Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương sáu: Một số điểm nói thêm

14 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7434)
Chương sáu: Một số điểm nói thêm

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO
 Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi - 2001

CHƯƠNG SÁU
MỘT SỐ ĐIỂM NÓI THÊM

A/ Phật giáovăn học Trung Quốc

Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, lịch sử rất lâu dài, hơn 2.500 năm nay.

Phật giáo từ Đông Hán truyền vào Trung Quốc, về sau, suốt hơn một ngàn năm là tín ngưỡng chủ yếu của nhân dân Trung Quốc. Trải qua nhiều đời, các vị cao tăng đại đức hoằng dương, từ vua quan đến nhân dân đều được thấm nhuần pháp nhũ, ăn sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Tín ngưỡng Phật giáo đã thâm nhập dân gian “Nhà nhà A Di Đà, hộ hộ Quán Thế Âm”, đã phản ánh một cách trung thực tinh thần Phật giáo đối với nhân gian. Triết lý của Phật giáo cùng với Nho, Đạo kết hợp, cùng dung hội, về sau hội nhập vào trong biển lớn của văn hóa Trung Hoa, làm cho ánh sáng của văn hóa Trung Hoa chiếu rọi rực rỡ.

Nội dung của văn hóa cực kỳ rộng lớn, hạng mục cũng rất nhiều, phàm hết thảy mọi thành tích của loài người từ dã man tiến hóa đến văn minh đều có thể gọi là văn hóa. Nhân đó, tôi chỉ muốn nêu lên một mục “văn học” trong văn hóa ấy, dùng lời của các vị tiền bối như Lương Khải Siêu, Hồ Thích… để thuyết minh sự du nhập của Phật giáo, có ảnh hưởngcống hiến đối với văn học Trung Quốc.

I- Lương Khải Siêu cho rằng Phật giáo đối với văn học Trung Quốc có năm loại ảnh hưởng :

1- Sự mở rộng thực chất của quốc ngữ : Do phiên dịch sách Phật mà chữ viết của Trung Quốc tăng thêm hơn ba vạn năm ngàn chữ.

2- Sự thay đổi ngữ pháp và văn thể : Cái học khoa phán sớ sao của sách Phật, là tổ chức văn thể phân tích xuất hiệnTrung Quốc. Mà ngữ lục của Thiền tông chính là một cuộc đại cách mạng của văn học Trung Quốc.

3/ Sự phát triển thú vị của văn học : Văn học đơn thuần của Trung Quốc gần đây, như tiểu thuyết, ca nhạc v.v… đều có quan hệ mật thiết với sự phiên dịch của sách Phật. “Khổng Tước Đông Nam Phi, Mộc Lan Từ v.v…” thuộc loại Trường thiên tự sự thi, đại khái là chịu ảnh hưởng của “Phật Bổn Hành Tán” của Mã Minh do Đàm Vô Sấm thời Đông Tấn dịch. Lại kinh điển Đại thừa, diễn dịch giáo lý rất vi diệu, tăng thêm sức tưởng tượng của người Trung Quốc, cách tân cách viết của người Trung Quốc. Từ Tống Nguyên về sau tiểu thuyết chương hồi chịu ảnh hưởng của kinh điển không ít.

4- Sự truyền nhập của ca vũ kịch : Ca vũ kịch - vở kịch Bát đầu, có sớm nhất của Trung Quốc, kịch này theo người đời nay khảo chứng thì từ nước Bạt Đậu gần Nam Thiên Trúc truyền sang.

5- Phỏng tạo chữ cái : Phật giáo du nhập, Phạn văn cũng theo đến. Các vị cao tăng Trung Quốc phỏng tạo ra chữ cái để ứng dụng, nên mới có “Kiến Khê Quần Nghi” của Thủ Ôn đời Đường chế tác 36 chữ cái.

II- Hồ Thích cho rằng sự du nhập của Phật giáo đối với Trung quốc có ba ảnh hưởng lớn như sau :

1- Các vị Đại sư dịch kinh của Phật giáo dùng văn thể bạch thoại chân chất bình dị để phiên dịch kinh Phật, chỉ cần dễ hiểu, không cần trau chuốt đã tạo thành một loại văn thể bạch thoại phổ thông. Thiền môn trở thành nơi phát nguồn trọng yếu của văn bạch thoại và thi bạch thoại.

2- Văn học Phật giáo rất giàu sức tưởng tượng, đối với văn học Trung Quốc thì lại rất ít sức tưởng tượng, nên đã có tác dụng giải phóng rất lớn. Tác phẩm lãng mạn chủ nghĩa của Trung Quốc, như tiểu thuyết Tây Du Ký… là sản phẩm ảnh hưởng văn học Ấn Độ.

3- Văn học Ấn Độ rất chú trọng bố cục và kết cấu về mặt hình thức. “Phổ Diệu Kinh”, “Phật Sở Hành Tán”, “Phật Bản Hạnh Kinh” v.v… đều là sự tích trường thiên vĩ đại. Loại “Tu Lại Kinh” là tác phẩm theo thể tiểu thuyết, “Duy Ma Cật Kinh”, “Tư Ích Phạn Thiên Sở Vấn Kinh” là tác phẩm nửa tiểu thuyết, nửa hý kịch. Sự du nhập của một số kinh Phật này đối với sự phát đạt sau này của Đàn từ (Hát nói), Bình thoại, tiểu thuyết, hý kịch đều có sự cống hiến trực tiếp hoặc gián tiếp. Lại tản văn và thể văn Kệ của kinh Phật dùng xen lẫn nhau, đối với thể tài văn học sau này của Trung Quốc cũng có ảnh hưởng hoặc quan hệ.

Chỉ xét về một loại “văn học”, đã có biết bao nhiêu là sách vở có liên quan với Phật giáo. Phật giáo tuyệt không phải là tôn giáo thông thường, dù nhìn ở góc độ nào của cuộc sống, Phật giáo đều có quan hệ mật thiết đối với chúng ta, đặc biệt đối với văn hóa Trung Quốc có sự cống hiến rất to lớn.

B/ Giải thích sơ lược về Đức Phật

1/ Phật là gì ?

Phật là tiếng gọi tắt của “Phật đà”, mà Phật đà là dịch âm của Phạn ngữ Buddha. 

2/ Định nghĩa chữ Phật

Muốn định nghĩa chữ Phật không phải là dễ. Nói một cách đơn giản, Phật là “giác giả”, một người đã “giác ngộ”. Nói một cách rõ hơn, Phật là một người đã giác ngộ thấu triệt được đạo lý căn bản của nhân sinh vũ trụ.

Còn có một định nghĩa đơn giản rõ ràng, phổ biến được người ta tiếp thu, Phật là một người tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói một cách khác, Phật chính là người đã trải qua sự giác ngộ rồi, còn giúp cho người khác cũng được giác ngộ, đó là công tác tự giác (giác) và giác tha (hạnh), đồng thời cũng là người đã đạt đến cảnh giới viên mãn rốt ráo.

3/ Phật là ai ?

Muốn trả lời vấn đề này, cần phải từ nghĩa rộng và nghĩa hẹp mà xét.

a/ Nghĩa hẹp : Phật là chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni sinh tại Ấn Độ hơn 2000 năm về trước.

b/ Nghĩa rộng : Đạo Phật chủ trương hết thảy chúng sinh đều có đủ bản tính thành Phật, do đó đều có hy vọng tu hành thành Phật. Cho nên Phật không phải là tên gọi nhất định của Đức Thích Ca Mâu Ni, mà là tên gọi chung của những người giác ngộ trong vũ trụ.

Giống như từ “thầy giáo” không hạn định nơi Khổng Tử tiên sư chí thánh, mà là chỉ chung cho những người “truyền đạo, truyền nghề”.

Sau khi định nghĩa Phật rõ ràng rồi, chúng ta có thể hiểu Phật giáotôn giáo y theo ngôn hạnh giáo hóa của Đức Thích Ca Mâu Ni làm trung tâm sáng lập.

Nói một cách đơn giản, “những lời dạy bảo và khai thị của Phật” gọi là Phật giáo.

Hết thảy đạo lýPhật giáo giảng dạy chúng ta bình thường gọi là “Phật học”. Phật học bao gồm ba tạng mười hai bộ, tám vạn bốn ngàn pháp môn tu hành. Là một môn học vấn tinh thâm, phong phú.

C/ Phật giáoPhật học

Phật họcPhật giáo trên thực tếhai mặt một thể, hai thứ này hỗ tương nhau mà thành. Phật giáo cần phải lấy Phật học làm nội dung, nếu khôngPhật học bổ sung thì cũng như tôn giáo thông thường chỉ trọng hình thức và nghi thức. Ngược lại Phật học còn cần đến sự tuyên dươngthực hành của Phật giáo, nếu không Phật học dùng để làm gì ? Không những đối với sinh hoạt của nhân loại không có lợi ích, mà còn không giúp gì cho nhân quần xã hội.

Phật giáo thường lấy “tín, giải, hành, chứng” làm bốn biện pháp tu hành, (“giải” là cần phải nghiên cứu Phật học, “hành” là nỗ lực thực hành). Chủ trương hành giải đều xem trọng, cũng ý là tri hành hợp nhất.

Mối quan hệ hữu quan giữa “Phật học và Phật giáo” xin mời các bạn học hãy xem “Lý luận và thực tiễn của Phật học”, một bản thảo diễn giảng của tôi lúc còn học Đại học, ít nhiều cũng giúp cho các bạn học hiểu được sự trọng yếu của “tri hành hợp nhất”.

Lý luậnthực tiễn của Phật học

Phàm người có đôi chút nghiên cứu đối với Phật học đều phải thừa nhận : Phật họchệ thống tư tưởng nghiêm cẩn, có phương pháp suy lý tỉ mỉ chu đáo. Tôn Trung Sơn tiên sinh có nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Điều này thuyết minh đầy đủ cơ sở lý luận Phật họckiến lập ở trên nguyên lý khoa học. Lương Khải Siêu tiên sinh cũng cho rằng : “Phật học là trí tín, chẳng phải là mê tín”. Điều này cũng cùng một kiến giải với Tôn Trung Sơn.

Chúng ta đều biết, tam tạng mười hai bộ Kinh của Phật học, bao quát tám vạn bốn ngàn pháp môn trong ấy, nói có nói không, nói Hiển nói Mật, nói Giáo nói Thiền, không ngoài Chân đếTục đế, chính là hai bộ môn lớn của thế gian phápxuất thế gian pháp. Từ thành trụ hoại không của tự nhiên giới, nói đến sinh lão bệnh tử của hiện tượng sinh mạng nhân loại. Từ pháp Tiểu thừa “độc thiện kỳ thân”, nói đến pháp Đại thừa “kiêm thiện thiên hạ”. Từ hình hình sắc sắc của thế giới khách quan, nói đến vọng niệm vô minh nội tại tâm linh chúng ta. Về phương diện thời gian thì xuyên suốt quá khứ, hiện tạivị lai; về phương diện không gian thì tận cùng tam thiên đại thiên thế giới.

Hệ thống lý luận toàn mỹ này, đối với tư tưởng giới xưa nay, có thể nói là độc nhất vô nhị, do đó những bậc trí thức đều nhất trí tán thán. Song người năng hoằng đạo, chứ chẳng phải đạo hoằng người. Công tác hoằng pháp lợi thế không phải dễ dàng, nghiệp nhà Như Lai cũng không phải người thường có thể đảm trách. Ngũ giới Thập thiện của nhân thiên thừa vốn không dễ giữ gìn, Lục độ vạn hạnh của Bồ tát thừa càng không phải dễ tu. Không phải một bước mà có thể lên trời, trong nháy mắt mà có thể công hiệu, phải trải qua tu hành ba đại a tăng kỳ kiếp mới có thể viên chứng thành Phật. Có một số người nghiên cứu Phật học, chỉ chú trọng ở giai đoạn nghiên cứu mà không chịu đi vào thực tiễn, thực chứng, sự thiên lệch này cần phải tu chỉnh lại.

Xem trọng lý luận mà không xem trọng thực tiễn, kết quả là sản sinh ra bao nhiêu tệ nạn. Như lão sư Khưu Nam trong cuốn “Ngôn Hy Ngũ Luân” của ông có nói : “Bi kịch của tri thức là chỉ dừng ở một khía cạnh bác học, mà không quan tâm đến công phu thực hành, việc học như thế sẽ là một khối tri thức băng giá, thiếu ánh sáng và hơi ấm”. Chúng ta nên biết bác học chính là nghiên cứu lý luận, mà thực hành chính là công phu thực tiễn. Nếu chúng ta đối với Phật học chỉ dừng ở chỗ nghiên cứu lý luận về phương diện bác học, mà không quan tâm đến công phu thực hành, thì Phật học sẽ mất đi ý nghĩatinh thần của nó, mà trở thành một khối tri thức băng giá.

Xem trọng lý luận, không xem trọng thực hành, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc suy vi của Phật giáo Trung Quốc cận đại. Phật học nếu biến thành huyền học chỉ có lý luận thâm áo, mà không ứng dụng vào sinh hoạt nhân loại, há không phải là cất lâu đài ở không trung, khiến cho người ta không biết đâu mà dự đoán thì làm thế nào có thể phát sinh tác dụng chỉ đạo nhân sinh ? Đó chẳng phải là sự bất hạnh của Phật giáo sao ?

Quý vị đều hiểu Phật giáotôn giáo xem trọng thực chứng, chú trọng công phu thể nghiệm tự ngã, cái gọi là “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”, chính là ý nghĩa này. Đồng thời hết thảy lý luận của Phật học đều dựa theo nhu yếu của việc học Phật mà sản sinh, trái lại “nói ăn mà không ăn” thì không có ích gì. Chúng tôi có thể đưa ra một thí dụ để thuyết minh. Ví như hiện nay chúng ta muốn đến Cao Hùng, lý luận của Phật học giống như một bản đồ, nó chỉ cho chúng ta phương hướng đến Cao Hùng, có thể đi máy bay, tàu hỏa, tàu thủy, cũng có thể đi bộ hoặc cưỡi ngựa. Phương hướng tuy rất nhiều, tất cả đều có sẵn rồi, song có một sự thậtchúng ta không thể phủ nhận là : Nếu chúng ta không chịu cất bước đi, nhắm về hướng Cao Hùng mà cứ nói tiến tới thì vĩnh viễn chúng ta không bao giờ tới Cao Hùng được cả.

Nói đi rồi nói lại, Phật học là hợp nhất lý luậnthực tiễn, tương bổ tương thành. Nếu khônglý luận làm cơ sở, thì không thể thu hút được sự tín ngưỡng của quảng đại quần chúng. Cũng thế, Phật học nếu không trải qua công phu thực tiễn, sẽ vĩnh viễn không phát huy được hiệu dụng cứu dân độ thế, cũng không đạt đến mục đích tu hành chứng quả. Do đó hôm nay, chúng tôi muốn đề xuất khẩu hiệu “Lấy thực hành để ấn chứng lý luận, lấy lý luận để chỉ đạo thực hành”, đem lý luậnthực hành hòa tan làm một thể. Vẫn biết phiền não của thế tụcvô tận, chúng ta cần phải hạ quyết tâm diệt trừ nó. Vẫn biết chúng sinh trong biển khổ là vô biên, bao nhiêu người đang rên xiết trong nước sôi lửa bỏng, biết bao người bị đói rét hành hạ khóc than thảm thiết, vì thế chúng ta phải học tập tinh thần lợi tha của đức Quán Thế Âm Bồ tát chèo thuyền từ tầm thinh cứu khổ. Noi theo tâm lớn nguyện lớn của đức Địa Tạng Vương Bồ tát, thay chúng sinh chịu hết thảy khổ “chúng sinh độ tận, mới chứng Bồ đề, địa ngục chưa hết, thề không thành Phật”, dù thịt nát xương tan, nước sôi lửa bỏng cũng không hối tiếc. Chúng ta đã biết Đức Phật là bậc đại trí đại giác Vô thượng Chính đẳng Chính giác, thì không thể sợ khó mà không tiến tới, nhất định phải dũng mãnh tinh tiến, hướng về chân trời chân lýtiến tới.

Từ trong sự nghiên cứu lý luận Phật học, chúng ta biết rằng Đại thừa Phật pháp mới là bản ý của Như Lai. Mục đích thực tiễn của chúng ta cũng phải lấy tinh thần Đại thừa làm y cứ, không lấy làm tự mãn nơi Tiểu thừa. Chúng ta không những độc thiện kỳ thân, mà còn phải kiêm thiện thiên hạ. Đem hết nghị lực của chúng ta, quán triệt quyết tâm của chúng ta, nỗ lực làm người bậc nhất trong thế gian, làm sự việc bậc nhất trong vũ trụ. Đó chính là công việc thiêng liêng tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, hoằng pháp lợi sinh của người Phật tử.

Sau cùng, tôi mong trách nhiệm “Hoằng dương Phật pháp Đại thừa, phục hưng Phật giáo Trung Quốc” được các vị sư trưởng và các bạn đồng học quan tâm hơn nữa.

D/ Thần vì sao sinh ra ?

Các nhà tâm lý họctôn giáo học cận đại cho chúng ta biết rằng : Thần là do người sáng tạo ra.

Người ta vì sao lại phải sáng tạo ra thần ? Phân tích một cách đơn giản là :

Đời xưa khoa học chưa tiến bộ, người ta không thể hiểu được đối với đại tự nhiên, họ không thể kháng cự lại với thiên tai động đất của đại tự nhiên, bèn sinh ra lo sợ và cho rằng nhất định có một “thứ” gì đó tạo ra và gọi đó là “Thần”.

Họ thấy chớp xẹt sấm nổ làm tổn thương đến người và súc vật, dẫn đến hỏa tai bèn cho rằng có “Ông Sấm” “Bà Chớp”; thấy hồng thủy trào dâng mặt đất bèn cho là có thần sông.

Căn cứ vào sự khảo cứu của các học giả chuyên gia thì thần mà người ta sùng bái, “bịa đặt ra” rất nhiều, có đến ba ức ba ngàn vạn vị, các bạn thấy có kinh khiếp không ?

Đa số những thần ấy đại biểu cho sự vô tri và lo sợ của loài người đối với đại tự nhiên. Thế nhưng sau này do sự tiến bộ của khoa học, tất cả những hiện tượng của vũ trụ đều được giải thích một cách rõ ràng.

Sau khi đã biết rõ hiện tượng của sấm chớp, sét đánh rồi ai lại còn tin có thần sấm chớp nữa ? Sau khi đã hiểu việc khai thông sông ngòi có thể phòng ngự được hồng thủy, thì thần sông coi như tiêu vong.

Sự tiêu vong của một số thần này đại biểu cho điều gì ? Đó là đại biểu cho sự tỉnh giác của lý trí loài người. Loài người đã vận dụng trí lực của bản thân mình, có thể đấu tranh với đại tự nhiên. Quan niệm “nhân định thắng thiên” đã thâm nhập vào trong tâm của họ. Người ta không còn phải là con cừu non đáng thương hại van xin ơn thần ban bố phước lành nữa.

Thần là do loài người không hiểu rõ vũ trụ nhân sinh nên đã ảo tưởng ra. Khoa học của loài người ngày càng tiến bộ, lý trí của loài người ngày càng sáng suốt, người ta sẽ không còn tin thần nữa.

Bạn biết không? Thần là trừu tượng, không thể nắm bắt được. Thần trên thực thể vốn không thể cầu được. Bởi vì lúc loài người lấy hình tướng của mình để tạo ra thần thì thần ấy vốn không phải thực thể (cũng không có pháp tạo). Thần mà loài người tạo ra chỉ là thần tâm lý, thần quan niệm mà thôi.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17499)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46612)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9685)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8866)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 16011)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15640)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18420)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9691)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9779)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18597)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15781)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 11054)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 9043)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10546)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10307)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9461)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11626)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10175)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 23150)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9667)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17354)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16754)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 19225)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10257)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19502)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9522)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12375)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 12089)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19998)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12783)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13216)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14490)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32531)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13157)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12061)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 21031)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40725)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10187)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9630)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 19084)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8948)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8405)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10562)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11790)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30767)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11597)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10527)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 16189)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25825)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10117)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant