính đặc thù, Phật giáo Ðại Chúng Bộ bị huân nhiễm nền văn hóa, tín ngưỡng của dân địa phương nên lại phân chia lần nữa, rất có khả năng như vậy. Dạ Xoa La Sát của phái Thấp Bà thuộc Bà La Môn giáo, đều là sản vật của dân tộc ở nam Ấn Ðộ. Trong các tượng thần của phái Thấp Bà có cảnh phu thê ôm nhau giao hợp, và mãi tận ngày nay Ấn Ðộ giáo vẫn còn sùng bái cơ quan sinh dục của kẻ nam người nữ. Ðến Mật giáo Ðại thừa mới xuất hiện tình hình lấy chuyện nam nữ tính giao làm pháp môn tu trì. Sau này phái Án Ðạt La của Ðại Chúng Bộ “tan biến” vào Ðại thừa Phật giáo. Sự xuất hiện của Ðại thừa trong thời sơ kỳ là tại nam Ấn Ðộ. Mật giáo Ðại thừa cũng nói là do “Khai nam thiên trúc thiết tháp” mà có.

II. MƯỜI MỘT BỘ THUỘC THƯỢNG TỌA BỘ.

Sự phân phái sớm nhất của Thượng Tọa Bộ, đó là sự ra đời của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Về lý thuyết thì Thượng Tọa Bộ là Bộ căn bản, nhưng vì kiến giải bất đồng nên Hữu Bộ mới ly khai khỏi cựu xứ, chuyển đến dưới chân núi Tuyết, thành lập Tuyết Sơn Bộ, vì thế, liên kết Tuyết Sơn Bộ với mười một Bộ của Thượng Tọa Bộ mới đủ danh mục mười hai Bộ, xin giới thiệu mười một Bộ có tư liệu như sau:

1. Tuyết Sơn Bộ (Haimavatàh):

“Thập Bát Bộ Luận”(12) gọi Bộ này là “Tiên Thượng Tọa Bộ”, trong khi “Bộ Chấp Dị Luận” thì gọi Bộ này là “Thượng Tọa Ðệ Tử Bộ” còn “Dị Bộ Tông Luân Luận” gọi Bộ này với tên “Bản Thượng Tọa Bộ”. Tông nghĩa của Tuyết Sơn Bộ đa phần tương phản với Nhất Thiết Hữu Bộ, nhưng lại tiếp cận và nghiêng về Ðại Chúng Bộ, quan tâm đến Ðại Thiên Ngũ Sự, tức theo như cách của Ðại Chúng Bộ. Lại nữa, Bộ này chủ trương không có “trung hữu” nên cùng nhất trí với Ðại Chúng Bộ; Nhất Thiết Hữu Bộ tin là hữu tình chúng sinh ở cõi “dục sắc” giới nhất định có “trung hữu”. Nhân chủ trương như vừa nêu, nên Ðại Sử được truyền bởi Ðại Chúng Bộ và Phân Biệt Thuyết Bộ, cho rằng Tuyết Sơn BộBộ phái sau cùng của Ðại Chúng Bộ. Theo pháp sư Ấn Thuận thì nên liệt Tuyết Sơn Bộ vào Hữu Bộ.

2. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvàstivàdàh):

Ðây là Bộ mà hệ tư tưởng rất nghiêm chỉnhquảng bác. Xin giới thiệu Bộ này ở một tiết riêng.

3. Ðộc Tử Bộ (Vàsìpurìyàh):

“Dị Chấp Bộ Luận” gọi Bộ này là “Khả Trú Ðệ Tử Bộ”, trong khi Duy Thức Thuật Ký” gọi Bộ bày với tên “Bá Thư Tử Bộ”. Ðây là Bộ kế thừa tư tưởng “Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm”, tuy tư tưởng trong “Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm” còn có chỗ cần bổ sung thêm mới giải thích được, và cũng do sở kiến bất đồng nên lại phân chia. Ðộc Tử Bộ dù được phân xuất từ Thượng Tọa Bộ, nhưng chịu ảnh hưởng rất đậm giáo nghĩa của Ðại Chúng Bộ, do vậy nên có một số học giả cho rằng ngài Xá Lợi Phất là người có tư tưởng Ðại thừa; lại cũng do Ðộc Tử Bộ lấy “Như Lai nhất đại giáo pháp” (một đời thuyết giảng giáo pháp của đức Phật) chia làm năm tạng, đó là: Quá khứ, hiện tại, vị lai (cả ba đều là pháp hữu vi), vô vi (vô vi pháp), và bất khả thuyết (tức chỉ cái Ngã phi thức phi ly uẩn), “Bất khả thuyết tạng” trong năm tạng vừa nêu của Ðộc Tử Bộ, nó phảng phất giống “Như Lai Tạng” của Ðại thừa. Ðộc Tử Bộ lấy “Bất khả thuyết tạng” - tức phi tức phi ly uẩn ngã(13) - làm trung tâm của bản thể luận nhằm bác bỏ “tức uẩn ngã” của phàm phu, và “ly uẩn ngã” làm bản thể của các pháp. Nhân đấy, mà chỉ riêng “bất khả thuyết tạng” của Ðộc Tử Bộtương tự tư tưởng A Lại Da thức của Ðại thừa. Nhưng Bộ này lại cho rằng có một “cái ngã” làm bản thể cho tất cả các pháp. Do vậy, trong Hoa Nghiêm Huyền Ðàm quyển tám, quốc sư Thanh Lương bình rằng: “phụ Phật pháp ngoại đạo” (ngoại đạo nương Phật pháp). Kỳ thực thì tư tưởng “phi tức phi ly uẩn ngã” vẫn chưa bắt kịp lĩnh vực Như Lai TạngA Lại Da thức, nó chỉ tiên phong mở đường cho tư tưởng Duy thức của Ðại thừa mà thôi.

4. Pháp Thượng Bộ (Dharmottarìyàh):

“Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh: Gọi Bộ này là Pháp Thắng Bộ. Còn “Thập Bát Bộ Luận” thì dịch tên Bộ này ra âm Hán ngữ là Ðạt Ma Uất Ða Lê Bộ.

5. Hiền Trụ Bộ (Bhadrayànìyàh):

“Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này với tên là Hiền Bộ. Còn “Thập Bát Bộ Luận” thì dịch Bộ này ra âm Hán ngữ là Bạt Ða La Da Ni Bộ, và “Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là Hiền Thừa Bộ.

6. Chánh Lượng Bộ (Sammitiyàh):

Bộ phái này rất thịnh hành trong số bốn Bộ phái được lưu xuất từ Ðộc Tử Bộ. “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này là Nhất Thiết Sở Quí Bộ. “Thập Bát Bộ Luận” thì dịch âm là Tam Di Ðể Bộ, và “Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là Chánh Lượng Ðệ Tử Bộ. Trong “Tông Luân Luận Thuật Ký: ngài Khuy Cơ nói là: “Chỗ lập tông của Bộ này với pháp nghĩa thậm thâm, sửa mọi sai sót không cho cong queo, nên xưng là Chánh Lượng, dựa vào chỗ lập pháp nghĩa, lấy đó làm sáng danh của Bộ”.

Năm 432 sau Công nguyên, ngài Phật Âm từ Ấn Ðộ đến Tích Lan để tuyển soạn bộ Luận Sự Chú bằng văn tự Ba Lị, thì thấy Chánh Lượng Bộ đã lưu hành tại Tích Lan. Ðại Ðường Tây Vực Ký của Huyền Trang cũng cho biết khi ông đến lưu học tại Ấn Ðộ(14), thì thời ấy Chánh Lượng Bộ vẫn còn lưu hànhtrung Ấn, nam Ấn và tây Ấn, đông Ấn cũng có nhưng không thịnh bằng ba khu vực kia. Ít lâu sau, trong Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện của Nghĩa Tịnh(15) cũng có nói đến việc Chánh Lượng Bộ vẫn còn Tam tạng với ba mươi vạn bài tụng, và thêm rằng thời ấy Chánh Lượng Bộ lưu hành rất thịnh ở các địa phương như La Ðồ, Tín Ðộ, thuộc tây Ấn Ðộ. Tại Ma Kiệt Ðà và các châu nam hải cũng còn một bộ phận nhỏ của Chánh Lượng truyền tại đấy. Ðáng tiếc là tư liệu hiện còn nói về mối liên hệ giữa bốn Bộ thuộc Ðộc Tử Bộ là quá ít. Không rõ ai là người biên soạn giáo nghĩa của Chánh Lượng Bộ, và ai đã dịch "Tam Di Ðể Bộ Luận”(16) - gồm ba quyển ra Hán văn. Chánh Lượng Bộ cũng luận về hữu ngã, và tương đồng với Ðộc Tử Bộ. Chỉ có điều Chánh Lượng Bộ là phái cuối cùng nối tiếp tư tưởng của Ðại Chúng Bộ. Ðó là lấy tư tưởng về “sắc pháp tạm trụ” như đại địa, mạng căn v.v... rồi có thêm sự phân tích, đem sinh diệt quan về sắc pháp chia thành hai loại:

1. Tâm tâm sở, thanh quang v.v... cho vào loại sát na diệt;

2. Thân biểu sắc nghiệp, bất tương ưng hành, thân sơn tân, v.v... cho vào loại nhất kỳ diệt. “Sinh diệt quan” về sắc pháp của Chánh Lượng Bộ nếu sánh với triết học tây phương, thì “sinh diệt quan” tựa giống như “thực chứng luận hiện thực” hoặc “Kinh nghiệm luận”.

7. Mật Lâm Sơn Bộ (Sannàgarihàh):

“Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này là Nãi Sơn Bộ, Thập Bát Bộ Luận(17) là Lục Thành Bộ, và Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này với tên là Mật Lâm Trụ Bộ.

Pháp Thượng, Hiền Trụ, Chánh Lượng, Mật Lâm Sơn Bộ, tư liệu về bốn Bộ này hiện còn rất ít và thiếu. Dị Bộ Tông Luân Luận cho rằng, đối với một bài kệ mà cả bốn bộ vừa nêu có sự giải thích không đồng nhất, đó là lúc Ðộc Tử Bộ đã phân thành bốn Bộ, bài kệ như thế này: “Ðã giải thoát mà vẫn đọa, đọa ấy là do quay lại tham, ai được vui an vui, tùy an vui đạt đến cực vui”. (Dĩ giải thoát cánh đọa, đọa do tham phục hoàn, hoạch an hỷ sở lạc, tùy lạc hành chí lạc). Ðể hiểu việc giải thích bài kệ trên một cách khác nhau, xin tham khảo Tông Luân Luận Thuật Ký(18). Tuy nhiên, giáo nghĩa của Ðộc Tử Bộ hiện còn cũng không thấy có bài tụng vừa nêu. Ngay cả “Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm” cũng không thấy có bài tụng trên.

8. Hóa Ðịa Bộ (Mahìsàsakàh):

Ðây là Bộ truyền “Tứ phần luật” của Di Sa Tắc Bộ. Dị Bộ Tông Luân Luận của Bắc truyền cho rằng Hóa Ðịa Bộ được phân xuất từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Còn “Ðại Sử” của Nam truyền thì cho rằng, Hóa Ðịa Bộ là một hệ của Phân Biệt Thuyết thuộc Thượng Tọa Bộ. Hệ này cùng với Ẩm Quang Bộ, Pháp Tạng Bộ và Ðồng Diệp Bộ, cả ba đều cùng một hệ. “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này là Ðại Bất Khả Khí Bộ, và Thập Bát Bộ Luận thì gọi Bộ này với tên Di Sa Bộ, trong khi Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này Chánh Ðịa Bộ. Ngoài ra Hóa Ðịa Bộ còn có các tên khác như: Giáo Ðịa, Di Hi Xá Bà Ấp, Ma Hê Xa Ba Ca, Di Hi Xã Bà Ha, tất cả danh xưng này được dùng để chỉ cho Chánh Ðịa Bộ. “Xuất Tam Tạng Ký Tập” quyển ba(19) nói: “Các vị đệ tử Phật thọ trì mười hai bộ kinh nhưng không quan tâm xem đó là địa tướng, thủy tướng, hỏa tướng, phong tướng, hư không tướng hay thức tướng, vì vậy cho nên gọi là Di Sa Tắc Bộ. Tư tưởng của Bộ Di Sa Tắc đồng nghĩa với tông gốc là Thượng Tọa Bộ; nhưng hơi giống với Ðại Chúng Bộ, tông sau rốt thì hoàn toàn dị nghĩa với Thượng Tọa Bộ, vì nó kế thừa Nhất Thiết Hữu Bộ. Theo Thành Duy Thức Luận quyển ba nói là, “Cùng sinh tử uẩn thức” của Hóa Ðịa Bộ tương đương với thức A Lại Da thứ tám. Còn Vô Tánh Nhiếp Luận quyển hai lại nói, Hóa Ðịa Bộ nói có ba uẩn:

1. Nhất niệm khoảnh uẩn (pháp sinh diệt xảy ra trong từng sát na).

2. Nhất kỳ sinh uẩn (pháp hằng tùy chuyển ngay cả khi chết).

3. Cùng sinh tử uẩn (pháp hằng tùy chuyển ngay cả lúc nhập vào định Kim Cang Dụ). Nhờ đó mới biết Cùng sinh tử uẩn thức nó tương tợ như thức thứ tám A Lại Da của Ðại thừa. Bản thể luận của Bộ này lập ra thuyết Chín vô vi. Chín vô vi là nhờ tiếp thụ tư tưởng chín vô vi của Ðại Chúng Bộ soi rọi mà lập thành. Trong chín vô viThiện pháp chân như vô vi, Bát thiện pháp chân như vô vi, và Vô ký pháp chân vô vi, là khác với Ðại Chúng Bộ; tư tưởng thiện, bất thiện, vô ký, ba tính chân như này tương tợ tư tưởng Nhất thiết như như của Ðại thừa; ba tính chân như này cộng với Bất động vô vi là bốn khoảnh đều khác nhau với Ðại Chúng Bộ. Biết rằng do sự quá độ của Ðại Chúng Bộ mới tiến đến Duy thức Ðại thừa. Nó làm cầu nối để chỉnh lý tư tưởng về sáu thứ vô vi. Dị Bộ Tông Luân Luận(20) cho rằng, Hóa Ðịa Bộ chủ trương: “Phật với hàng nhị thừa, giai đồng nhất đạo, đồng nhất giải thoát”. Chữ “đồng” ở đây có ý tợ như thuyết bản thể chân trívô sai biệt. Hóa Ðịa Bộ còn có chủ trương: “trong tăng có Phật, cho nên cúng tăng cũng có kết quả lớn, không phải cúng Phật nào khác”. Ðến tông sau rốt của Bộ này lại cho rằng cúng dường Tốt Ðổ Ba (Phật tháp), công đức đạt được rất ít. Ðiều này khiến không thể không nghĩ đến Hóa Ðịa Bộ đã có tư tưởng tiền thân của Ðại thừa khi cho rằng “chúng ta tức là Phật” (con người đều có thể là nhân địa của Phật).

9. Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptàh)

Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh gọi Bộ này là Pháp Hộ Bộ, Thập Bát Bộ Luận thì dịch tên bộ này ra âm Hán ngữ là Ðàm Vô Ðức Bộ, Tam Luận Huyền Ngãi của Gia Tường thì lấy Pháp Hộ làm tên người, vì Pháp Hộđệ tử của Mục Liên. Mục Liên ở đây không phải là ngài đại Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất vào thời đức Phật còn tại thế, mà là ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu sống dưới thời vua A Dục. Ngài là người được truyền xưng là vị chủ trì cho lần kết tập thứ ba. Ưu Bà Quật Ða (Upagupta) của Bắc truyền cũng là vị này, và Ðàm Vô Ðức là đệ tử của Upuguta. Theo Tông Luân Luận Thuật Ký và Nghĩa Lâm - Chương của Khuy Cơ, thì Bộ này có “Ngũ tạng thuyết” là: Kinh, Luật, Ðối pháp (A Tỳ Ðạt Ma), Minh Chú, Bồ tát; Bồ tát tạng của Pháp Tạng Bộ là lấy Tạp Tạng của Ðại Chúng Bộ mà cải biên thành. Kỳ dư bốn tạng còn lại đa phần giống Ðại Chúng Bộ. Pháp Hộ Bộ trọng Minh Chú tạng (Mantra) và Bồ tát tạng (Bodhisattva Pitaka), đặc biệt điều đó mở ra manh mối của Ðại thừa Mật giáo sau này. Nhật Bản đông mật cho rằng Ðạt Ma Cúc Ða là biệt danh của Long Trí Bồ tát; nhưng với Phạn ngữ, thị Ðạt Ma Cúc Ða cùng Pháp Tạng Bộ Chủ Dharma Gupta (Pháp Tạng) là tương đồng. Mật tông của ngài Long Trí, hoặc chẳng phải đó là Pháp Tạng Bộ Chủ, nhưng cũng không phải là không có ngọn nguồn. Tứ Phần Luật của bản Hán dịch được lưu xuất từ Bộ này. Pháp Tạng Bộ thừa kếhấp thụ tư tưởng của Ðại Chúng Bộ rất nhiều. Cũng vì thế mà “Thông Lộ Ký” của Nhật Bản, ngang nhiên đưa pháp Tạng Bộ vào thành một hệ của Ðại Chúng Bộ. Suy cứu tường tận, thì Pháp Tạng Bộ thuộc hệ Phân Biệt Thuyết của Thượng Tọa Bộ.

10. Ẩm Quang Bộ (Kàsyapìyàh):

Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh gọi Bộ này là Ca Diếp Tỉ Bộ, còn Thập Bát Bộ Luận thì gọi Bộ này với tên là Ưu Lê Sa Bộ, trong khi Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này là Thiện Tạng Bộ, hoăc Ẩm Quang Ðệ Tử Bộ. Ngoài ra Bộ này còn có các tên gọi như: Ca Diếp Duy Bộ, Ca Diếp Di Bộ v.v... Tóm lại, đấy là lấy tên của Bộ chủ để đặt tên Bộ. Theo “Quốc Dịch Ðại Tạng Kinh” của Nhật Bản, luận bộ thứ năm mươi hai viết về lịch sử phân phái và lịch sử kết tập, thì Ẩm Quang Bộ có khả năng do ngài Ca Diếp Duy dưới thời vua A Dục được phái đến địa phương Tuyết Sơn để hoằng hóa, nhân đó mà hưng khởi thành một phái. Pháp sư Ấn Thuận viết trong cuốn “Phật giáo Ấn Ðộ”, ở chương sáu, tiết ba, trang 118, nói là Ẩm Quang Bộ, Hóa Ðịa Bộ, Pháp Tạng Bộ, lúc hành hóa tại lục địa Ấn Ðộ, đối với Thánh điển các Bộ này có nhiều “cải tác”. Các Bộ vừa nêu cùng với Ða Văn Bộ, Thuyết Giả Bộ của Ðại Chúng Bộ có cùng tác phong; hoặc các bộ này có dung nạp yếu tố Vệ Ðà rồi tôn lên và cho là do Phật thuyết; hoặc là các Bộ trên suy ngưỡng ngài Ðại Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất ở thời đức Phật còn tại thế, rồi lấy ngài làm chứng thực cho tính khả tín của Minh chú của Bộ phái mình, hoặc các Bộ trên làm vậy (tức cải tác) là nhằm để phá ngoại đạo, và để tranh luận trong nội bộ nên có sự tuyển tập riêng.

11. Kinh Lượng Bộ (Sautràntikàh):

Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này là Thuyết Ðộ Bộ, hoặc Thuyết Kinh Bộ, còn Thập Bát Bộ Luận gọi Bộ này là Tăng Ca Lan Ða, hoặc Tu Ða La Luận, trong khi Chánh Lượng Bộ thì truyền xưng Bộ này là Sư Trưởng Bộ, duy có điều trong truyền bá, các Bộ đều cho rằng Kinh Lượng Bộ được phân xuất từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, Thuyết Bộ Ðộ tên tiếng Phạn là Saimkhantika (Chuyển di) và Vàda (có nghĩa là thuyết). Do đó, nên Ðại Sử của Nam truyền cho rằng Kinh Lượng Bộ được lưu xuất từ Thuyết Chuyển Bộ. Thực thì Thuyết Kinh hay Thuyết Chuyển là hai cách gọi mang tính bản mạt (gốc - ngọn) của Kinh Lượng Bộ. Kinh Lượng Bộ được lưu xuất từ Hữu Bộ, nhưng chịu ảnh hưởng của Ðại Chúng Bộ, do đó, đối với tư tưởng Hữu Bộ, Kinh Lượng Bộlập trường phê phán và tham cứu.

Sau này tư tưởng Duy thức của Ðại thừa phần nhiều được lưu xuất từ Kinh Bộ. Chẳng hạn như thuyết tâm sắc hổ huân của chủng tử, theo Kinh Lượng Bộ, vì là “chủng tử tằng phú”(21) nên phải nói ba đời. “Ðạo lý ba đời” của Duy thức tuy đọc thấy trong Luận Du Già Sư Ðịa quyển 51(22), nhưng luận sư Cưu Ma La Cúc Ða của Kinh Lượng Bộ đã là tiên triệu của tư tưởng này. Lại nữa, như thuyết “Tế Ý Thức của Kinh Lượng Bộ cho rằng “Diệt định tế tâm bất diệt” (nhập vào định diệt tận nhưng tế tâm không diệt). “Chấp vô tưởng định tế t tâm bất diệt”. Ðấy chính là tư tưởng tiền thân của căn bản thức thứ tám là A Lại Da thức. Mặc dù vậy, nhưng Kinh Lượng Bộ vẫn thuộc về hệ Tiểu thừa. Thuyết sắc tâm hỗ huân của Kinh Lượng Bộ thuộc nhị nguyên luận, trong khi Duy thức gia chủ trương (vạn pháp bất ly thức) (vạn pháp không thể không liên hệ đến thức), và đây là nhất nguyên luận. Do “tế tâm thức” của Cưu Ma La Cúc Ða mới tiến đến thắng nghĩa ngã (thắng nghĩa ngã bổ đặc già la) của Thất Lợi La Ða. “Chân thực ngã” vi tế và không thể thi thiết được tướng trạng của nó. Ðại khái, có thể hiểu tế tâm thức, thắng nghĩa ngã cũng là chấp ngã chấp pháp. Vì vậy Kinh Lượng Bộ vẫn là Tiểu thừa. Nhưng cũng nhờ đó mà tiến thêm một bước, đó là thuộc tướng vô ngã của Ðại thừa. Cho nên “thắng nghĩa ngã” có cái nghĩa là thường trụ bất biến. Ðấy là tư tưởng tiền thân của “chơn thường duy tâm” của Ðại thừa.



(1) Cả hai bộ luận này là cùng một bản, nhưng bản dịch lại khác nhau.

(2) Ðại Chánh tạng-49, đầu trang 15.

(3) Vị: tức vị ngọt, vị đắng - ở đây là vị giải thoát.

(4) Ðại Chánh tạng-49, giữa trang 17 đến cuối trang 19.

(5) Ðại Chánh tạng-49, đầu trang 20 đến cuối trang 22.

(6) Nhà Tần, nhà Trần chỉ thời Ngũ đại ỏ Tung Quốc.

(7) Ðại Chánh tạng-49, đầu trang 15 đến giữa trang 17.

(8) Ðại Chánh tạng-49, đầu trang 15 đến giữa trang 17.

(9) Ðại Chánh tạng-49, giữa trang 15.

(10) Ðại Chánh tạng-14, giữa trang 501

(11) Tục tạng - 83, trang 437.

(12) Ðại Chánh tạng-49, đầu trang 18.

(12) Ðại Chánh tạng-49, trang 18.

(13) Ngã chẳng phải là uẩn, cũng chẳng phải ly khai uẩn.

(14) Năm Trịnh Quán thứ ba đến năm 19 - đời Ðường Thái Tông. Tây lịch từ 629 - 945.

(15) Ðại Chánh tạng-54, trang 205.

(16) Ðại Chánh tạng-32, trang 462-473.

(17) Ðại Chánh Tạng-49, trang 18.

(18) Tục tạng 83, trang 461.

(19) Ðại Chánh Tạng-55, đầu trang 21.

(20) Ðại Chánh Tạng-49, đầu trang 17.

(21) Chủng tử đời quá khứ cu sinh đến hiện tại, và lưu chuyển đến vị lai.

(22) Ðại Chánh tạng-30, trang 579-584.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34219)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16804)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22837)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 12979)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21839)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22057)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14820)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23433)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 23981)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23519)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17065)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19278)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 26912)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14337)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13788)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14668)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17281)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12594)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13771)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10335)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14609)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17134)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12471)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12635)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10301)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28626)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10636)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11066)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16824)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15717)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13289)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12505)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11275)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 12963)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19241)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12183)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28466)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 9999)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21407)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12750)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17771)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26066)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11643)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10797)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22640)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 11981)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10560)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11341)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11479)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant