Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương sáu: Một số điểm nói thêm

14 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7437)
Chương sáu: Một số điểm nói thêm

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO
 Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi - 2001

CHƯƠNG SÁU
MỘT SỐ ĐIỂM NÓI THÊM

A/ Phật giáovăn học Trung Quốc

Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, lịch sử rất lâu dài, hơn 2.500 năm nay.

Phật giáo từ Đông Hán truyền vào Trung Quốc, về sau, suốt hơn một ngàn năm là tín ngưỡng chủ yếu của nhân dân Trung Quốc. Trải qua nhiều đời, các vị cao tăng đại đức hoằng dương, từ vua quan đến nhân dân đều được thấm nhuần pháp nhũ, ăn sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Tín ngưỡng Phật giáo đã thâm nhập dân gian “Nhà nhà A Di Đà, hộ hộ Quán Thế Âm”, đã phản ánh một cách trung thực tinh thần Phật giáo đối với nhân gian. Triết lý của Phật giáo cùng với Nho, Đạo kết hợp, cùng dung hội, về sau hội nhập vào trong biển lớn của văn hóa Trung Hoa, làm cho ánh sáng của văn hóa Trung Hoa chiếu rọi rực rỡ.

Nội dung của văn hóa cực kỳ rộng lớn, hạng mục cũng rất nhiều, phàm hết thảy mọi thành tích của loài người từ dã man tiến hóa đến văn minh đều có thể gọi là văn hóa. Nhân đó, tôi chỉ muốn nêu lên một mục “văn học” trong văn hóa ấy, dùng lời của các vị tiền bối như Lương Khải Siêu, Hồ Thích… để thuyết minh sự du nhập của Phật giáo, có ảnh hưởngcống hiến đối với văn học Trung Quốc.

I- Lương Khải Siêu cho rằng Phật giáo đối với văn học Trung Quốc có năm loại ảnh hưởng :

1- Sự mở rộng thực chất của quốc ngữ : Do phiên dịch sách Phật mà chữ viết của Trung Quốc tăng thêm hơn ba vạn năm ngàn chữ.

2- Sự thay đổi ngữ pháp và văn thể : Cái học khoa phán sớ sao của sách Phật, là tổ chức văn thể phân tích xuất hiệnTrung Quốc. Mà ngữ lục của Thiền tông chính là một cuộc đại cách mạng của văn học Trung Quốc.

3/ Sự phát triển thú vị của văn học : Văn học đơn thuần của Trung Quốc gần đây, như tiểu thuyết, ca nhạc v.v… đều có quan hệ mật thiết với sự phiên dịch của sách Phật. “Khổng Tước Đông Nam Phi, Mộc Lan Từ v.v…” thuộc loại Trường thiên tự sự thi, đại khái là chịu ảnh hưởng của “Phật Bổn Hành Tán” của Mã Minh do Đàm Vô Sấm thời Đông Tấn dịch. Lại kinh điển Đại thừa, diễn dịch giáo lý rất vi diệu, tăng thêm sức tưởng tượng của người Trung Quốc, cách tân cách viết của người Trung Quốc. Từ Tống Nguyên về sau tiểu thuyết chương hồi chịu ảnh hưởng của kinh điển không ít.

4- Sự truyền nhập của ca vũ kịch : Ca vũ kịch - vở kịch Bát đầu, có sớm nhất của Trung Quốc, kịch này theo người đời nay khảo chứng thì từ nước Bạt Đậu gần Nam Thiên Trúc truyền sang.

5- Phỏng tạo chữ cái : Phật giáo du nhập, Phạn văn cũng theo đến. Các vị cao tăng Trung Quốc phỏng tạo ra chữ cái để ứng dụng, nên mới có “Kiến Khê Quần Nghi” của Thủ Ôn đời Đường chế tác 36 chữ cái.

II- Hồ Thích cho rằng sự du nhập của Phật giáo đối với Trung quốc có ba ảnh hưởng lớn như sau :

1- Các vị Đại sư dịch kinh của Phật giáo dùng văn thể bạch thoại chân chất bình dị để phiên dịch kinh Phật, chỉ cần dễ hiểu, không cần trau chuốt đã tạo thành một loại văn thể bạch thoại phổ thông. Thiền môn trở thành nơi phát nguồn trọng yếu của văn bạch thoại và thi bạch thoại.

2- Văn học Phật giáo rất giàu sức tưởng tượng, đối với văn học Trung Quốc thì lại rất ít sức tưởng tượng, nên đã có tác dụng giải phóng rất lớn. Tác phẩm lãng mạn chủ nghĩa của Trung Quốc, như tiểu thuyết Tây Du Ký… là sản phẩm ảnh hưởng văn học Ấn Độ.

3- Văn học Ấn Độ rất chú trọng bố cục và kết cấu về mặt hình thức. “Phổ Diệu Kinh”, “Phật Sở Hành Tán”, “Phật Bản Hạnh Kinh” v.v… đều là sự tích trường thiên vĩ đại. Loại “Tu Lại Kinh” là tác phẩm theo thể tiểu thuyết, “Duy Ma Cật Kinh”, “Tư Ích Phạn Thiên Sở Vấn Kinh” là tác phẩm nửa tiểu thuyết, nửa hý kịch. Sự du nhập của một số kinh Phật này đối với sự phát đạt sau này của Đàn từ (Hát nói), Bình thoại, tiểu thuyết, hý kịch đều có sự cống hiến trực tiếp hoặc gián tiếp. Lại tản văn và thể văn Kệ của kinh Phật dùng xen lẫn nhau, đối với thể tài văn học sau này của Trung Quốc cũng có ảnh hưởng hoặc quan hệ.

Chỉ xét về một loại “văn học”, đã có biết bao nhiêu là sách vở có liên quan với Phật giáo. Phật giáo tuyệt không phải là tôn giáo thông thường, dù nhìn ở góc độ nào của cuộc sống, Phật giáo đều có quan hệ mật thiết đối với chúng ta, đặc biệt đối với văn hóa Trung Quốc có sự cống hiến rất to lớn.

B/ Giải thích sơ lược về Đức Phật

1/ Phật là gì ?

Phật là tiếng gọi tắt của “Phật đà”, mà Phật đà là dịch âm của Phạn ngữ Buddha. 

2/ Định nghĩa chữ Phật

Muốn định nghĩa chữ Phật không phải là dễ. Nói một cách đơn giản, Phật là “giác giả”, một người đã “giác ngộ”. Nói một cách rõ hơn, Phật là một người đã giác ngộ thấu triệt được đạo lý căn bản của nhân sinh vũ trụ.

Còn có một định nghĩa đơn giản rõ ràng, phổ biến được người ta tiếp thu, Phật là một người tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói một cách khác, Phật chính là người đã trải qua sự giác ngộ rồi, còn giúp cho người khác cũng được giác ngộ, đó là công tác tự giác (giác) và giác tha (hạnh), đồng thời cũng là người đã đạt đến cảnh giới viên mãn rốt ráo.

3/ Phật là ai ?

Muốn trả lời vấn đề này, cần phải từ nghĩa rộng và nghĩa hẹp mà xét.

a/ Nghĩa hẹp : Phật là chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni sinh tại Ấn Độ hơn 2000 năm về trước.

b/ Nghĩa rộng : Đạo Phật chủ trương hết thảy chúng sinh đều có đủ bản tính thành Phật, do đó đều có hy vọng tu hành thành Phật. Cho nên Phật không phải là tên gọi nhất định của Đức Thích Ca Mâu Ni, mà là tên gọi chung của những người giác ngộ trong vũ trụ.

Giống như từ “thầy giáo” không hạn định nơi Khổng Tử tiên sư chí thánh, mà là chỉ chung cho những người “truyền đạo, truyền nghề”.

Sau khi định nghĩa Phật rõ ràng rồi, chúng ta có thể hiểu Phật giáotôn giáo y theo ngôn hạnh giáo hóa của Đức Thích Ca Mâu Ni làm trung tâm sáng lập.

Nói một cách đơn giản, “những lời dạy bảo và khai thị của Phật” gọi là Phật giáo.

Hết thảy đạo lýPhật giáo giảng dạy chúng ta bình thường gọi là “Phật học”. Phật học bao gồm ba tạng mười hai bộ, tám vạn bốn ngàn pháp môn tu hành. Là một môn học vấn tinh thâm, phong phú.

C/ Phật giáoPhật học

Phật họcPhật giáo trên thực tếhai mặt một thể, hai thứ này hỗ tương nhau mà thành. Phật giáo cần phải lấy Phật học làm nội dung, nếu khôngPhật học bổ sung thì cũng như tôn giáo thông thường chỉ trọng hình thức và nghi thức. Ngược lại Phật học còn cần đến sự tuyên dươngthực hành của Phật giáo, nếu không Phật học dùng để làm gì ? Không những đối với sinh hoạt của nhân loại không có lợi ích, mà còn không giúp gì cho nhân quần xã hội.

Phật giáo thường lấy “tín, giải, hành, chứng” làm bốn biện pháp tu hành, (“giải” là cần phải nghiên cứu Phật học, “hành” là nỗ lực thực hành). Chủ trương hành giải đều xem trọng, cũng ý là tri hành hợp nhất.

Mối quan hệ hữu quan giữa “Phật học và Phật giáo” xin mời các bạn học hãy xem “Lý luận và thực tiễn của Phật học”, một bản thảo diễn giảng của tôi lúc còn học Đại học, ít nhiều cũng giúp cho các bạn học hiểu được sự trọng yếu của “tri hành hợp nhất”.

Lý luậnthực tiễn của Phật học

Phàm người có đôi chút nghiên cứu đối với Phật học đều phải thừa nhận : Phật họchệ thống tư tưởng nghiêm cẩn, có phương pháp suy lý tỉ mỉ chu đáo. Tôn Trung Sơn tiên sinh có nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Điều này thuyết minh đầy đủ cơ sở lý luận Phật họckiến lập ở trên nguyên lý khoa học. Lương Khải Siêu tiên sinh cũng cho rằng : “Phật học là trí tín, chẳng phải là mê tín”. Điều này cũng cùng một kiến giải với Tôn Trung Sơn.

Chúng ta đều biết, tam tạng mười hai bộ Kinh của Phật học, bao quát tám vạn bốn ngàn pháp môn trong ấy, nói có nói không, nói Hiển nói Mật, nói Giáo nói Thiền, không ngoài Chân đếTục đế, chính là hai bộ môn lớn của thế gian phápxuất thế gian pháp. Từ thành trụ hoại không của tự nhiên giới, nói đến sinh lão bệnh tử của hiện tượng sinh mạng nhân loại. Từ pháp Tiểu thừa “độc thiện kỳ thân”, nói đến pháp Đại thừa “kiêm thiện thiên hạ”. Từ hình hình sắc sắc của thế giới khách quan, nói đến vọng niệm vô minh nội tại tâm linh chúng ta. Về phương diện thời gian thì xuyên suốt quá khứ, hiện tạivị lai; về phương diện không gian thì tận cùng tam thiên đại thiên thế giới.

Hệ thống lý luận toàn mỹ này, đối với tư tưởng giới xưa nay, có thể nói là độc nhất vô nhị, do đó những bậc trí thức đều nhất trí tán thán. Song người năng hoằng đạo, chứ chẳng phải đạo hoằng người. Công tác hoằng pháp lợi thế không phải dễ dàng, nghiệp nhà Như Lai cũng không phải người thường có thể đảm trách. Ngũ giới Thập thiện của nhân thiên thừa vốn không dễ giữ gìn, Lục độ vạn hạnh của Bồ tát thừa càng không phải dễ tu. Không phải một bước mà có thể lên trời, trong nháy mắt mà có thể công hiệu, phải trải qua tu hành ba đại a tăng kỳ kiếp mới có thể viên chứng thành Phật. Có một số người nghiên cứu Phật học, chỉ chú trọng ở giai đoạn nghiên cứu mà không chịu đi vào thực tiễn, thực chứng, sự thiên lệch này cần phải tu chỉnh lại.

Xem trọng lý luận mà không xem trọng thực tiễn, kết quả là sản sinh ra bao nhiêu tệ nạn. Như lão sư Khưu Nam trong cuốn “Ngôn Hy Ngũ Luân” của ông có nói : “Bi kịch của tri thức là chỉ dừng ở một khía cạnh bác học, mà không quan tâm đến công phu thực hành, việc học như thế sẽ là một khối tri thức băng giá, thiếu ánh sáng và hơi ấm”. Chúng ta nên biết bác học chính là nghiên cứu lý luận, mà thực hành chính là công phu thực tiễn. Nếu chúng ta đối với Phật học chỉ dừng ở chỗ nghiên cứu lý luận về phương diện bác học, mà không quan tâm đến công phu thực hành, thì Phật học sẽ mất đi ý nghĩatinh thần của nó, mà trở thành một khối tri thức băng giá.

Xem trọng lý luận, không xem trọng thực hành, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc suy vi của Phật giáo Trung Quốc cận đại. Phật học nếu biến thành huyền học chỉ có lý luận thâm áo, mà không ứng dụng vào sinh hoạt nhân loại, há không phải là cất lâu đài ở không trung, khiến cho người ta không biết đâu mà dự đoán thì làm thế nào có thể phát sinh tác dụng chỉ đạo nhân sinh ? Đó chẳng phải là sự bất hạnh của Phật giáo sao ?

Quý vị đều hiểu Phật giáotôn giáo xem trọng thực chứng, chú trọng công phu thể nghiệm tự ngã, cái gọi là “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”, chính là ý nghĩa này. Đồng thời hết thảy lý luận của Phật học đều dựa theo nhu yếu của việc học Phật mà sản sinh, trái lại “nói ăn mà không ăn” thì không có ích gì. Chúng tôi có thể đưa ra một thí dụ để thuyết minh. Ví như hiện nay chúng ta muốn đến Cao Hùng, lý luận của Phật học giống như một bản đồ, nó chỉ cho chúng ta phương hướng đến Cao Hùng, có thể đi máy bay, tàu hỏa, tàu thủy, cũng có thể đi bộ hoặc cưỡi ngựa. Phương hướng tuy rất nhiều, tất cả đều có sẵn rồi, song có một sự thậtchúng ta không thể phủ nhận là : Nếu chúng ta không chịu cất bước đi, nhắm về hướng Cao Hùng mà cứ nói tiến tới thì vĩnh viễn chúng ta không bao giờ tới Cao Hùng được cả.

Nói đi rồi nói lại, Phật học là hợp nhất lý luậnthực tiễn, tương bổ tương thành. Nếu khônglý luận làm cơ sở, thì không thể thu hút được sự tín ngưỡng của quảng đại quần chúng. Cũng thế, Phật học nếu không trải qua công phu thực tiễn, sẽ vĩnh viễn không phát huy được hiệu dụng cứu dân độ thế, cũng không đạt đến mục đích tu hành chứng quả. Do đó hôm nay, chúng tôi muốn đề xuất khẩu hiệu “Lấy thực hành để ấn chứng lý luận, lấy lý luận để chỉ đạo thực hành”, đem lý luậnthực hành hòa tan làm một thể. Vẫn biết phiền não của thế tụcvô tận, chúng ta cần phải hạ quyết tâm diệt trừ nó. Vẫn biết chúng sinh trong biển khổ là vô biên, bao nhiêu người đang rên xiết trong nước sôi lửa bỏng, biết bao người bị đói rét hành hạ khóc than thảm thiết, vì thế chúng ta phải học tập tinh thần lợi tha của đức Quán Thế Âm Bồ tát chèo thuyền từ tầm thinh cứu khổ. Noi theo tâm lớn nguyện lớn của đức Địa Tạng Vương Bồ tát, thay chúng sinh chịu hết thảy khổ “chúng sinh độ tận, mới chứng Bồ đề, địa ngục chưa hết, thề không thành Phật”, dù thịt nát xương tan, nước sôi lửa bỏng cũng không hối tiếc. Chúng ta đã biết Đức Phật là bậc đại trí đại giác Vô thượng Chính đẳng Chính giác, thì không thể sợ khó mà không tiến tới, nhất định phải dũng mãnh tinh tiến, hướng về chân trời chân lýtiến tới.

Từ trong sự nghiên cứu lý luận Phật học, chúng ta biết rằng Đại thừa Phật pháp mới là bản ý của Như Lai. Mục đích thực tiễn của chúng ta cũng phải lấy tinh thần Đại thừa làm y cứ, không lấy làm tự mãn nơi Tiểu thừa. Chúng ta không những độc thiện kỳ thân, mà còn phải kiêm thiện thiên hạ. Đem hết nghị lực của chúng ta, quán triệt quyết tâm của chúng ta, nỗ lực làm người bậc nhất trong thế gian, làm sự việc bậc nhất trong vũ trụ. Đó chính là công việc thiêng liêng tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, hoằng pháp lợi sinh của người Phật tử.

Sau cùng, tôi mong trách nhiệm “Hoằng dương Phật pháp Đại thừa, phục hưng Phật giáo Trung Quốc” được các vị sư trưởng và các bạn đồng học quan tâm hơn nữa.

D/ Thần vì sao sinh ra ?

Các nhà tâm lý họctôn giáo học cận đại cho chúng ta biết rằng : Thần là do người sáng tạo ra.

Người ta vì sao lại phải sáng tạo ra thần ? Phân tích một cách đơn giản là :

Đời xưa khoa học chưa tiến bộ, người ta không thể hiểu được đối với đại tự nhiên, họ không thể kháng cự lại với thiên tai động đất của đại tự nhiên, bèn sinh ra lo sợ và cho rằng nhất định có một “thứ” gì đó tạo ra và gọi đó là “Thần”.

Họ thấy chớp xẹt sấm nổ làm tổn thương đến người và súc vật, dẫn đến hỏa tai bèn cho rằng có “Ông Sấm” “Bà Chớp”; thấy hồng thủy trào dâng mặt đất bèn cho là có thần sông.

Căn cứ vào sự khảo cứu của các học giả chuyên gia thì thần mà người ta sùng bái, “bịa đặt ra” rất nhiều, có đến ba ức ba ngàn vạn vị, các bạn thấy có kinh khiếp không ?

Đa số những thần ấy đại biểu cho sự vô tri và lo sợ của loài người đối với đại tự nhiên. Thế nhưng sau này do sự tiến bộ của khoa học, tất cả những hiện tượng của vũ trụ đều được giải thích một cách rõ ràng.

Sau khi đã biết rõ hiện tượng của sấm chớp, sét đánh rồi ai lại còn tin có thần sấm chớp nữa ? Sau khi đã hiểu việc khai thông sông ngòi có thể phòng ngự được hồng thủy, thì thần sông coi như tiêu vong.

Sự tiêu vong của một số thần này đại biểu cho điều gì ? Đó là đại biểu cho sự tỉnh giác của lý trí loài người. Loài người đã vận dụng trí lực của bản thân mình, có thể đấu tranh với đại tự nhiên. Quan niệm “nhân định thắng thiên” đã thâm nhập vào trong tâm của họ. Người ta không còn phải là con cừu non đáng thương hại van xin ơn thần ban bố phước lành nữa.

Thần là do loài người không hiểu rõ vũ trụ nhân sinh nên đã ảo tưởng ra. Khoa học của loài người ngày càng tiến bộ, lý trí của loài người ngày càng sáng suốt, người ta sẽ không còn tin thần nữa.

Bạn biết không? Thần là trừu tượng, không thể nắm bắt được. Thần trên thực thể vốn không thể cầu được. Bởi vì lúc loài người lấy hình tướng của mình để tạo ra thần thì thần ấy vốn không phải thực thể (cũng không có pháp tạo). Thần mà loài người tạo ra chỉ là thần tâm lý, thần quan niệm mà thôi.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10506)
Tập Kỷ Yếu này ghi nhận lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những hình ảnh sinh hoạt của Trường Hạ Minh Quang như một món quà tinh thần kỷ niệm cuối khóa cho mọi hành giả tham dự khóa tu... Giáo Hội ÚC Châu
(Xem: 9602)
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời... Nhất Hạnh
(Xem: 9286)
Toàn bộ mục tiêu của tôn giáophổ cập từ ái và bi mẫn, nhẫn nhục, bao dung, khiêm tốn, tha thứ... Dalai Lama
(Xem: 31312)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 20739)
Những bài nói chuyện trong tập sách này được đề cập đến những vấn đề rất tổng quát của tâm, nhân dịp Lạt ma Yeshe đi thuyết giảng vòng quanh thế giới lần thứ hai cùng với Lạt ma Zopa...
(Xem: 23174)
Thơ Văn Lý Trần - Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977, Nhiều Tác Giả
(Xem: 17796)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 11668)
Mục đích có được thân người quý báu này không phải chỉ để tạo hạnh phúc cho chính mình, mà còn để làm vơi bớt khổ đau, đem lại hạnh phúc cho người. Đó là mục đích đời sống.
(Xem: 21471)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 8783)
Đại ý bài kinh đại khái nói về việc ngài Anan thưa hỏi đức Thế Tôn về việc phụng sự Phật phápkiết tường hay hung tai? HT Thích Minh Thông
(Xem: 22259)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 13353)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38565)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 13491)
Nhà Sư Vướng Lụy hay truyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly - Nguyên tác Tô Mạng Thù; Bùi Giáng dịch
(Xem: 24407)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 15004)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24750)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 10214)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
(Xem: 17678)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22811)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 22708)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7555)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng...
(Xem: 14103)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 27118)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 26860)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 19907)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20890)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21433)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13238)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
(Xem: 13376)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 29924)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 13920)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13963)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 32544)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 24116)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 29855)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31640)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 34232)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 18504)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
(Xem: 19543)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 32904)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 18764)
Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng.
(Xem: 30899)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 16168)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26822)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 32680)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39432)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40535)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 19350)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
(Xem: 19336)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant