Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương sáu: Một số điểm nói thêm

14 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7433)
Chương sáu: Một số điểm nói thêm

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO
 Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi - 2001

CHƯƠNG SÁU
MỘT SỐ ĐIỂM NÓI THÊM

A/ Phật giáovăn học Trung Quốc

Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, lịch sử rất lâu dài, hơn 2.500 năm nay.

Phật giáo từ Đông Hán truyền vào Trung Quốc, về sau, suốt hơn một ngàn năm là tín ngưỡng chủ yếu của nhân dân Trung Quốc. Trải qua nhiều đời, các vị cao tăng đại đức hoằng dương, từ vua quan đến nhân dân đều được thấm nhuần pháp nhũ, ăn sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Tín ngưỡng Phật giáo đã thâm nhập dân gian “Nhà nhà A Di Đà, hộ hộ Quán Thế Âm”, đã phản ánh một cách trung thực tinh thần Phật giáo đối với nhân gian. Triết lý của Phật giáo cùng với Nho, Đạo kết hợp, cùng dung hội, về sau hội nhập vào trong biển lớn của văn hóa Trung Hoa, làm cho ánh sáng của văn hóa Trung Hoa chiếu rọi rực rỡ.

Nội dung của văn hóa cực kỳ rộng lớn, hạng mục cũng rất nhiều, phàm hết thảy mọi thành tích của loài người từ dã man tiến hóa đến văn minh đều có thể gọi là văn hóa. Nhân đó, tôi chỉ muốn nêu lên một mục “văn học” trong văn hóa ấy, dùng lời của các vị tiền bối như Lương Khải Siêu, Hồ Thích… để thuyết minh sự du nhập của Phật giáo, có ảnh hưởngcống hiến đối với văn học Trung Quốc.

I- Lương Khải Siêu cho rằng Phật giáo đối với văn học Trung Quốc có năm loại ảnh hưởng :

1- Sự mở rộng thực chất của quốc ngữ : Do phiên dịch sách Phật mà chữ viết của Trung Quốc tăng thêm hơn ba vạn năm ngàn chữ.

2- Sự thay đổi ngữ pháp và văn thể : Cái học khoa phán sớ sao của sách Phật, là tổ chức văn thể phân tích xuất hiệnTrung Quốc. Mà ngữ lục của Thiền tông chính là một cuộc đại cách mạng của văn học Trung Quốc.

3/ Sự phát triển thú vị của văn học : Văn học đơn thuần của Trung Quốc gần đây, như tiểu thuyết, ca nhạc v.v… đều có quan hệ mật thiết với sự phiên dịch của sách Phật. “Khổng Tước Đông Nam Phi, Mộc Lan Từ v.v…” thuộc loại Trường thiên tự sự thi, đại khái là chịu ảnh hưởng của “Phật Bổn Hành Tán” của Mã Minh do Đàm Vô Sấm thời Đông Tấn dịch. Lại kinh điển Đại thừa, diễn dịch giáo lý rất vi diệu, tăng thêm sức tưởng tượng của người Trung Quốc, cách tân cách viết của người Trung Quốc. Từ Tống Nguyên về sau tiểu thuyết chương hồi chịu ảnh hưởng của kinh điển không ít.

4- Sự truyền nhập của ca vũ kịch : Ca vũ kịch - vở kịch Bát đầu, có sớm nhất của Trung Quốc, kịch này theo người đời nay khảo chứng thì từ nước Bạt Đậu gần Nam Thiên Trúc truyền sang.

5- Phỏng tạo chữ cái : Phật giáo du nhập, Phạn văn cũng theo đến. Các vị cao tăng Trung Quốc phỏng tạo ra chữ cái để ứng dụng, nên mới có “Kiến Khê Quần Nghi” của Thủ Ôn đời Đường chế tác 36 chữ cái.

II- Hồ Thích cho rằng sự du nhập của Phật giáo đối với Trung quốc có ba ảnh hưởng lớn như sau :

1- Các vị Đại sư dịch kinh của Phật giáo dùng văn thể bạch thoại chân chất bình dị để phiên dịch kinh Phật, chỉ cần dễ hiểu, không cần trau chuốt đã tạo thành một loại văn thể bạch thoại phổ thông. Thiền môn trở thành nơi phát nguồn trọng yếu của văn bạch thoại và thi bạch thoại.

2- Văn học Phật giáo rất giàu sức tưởng tượng, đối với văn học Trung Quốc thì lại rất ít sức tưởng tượng, nên đã có tác dụng giải phóng rất lớn. Tác phẩm lãng mạn chủ nghĩa của Trung Quốc, như tiểu thuyết Tây Du Ký… là sản phẩm ảnh hưởng văn học Ấn Độ.

3- Văn học Ấn Độ rất chú trọng bố cục và kết cấu về mặt hình thức. “Phổ Diệu Kinh”, “Phật Sở Hành Tán”, “Phật Bản Hạnh Kinh” v.v… đều là sự tích trường thiên vĩ đại. Loại “Tu Lại Kinh” là tác phẩm theo thể tiểu thuyết, “Duy Ma Cật Kinh”, “Tư Ích Phạn Thiên Sở Vấn Kinh” là tác phẩm nửa tiểu thuyết, nửa hý kịch. Sự du nhập của một số kinh Phật này đối với sự phát đạt sau này của Đàn từ (Hát nói), Bình thoại, tiểu thuyết, hý kịch đều có sự cống hiến trực tiếp hoặc gián tiếp. Lại tản văn và thể văn Kệ của kinh Phật dùng xen lẫn nhau, đối với thể tài văn học sau này của Trung Quốc cũng có ảnh hưởng hoặc quan hệ.

Chỉ xét về một loại “văn học”, đã có biết bao nhiêu là sách vở có liên quan với Phật giáo. Phật giáo tuyệt không phải là tôn giáo thông thường, dù nhìn ở góc độ nào của cuộc sống, Phật giáo đều có quan hệ mật thiết đối với chúng ta, đặc biệt đối với văn hóa Trung Quốc có sự cống hiến rất to lớn.

B/ Giải thích sơ lược về Đức Phật

1/ Phật là gì ?

Phật là tiếng gọi tắt của “Phật đà”, mà Phật đà là dịch âm của Phạn ngữ Buddha. 

2/ Định nghĩa chữ Phật

Muốn định nghĩa chữ Phật không phải là dễ. Nói một cách đơn giản, Phật là “giác giả”, một người đã “giác ngộ”. Nói một cách rõ hơn, Phật là một người đã giác ngộ thấu triệt được đạo lý căn bản của nhân sinh vũ trụ.

Còn có một định nghĩa đơn giản rõ ràng, phổ biến được người ta tiếp thu, Phật là một người tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói một cách khác, Phật chính là người đã trải qua sự giác ngộ rồi, còn giúp cho người khác cũng được giác ngộ, đó là công tác tự giác (giác) và giác tha (hạnh), đồng thời cũng là người đã đạt đến cảnh giới viên mãn rốt ráo.

3/ Phật là ai ?

Muốn trả lời vấn đề này, cần phải từ nghĩa rộng và nghĩa hẹp mà xét.

a/ Nghĩa hẹp : Phật là chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni sinh tại Ấn Độ hơn 2000 năm về trước.

b/ Nghĩa rộng : Đạo Phật chủ trương hết thảy chúng sinh đều có đủ bản tính thành Phật, do đó đều có hy vọng tu hành thành Phật. Cho nên Phật không phải là tên gọi nhất định của Đức Thích Ca Mâu Ni, mà là tên gọi chung của những người giác ngộ trong vũ trụ.

Giống như từ “thầy giáo” không hạn định nơi Khổng Tử tiên sư chí thánh, mà là chỉ chung cho những người “truyền đạo, truyền nghề”.

Sau khi định nghĩa Phật rõ ràng rồi, chúng ta có thể hiểu Phật giáotôn giáo y theo ngôn hạnh giáo hóa của Đức Thích Ca Mâu Ni làm trung tâm sáng lập.

Nói một cách đơn giản, “những lời dạy bảo và khai thị của Phật” gọi là Phật giáo.

Hết thảy đạo lýPhật giáo giảng dạy chúng ta bình thường gọi là “Phật học”. Phật học bao gồm ba tạng mười hai bộ, tám vạn bốn ngàn pháp môn tu hành. Là một môn học vấn tinh thâm, phong phú.

C/ Phật giáoPhật học

Phật họcPhật giáo trên thực tếhai mặt một thể, hai thứ này hỗ tương nhau mà thành. Phật giáo cần phải lấy Phật học làm nội dung, nếu khôngPhật học bổ sung thì cũng như tôn giáo thông thường chỉ trọng hình thức và nghi thức. Ngược lại Phật học còn cần đến sự tuyên dươngthực hành của Phật giáo, nếu không Phật học dùng để làm gì ? Không những đối với sinh hoạt của nhân loại không có lợi ích, mà còn không giúp gì cho nhân quần xã hội.

Phật giáo thường lấy “tín, giải, hành, chứng” làm bốn biện pháp tu hành, (“giải” là cần phải nghiên cứu Phật học, “hành” là nỗ lực thực hành). Chủ trương hành giải đều xem trọng, cũng ý là tri hành hợp nhất.

Mối quan hệ hữu quan giữa “Phật học và Phật giáo” xin mời các bạn học hãy xem “Lý luận và thực tiễn của Phật học”, một bản thảo diễn giảng của tôi lúc còn học Đại học, ít nhiều cũng giúp cho các bạn học hiểu được sự trọng yếu của “tri hành hợp nhất”.

Lý luậnthực tiễn của Phật học

Phàm người có đôi chút nghiên cứu đối với Phật học đều phải thừa nhận : Phật họchệ thống tư tưởng nghiêm cẩn, có phương pháp suy lý tỉ mỉ chu đáo. Tôn Trung Sơn tiên sinh có nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Điều này thuyết minh đầy đủ cơ sở lý luận Phật họckiến lập ở trên nguyên lý khoa học. Lương Khải Siêu tiên sinh cũng cho rằng : “Phật học là trí tín, chẳng phải là mê tín”. Điều này cũng cùng một kiến giải với Tôn Trung Sơn.

Chúng ta đều biết, tam tạng mười hai bộ Kinh của Phật học, bao quát tám vạn bốn ngàn pháp môn trong ấy, nói có nói không, nói Hiển nói Mật, nói Giáo nói Thiền, không ngoài Chân đếTục đế, chính là hai bộ môn lớn của thế gian phápxuất thế gian pháp. Từ thành trụ hoại không của tự nhiên giới, nói đến sinh lão bệnh tử của hiện tượng sinh mạng nhân loại. Từ pháp Tiểu thừa “độc thiện kỳ thân”, nói đến pháp Đại thừa “kiêm thiện thiên hạ”. Từ hình hình sắc sắc của thế giới khách quan, nói đến vọng niệm vô minh nội tại tâm linh chúng ta. Về phương diện thời gian thì xuyên suốt quá khứ, hiện tạivị lai; về phương diện không gian thì tận cùng tam thiên đại thiên thế giới.

Hệ thống lý luận toàn mỹ này, đối với tư tưởng giới xưa nay, có thể nói là độc nhất vô nhị, do đó những bậc trí thức đều nhất trí tán thán. Song người năng hoằng đạo, chứ chẳng phải đạo hoằng người. Công tác hoằng pháp lợi thế không phải dễ dàng, nghiệp nhà Như Lai cũng không phải người thường có thể đảm trách. Ngũ giới Thập thiện của nhân thiên thừa vốn không dễ giữ gìn, Lục độ vạn hạnh của Bồ tát thừa càng không phải dễ tu. Không phải một bước mà có thể lên trời, trong nháy mắt mà có thể công hiệu, phải trải qua tu hành ba đại a tăng kỳ kiếp mới có thể viên chứng thành Phật. Có một số người nghiên cứu Phật học, chỉ chú trọng ở giai đoạn nghiên cứu mà không chịu đi vào thực tiễn, thực chứng, sự thiên lệch này cần phải tu chỉnh lại.

Xem trọng lý luận mà không xem trọng thực tiễn, kết quả là sản sinh ra bao nhiêu tệ nạn. Như lão sư Khưu Nam trong cuốn “Ngôn Hy Ngũ Luân” của ông có nói : “Bi kịch của tri thức là chỉ dừng ở một khía cạnh bác học, mà không quan tâm đến công phu thực hành, việc học như thế sẽ là một khối tri thức băng giá, thiếu ánh sáng và hơi ấm”. Chúng ta nên biết bác học chính là nghiên cứu lý luận, mà thực hành chính là công phu thực tiễn. Nếu chúng ta đối với Phật học chỉ dừng ở chỗ nghiên cứu lý luận về phương diện bác học, mà không quan tâm đến công phu thực hành, thì Phật học sẽ mất đi ý nghĩatinh thần của nó, mà trở thành một khối tri thức băng giá.

Xem trọng lý luận, không xem trọng thực hành, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc suy vi của Phật giáo Trung Quốc cận đại. Phật học nếu biến thành huyền học chỉ có lý luận thâm áo, mà không ứng dụng vào sinh hoạt nhân loại, há không phải là cất lâu đài ở không trung, khiến cho người ta không biết đâu mà dự đoán thì làm thế nào có thể phát sinh tác dụng chỉ đạo nhân sinh ? Đó chẳng phải là sự bất hạnh của Phật giáo sao ?

Quý vị đều hiểu Phật giáotôn giáo xem trọng thực chứng, chú trọng công phu thể nghiệm tự ngã, cái gọi là “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”, chính là ý nghĩa này. Đồng thời hết thảy lý luận của Phật học đều dựa theo nhu yếu của việc học Phật mà sản sinh, trái lại “nói ăn mà không ăn” thì không có ích gì. Chúng tôi có thể đưa ra một thí dụ để thuyết minh. Ví như hiện nay chúng ta muốn đến Cao Hùng, lý luận của Phật học giống như một bản đồ, nó chỉ cho chúng ta phương hướng đến Cao Hùng, có thể đi máy bay, tàu hỏa, tàu thủy, cũng có thể đi bộ hoặc cưỡi ngựa. Phương hướng tuy rất nhiều, tất cả đều có sẵn rồi, song có một sự thậtchúng ta không thể phủ nhận là : Nếu chúng ta không chịu cất bước đi, nhắm về hướng Cao Hùng mà cứ nói tiến tới thì vĩnh viễn chúng ta không bao giờ tới Cao Hùng được cả.

Nói đi rồi nói lại, Phật học là hợp nhất lý luậnthực tiễn, tương bổ tương thành. Nếu khônglý luận làm cơ sở, thì không thể thu hút được sự tín ngưỡng của quảng đại quần chúng. Cũng thế, Phật học nếu không trải qua công phu thực tiễn, sẽ vĩnh viễn không phát huy được hiệu dụng cứu dân độ thế, cũng không đạt đến mục đích tu hành chứng quả. Do đó hôm nay, chúng tôi muốn đề xuất khẩu hiệu “Lấy thực hành để ấn chứng lý luận, lấy lý luận để chỉ đạo thực hành”, đem lý luậnthực hành hòa tan làm một thể. Vẫn biết phiền não của thế tụcvô tận, chúng ta cần phải hạ quyết tâm diệt trừ nó. Vẫn biết chúng sinh trong biển khổ là vô biên, bao nhiêu người đang rên xiết trong nước sôi lửa bỏng, biết bao người bị đói rét hành hạ khóc than thảm thiết, vì thế chúng ta phải học tập tinh thần lợi tha của đức Quán Thế Âm Bồ tát chèo thuyền từ tầm thinh cứu khổ. Noi theo tâm lớn nguyện lớn của đức Địa Tạng Vương Bồ tát, thay chúng sinh chịu hết thảy khổ “chúng sinh độ tận, mới chứng Bồ đề, địa ngục chưa hết, thề không thành Phật”, dù thịt nát xương tan, nước sôi lửa bỏng cũng không hối tiếc. Chúng ta đã biết Đức Phật là bậc đại trí đại giác Vô thượng Chính đẳng Chính giác, thì không thể sợ khó mà không tiến tới, nhất định phải dũng mãnh tinh tiến, hướng về chân trời chân lýtiến tới.

Từ trong sự nghiên cứu lý luận Phật học, chúng ta biết rằng Đại thừa Phật pháp mới là bản ý của Như Lai. Mục đích thực tiễn của chúng ta cũng phải lấy tinh thần Đại thừa làm y cứ, không lấy làm tự mãn nơi Tiểu thừa. Chúng ta không những độc thiện kỳ thân, mà còn phải kiêm thiện thiên hạ. Đem hết nghị lực của chúng ta, quán triệt quyết tâm của chúng ta, nỗ lực làm người bậc nhất trong thế gian, làm sự việc bậc nhất trong vũ trụ. Đó chính là công việc thiêng liêng tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, hoằng pháp lợi sinh của người Phật tử.

Sau cùng, tôi mong trách nhiệm “Hoằng dương Phật pháp Đại thừa, phục hưng Phật giáo Trung Quốc” được các vị sư trưởng và các bạn đồng học quan tâm hơn nữa.

D/ Thần vì sao sinh ra ?

Các nhà tâm lý họctôn giáo học cận đại cho chúng ta biết rằng : Thần là do người sáng tạo ra.

Người ta vì sao lại phải sáng tạo ra thần ? Phân tích một cách đơn giản là :

Đời xưa khoa học chưa tiến bộ, người ta không thể hiểu được đối với đại tự nhiên, họ không thể kháng cự lại với thiên tai động đất của đại tự nhiên, bèn sinh ra lo sợ và cho rằng nhất định có một “thứ” gì đó tạo ra và gọi đó là “Thần”.

Họ thấy chớp xẹt sấm nổ làm tổn thương đến người và súc vật, dẫn đến hỏa tai bèn cho rằng có “Ông Sấm” “Bà Chớp”; thấy hồng thủy trào dâng mặt đất bèn cho là có thần sông.

Căn cứ vào sự khảo cứu của các học giả chuyên gia thì thần mà người ta sùng bái, “bịa đặt ra” rất nhiều, có đến ba ức ba ngàn vạn vị, các bạn thấy có kinh khiếp không ?

Đa số những thần ấy đại biểu cho sự vô tri và lo sợ của loài người đối với đại tự nhiên. Thế nhưng sau này do sự tiến bộ của khoa học, tất cả những hiện tượng của vũ trụ đều được giải thích một cách rõ ràng.

Sau khi đã biết rõ hiện tượng của sấm chớp, sét đánh rồi ai lại còn tin có thần sấm chớp nữa ? Sau khi đã hiểu việc khai thông sông ngòi có thể phòng ngự được hồng thủy, thì thần sông coi như tiêu vong.

Sự tiêu vong của một số thần này đại biểu cho điều gì ? Đó là đại biểu cho sự tỉnh giác của lý trí loài người. Loài người đã vận dụng trí lực của bản thân mình, có thể đấu tranh với đại tự nhiên. Quan niệm “nhân định thắng thiên” đã thâm nhập vào trong tâm của họ. Người ta không còn phải là con cừu non đáng thương hại van xin ơn thần ban bố phước lành nữa.

Thần là do loài người không hiểu rõ vũ trụ nhân sinh nên đã ảo tưởng ra. Khoa học của loài người ngày càng tiến bộ, lý trí của loài người ngày càng sáng suốt, người ta sẽ không còn tin thần nữa.

Bạn biết không? Thần là trừu tượng, không thể nắm bắt được. Thần trên thực thể vốn không thể cầu được. Bởi vì lúc loài người lấy hình tướng của mình để tạo ra thần thì thần ấy vốn không phải thực thể (cũng không có pháp tạo). Thần mà loài người tạo ra chỉ là thần tâm lý, thần quan niệm mà thôi.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28256)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6730)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8838)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9360)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15455)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8314)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8719)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16789)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 27063)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18772)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15711)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22640)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19556)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18427)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16285)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25736)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12948)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37931)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20176)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10773)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10102)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10580)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10433)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11084)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15331)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10899)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19781)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11765)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10851)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11288)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10156)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10632)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11601)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10933)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11455)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12205)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11114)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13080)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17859)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15319)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15796)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11037)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12158)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11085)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21953)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12156)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9225)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20242)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17339)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10120)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant