Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Lịch sử, ý nghĩa của chuông trống Bát Nhã

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12291)
09. Lịch sử, ý nghĩa của chuông trống Bát Nhã

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA CHUÔNG TRỐNG BÁT NHÃ

Chuông trống là một trong các loại pháp khí của Phật giáo. Sở dĩ gọi là Bát Nhã (phiên âm của chữ “prajin-aa” (Sankrit) có nghĩa là “Trí tuệ” vì công năng của chúng là để thức tỉnh lòng người, có khả năng đánh động tâm linh của người nghe. Chuông trống Bát Nhã là danh từ chung để chỉ đại hồng chung (chuông, trống rất lớn) thường được đăït 2 bên trái phải của chánh điện. Nhiều chùa còn xây tháp an trí chuông và trống, nên nơi đăït chuông trống là “lầu chuông trống”.

I.- Nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng chuông:

Nhiều nguồn tài liệu khác nhau đềâu cho rằng quá trình đưa chuông vào tự việnđược xử dụng rộng rãi trong các tự viện, chùa chiền ở Trung Quốc vào thời kỳ nào không được xác định. Tuy nhiên, như sử liệu ghi lại chuông đã được sử dụng vào đời nhà Chu (557 trước TL-89 TL). Phật giáo Trung Hoa đã đưa chuông và trống vào các tự viện năm nào và do ai đề xướng, hiện nay chúng tôi chưa tìm ra tài liệu. Tài liệu của chuông và trống Bát Nhã thực là quí hiếm. Tuy nhiên, chúng tôi dựa vào một số tài liệu dưới đây để truy tìm nguồn gốc của chúng.

Cuốn Quảng Hoằng Minh Tập (số 2103) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ghi rằng vào thời lục triều (420-479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hòa thứ 5 (566) đời Bắc Châu, bài Nhị Giáo Chung Minh được khắc trên ba đại hồng chung lớn nhất thời bấy giờ. Hai trong ba cái nầy được đúc vào năm 570 và 665 Tây Lịch.

Tục Cao Tăng Truyện có ghi năm thứ 5 đời Tuỳ Đại Nghiệp (609), Ngài Trí Hưng nhận lo việc chuông tại chùa Thiền Định ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian này và trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các tự viện.

Lại nữa, theo truyền thuyết cho rằng hồng chung là do Hòa Thượng Chí Công khởi xướng và vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ 6) thực hiện để cầu nguyện cho các thần thức bị đọa trong chốn địa ngục mà người Hoa gọi là trong chốn U-Minh. Có hai loại chuông thường được sử dụng trong các chùa chiền, tự viện như sau:

1.- Phạn Chung (Chuông phạn): Cũng gọi là “đại chung” “hồng chung” “hoa chung” hoặc “cự chung”. Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt, thông thường chuông cao khoảng 1,5m, đường kính khoảng 6 tấc. Loại này treo trong lầu chuông, mục đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt mình thường dùng từ “đại hồng chung”, chỉ cho loại chuông thật to, gần như không còn có qui định cụ thể là rộng hẹp bao nhiêu nữa. Chuông này còn gọi là chuông U-Minh.

2.- Bán chung (chuông bán): Vì chiều kích chỉ lớn bằng một nửa ½ chuông phạn, nên gọi là bán chung, còn được gọi là “hoán chung” hoặc “tiểu chung “Chuông này thường được đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại một góc trong chánh điệnđược xử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác là hành lễ chung”. Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay cũng linh động chế tạo nhiều loại chuông dạng “bán chung” này, nhưng cũng không có kích thước cố định.

Về thỉnh chuông, xưa ở Trung quốc tuỳ mỗi Tông phái, từng địa phương và qui định có khác nhau, nhưng tổng quát là khi bắt đầu thỉnh ba tiếng và khi kết thúc đánh nhanh 2 tiếng hoặc 3 hồi 9 tiếng cho các loại chuông nhỏ khi tụng kinh. Số lượng tiếng thường là 18, cũng có khi thỉnh 36 tiếng, 108 tiếng. Thỉnh 108 tiếng biểu thị hành giả nỗ lực làm vơi cạn đi 108 loại phiền não nơi nội tâm. Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức.

Ngoài ra trong thời cực thịnh của Thiền Tông, chuông an trí tại thiền đường, trai đường gọi là “chuông Tăng đường” “chuông trai” chuông để tại chánh điện gọi là “chuông điện”... Những vị lo việc chuông này gọi là “chung đầu”.

Theo niềm tin cho rằng tiếng vang của chuông có thể thấu đến cõi địa ngục u ám, chúng sanh nào bị đọa nơi địa ngục nhờ nghe tiếng chuông này liền được giải thoát. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của chùa có thể giúp cho loài quỉ đói được nhẹ bớt lòng tham lam, sân hậngiải thoát khỏi kiếp ngạ quỉ. Ở các ngôi chùa Việt Nam hiện nay cũng như các ngôi chùa Trung Quốc thời xưa hoặc các chùa thuộc các nước theo Phật Giáo Đại Thừa như Nhật Bản, Triều Tiên... thường có quả chuông lớn để thỉnh vào hai buổi sáng tối trong ngày khi cầu nguyện. Giờ thỉnh chuông buổi sáng lúc 4 giờ, hoặc trước thời công phu buổi sáng, tuỳ theo qui định của mỗi chùa. Người thỉnh chuông vừa đánh chuông vừa đọc bài kệ:

Nguyện thử chung thỉnh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn.

Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,

Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác.

Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới, thiết vi u ám cùng nghe được, căn cảnh thanh tịnh chứng viên thông, hết thẩy chúng sanh thành chánh giác. (Bản dịch của Hòa Thượng Trí Quang, LUẬT SA DI, SA DI NI, Phật học viện quốc tế xuất bản, 1989).

Dịch thơ: 

Nguyện tiếng chuông vang rền pháp giới,
Chúng sanh ngục Sắt thẩy đều nghe

Tiếng đời sạch, chứng được viên thông

Tất cả muôn loài đều giác ngộ

(Thích Nhựt Từ dịch)

Tiếng chuông nguyện vang rền các cõi
Núi Thiết Vi tăm tối nghe hay

Âm thanh đời lắng sạch thay

Chúng sanh giác ngộ, tỏ bày an nhiên.

 (Thích Nhật Từ dịch)

II.- Nguồn gốc và ý nghĩa của trống: 

Ai đã đưa trống vào tự viện? Năm nào? Chúng tôi chưa tìm ra tài liệu để đưa ra một giả thuyết khả dĩ. Tuy nhiên, dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại ĐiênHàn Dũ thời Đường Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ Phật Giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được là trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí.

Ngày nay, có một vài nghi thức tán tụng ở miền Trung và miền Nam sử dụng trống nhỏ để hỗ trợ cho quí Thầy khi tán tụng. Các loại nghi thức tán tụng này có lẽ là đặc thù của Việt Nam, vì không hề tìm thấy tài liệu nào liên quan đến cách sử dụng trống nhỏ (trống cơm) trong văn học hoặc tán tụng của Trung quốc.

III.- Nguồn gốc và ý nghĩa của mõ:

Theo sách Tam Tài Đồ Hội của Vương Tích đời Minh có đoạn: “Mõ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật tử khi tán tụng đều dùng đến nó.”

Mõ có 2 loại:

Loại hình con cá dài thẳng treo ở nhà kho, nhà ăn... khi đến thời dùng cơm cháo thì gõ nó để báo hiệu. Loại mõ này chỉ dùng trong các chùa cổ Trung Quốc; các chùa chiền, tự việnViệt Nam không dùng.

Loại hình con cá có vây cuộn tròn, khi tụng kinh thì gõ. Loại này cả Trung Quốc, Việt Nam, Nhật BảnTriều Tiên đều dùng. Loại mõ này được nói là xuất hiện thuộc triều đại nhà Minh Trung Hoa. Theo sách tham thiền Ngũ Đài Sơn Ký (quyển 3), Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5, ngày mồng 8 tháng 8 ghi:

Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng Ngài Phó Đại Sĩ. Mỗi khi ngài muốn gặp các vị tu hạnh đầu-đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị sau khi nghe tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ ở dưới chân núi đều dùng mõ để tập họp đại chúng. Lại có người cho rằng mõ là do Sa-Môn Chí Lâm đời Đường tạo ra, nhưng điều này cũng không lấy gì làm chắc, vì không có sử liệu rõ ràng. Sách Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Qui (quyển hạ, phần pháp khí) có ghi lại truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản Thầy, hủy pháp mà bị đọa làm thân cá, trên lưng con cá ấy lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng to gió lớn, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng.

Một lần nọ, vị Thầy Bổn Sư qua biển, nhân đó nó muốn đòi nợ liền nói rằng: Thầy không dậy bảo nó nên nó mới phải đọa làm thân cá như thế này. Do đó nay nó muốn báo oán, thế nên vị thầy ấy bảo cá nên ăn năn sám hối. Thầy ấy cũng vì con cá mà cầu siêu chú nguyện và ngay đêm ấy nó được hóa kiếp. Vị Thầy Bổn Sư liền đem cây ấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh tỉnh đại chúng. Có thể vì lý do này các mõ tròn, sau này cũng thường hay khắc hình con cá trên mõ để cảnh tỉnh đại chúng.

Theo sách Thích Thị Yếu Lãm ghi rằng: Chuông khánh, bảng đá, bảng gỗ, mõ đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tập họp nên các loại đó đều gọi là “kiền chùy”. Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Qui, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoặc khi phổ thỉnh chúng tăng đều gõ mõ. Từ đây chúng ta có thể hiểu lúc đầu mõ dài (loại 1) được dùng để tập họp Tăng chúng.

Nhưng vì sao cả hai loại mõ đều khắc hình con cá? Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Qui nói rằng vì loại cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ, chúng ta tự nhắc mình phải tỉnh thức, chớ có hôn trầm giãi đãi.

Tiếng mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng khi tụng kinh điển cho nhịp nhàng, cũng có vài ý nghĩa biểu trưng khi mõ được khai như sau: 

- “Mới đầu đánh nhập 2 tiếng: Biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xuất thế gian dung thông, không ngăn ngại). Ba tiếng tiếp (mỗi lần một tiếng): Tượng trưng cho sự khấu đầu qui y TAM BẢO, nguyện dứt trừ TAM ĐỘC: Tham, sân, si”.

Bẩy (7) tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và thứ 8 đánh gấp, tính gộp thành một tiếng), tượng trưng cho: BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng toà.

Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: Tượng trưng cho câu “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA” hoặc BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH. Tức tác pháp thỉnh Phật chứng minh. Cuối cùng đánh nhập 4 tiếng: Tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ.

IV.- Vài ý tưởng khác:

1.- Quá trình sử dụng chuông trống và các pháp khí khác tại Ấn-Độ và các nươc khác. Theo cuốn A Dictionary of Symbols (London, 1962, trang 23) cho rằng âm thanh của chuông là biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời và đất. Hình dáng của chuông xuất phát lấy từ hình tượng vòm trời.

Ấn Độ đã biết sử dụng chuông trên 2000 năm về trước, và có lẽ chuông đươc sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật Giáo, có thể được tìm thấy trên các bức phù điêu trên các trụ đá của Vua Asoka (A-Dục) và các tháp tôn trí xá-lợi của Đức Phật. Không phải tại Ấn Độ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn nền văn hóa tư tưởng Ấn Độ như Tích Lan, Miến Điện cũng sử dụng chuông và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, và đặc biệt dùng khi chấm dứt môt khóa lễ.

Trong các dịp tưởng niệm Đức Phật, các chuông được sử dụng cùng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính Đức Phật. Tác phẩm Saddharmàlankàra, một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Tiùch Lan ghi rằng: Chuông được sử dụng đầu tiên ở Tích Lan vào những dịp đặc biệt như triệu tập tăng chúng. Sau này dần dầntrở thành một phần của nghi lễ cúng dường âm nhạc (sabda-pùjà) cho Đức Phật.

Tín đồ Phật Giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn nơi, vạn hướng, làm vơi bớt nỗi đau khổ của cuộc đời. Cho nên Phật Giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trị niệm và cả những chuông lăn lớn để tín đồ quay.

Dĩ nhiên các loại chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay ở Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Trung Quốc trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trong các buổi lễ tế giao của các Thiên Tử không thấy đề cập sử dụng đến các loại nhạc khí này. Trông phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhânpháp trường.

2.- Sự mầu nhiệm của tiếng khánh:

Theo như các thiền sư ghi lại qua các hành trang của một số vị thiền sư, thì tiếng khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi thiền giả đã vào các tầng thiền như “diệt thọ tường định” thì dù có trời long đất lở thân tâm của vị ấy vẫn bất động. Tuy nhiên, chỉ với một vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức các Ngài dậy. Câu chuyện Ngài Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định xuất thần kéo dài cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức Ngài xuất định.

3.- Tiếng chuông có khả năng làm giảm bớt nỗi thống khổ của chúng sanh đang bị đoạ lạc?

Như trên ta thấy, tiếng chuông, trống, khánh (hoặc các loại pháp khí khác) được sử dụng như một dấu hiệu mệnh lệnh triệu tập tăng như các nước Ấn Độ, Tích Lan, Miến điện và Trung Quốc. Ở Việt NamTrung Quốc, đánh trống giộng chuông, đặc biệttiếng chuông còn có ý nghĩa khác mang chiều sâu tâm linh hơn, huyền bí hơn.

Phật Giáo Trung Quốc giải thích rằng khi tiếng chuông vừa được thỉnh lên thì dưới cõi địa ngục tội nhân được tạm ngưng hành phạt. Cách giải thích này mang nhiều vẻ huyền bí và không có sức thuyết phục lớn. Nếu sự thật là vậy có lẽ Đức Phật đã bảo các hàng tỳ kheo và các Phật Tử tại gia thời Phật đúc chuông để thỉnh liên tục hầu giúp chúng sinh không còn đau khổ nữa. Người viết nghĩ rằng nhờ tiếng chuông này mà có thể thức tỉnh phần nào những người chết oan, cô hồn, vất vưởng cần người trợï duyên của các bậc cao Tăng. Giống như ở cõi trần, nhiều người cõi lòng đang nặng trĩu với trăm mối tơ lòng, thế mà một tiếng chuông chùa vào buổi hoàng hôn có thể làm họ thức tỉnh cơn mê vạn kiếp.

Do đó, thỉnh chuông không hoàn toàn mang ý nghĩa cứu vớt những người đã chết mà chỉ là trợ duyên cho những ai có duyên lành với Phật Pháp sớm tỏ ngộ quay đầu, như câu kệ sau đây thường được đọc trong các thiền lâm:

Tiếng chuông cảnh tỉnh thiên thu mộng
Niệm Phật tiêu dao vạn kiếp sầu”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4013)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3186)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7210)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5717)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 4057)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3161)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12341)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5214)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3950)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9336)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7615)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27208)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 6006)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5733)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6262)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5848)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5581)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7930)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4835)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12278)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21948)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6577)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7535)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6805)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6379)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8639)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6152)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5762)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14393)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20454)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 7019)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6922)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6470)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6566)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6097)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7520)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7479)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8631)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6556)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6954)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10584)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 20036)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30335)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16291)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19785)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11146)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14478)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7875)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10552)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 8013)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant