Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Nghiệp quảTài năng

25 Tháng Hai 201100:00(Xem: 5477)
07. Nghiệp quả và Tài năng

THANH TỊNH TÂM
 Lê Sỹ Minh Tùng

07. Nghiệp quảTài năng

Trên thế giới hiện nay có trên 6 tỷ người, nhưng khoa học chứng minh rằng cấu trúc não bộ của mỗi người hoàn toàn khác nhau cho nên trí thông minh cũng không đồng đều. Trong xã hội, có người sáng suốt cũng có kẻ ngu si. Có người thích âm nhạc còn kẻ khác giỏi về kinh doanh. Đôi khi có những thần đồng siêu việt về toán học hoặc có thể nói được nhiều thứ tiếng khi mới lên 3 tuổi.

 Năm 1955 hai nhà vật lý học Anh Quốc Louis Essen và Jack Parry đã phát minh ra cái đồng hồ nguyên tử đầu tiên bằng cách đo lường sự rung động của ánh sáng phát sinh từ chất nguyên tử Cesium. Cái đồng hồ nầy rất chính xác với độ sai biệt là một giây trong 300 năm.

 Năm 1894 một thiếu niên rất trẻ người Ý tên là Guglielmo Marconi đã dùng làn sóng của điện từ trường để gởi những tín hiệu qua không gian và đây là sự phát minh cho cái radio đầu tiên.

 Nhà Bác học Einstein đã chứng minh thuyết Tương đối vào lúc mới 25 tuổi trong khi rất nhiều khoa học gia ngày nay chưa chắc đã hiểu hết về thuyết nầy.

 Vậy những nhà bác học, học giả… thì chúng ta gọi họ là những người trí thức. Như thế thì trí thứctrí tuệ khác nhau ở chỗ nào? 

 Theo nghĩa thông thường thì nhà bác học là người nghiên cứu, nghiền ngẫm, phân tích và phát minh thêm những sáng tạo mới cho nhân loại, còn học giả là người lượm lặt những hiểu biết của người khác. Họ thu góp những cái hay, cái đẹp, cái lạ của người rồi cho đó là kiến thức của mình. Sau cùng trí thức là do ý thức nhanh nhẹn khéo léo, so sánh phân biệt, nhận định tường tận làm cho người nghe dễ nhận dễ hiểu. Như vậy những nhà bác học, học giả hay trí thức đều nhắm vào những điều kiện vật chất để kiến tạo, vun bồi cho đời sống thêm sung túc, tốt đẹpgiàu có hơn. Nhưng tất cả việc làm của họ đều thuộc về pháp sanh diệt của thế gian mà thôi, có nghĩa là được rồi sẽ mất.

 Còn chúng ta là người học Phật thì lấy trí tuệ làm gốc. Mà trí tuệ có hai loại là trí tuệ hữu lậutrí tuệ vô lậu.

 1) Trí tuệ hữu lậu chính là Văn, Tư, Tu. Văn là học những lời dạy của Phật để thấy được chân lý về sự liên quan của con ngườivũ trụ. Tư là tư duy, suy nghĩnghiền ngẫm để thấy rõ những chân lý của Phật một cách chính xác. Còn Tu là ứng dụng, thực hành những chân lý của Phật dạy để tâm không còn ô nhiễm và dính mắc các pháp sinh diệt ở bên ngoài. Tuy nhiên trí tuệ hữu lậu vẫn còn rơi rớt trong vòng sanh tử luân hồi.

 2) Trí tuệ vô lậu chính là Giới, Định, Tuệ. Giới là khuôn vàng thước ngọc giúp cho chúng ta đi đúng con đường chánh đạo. Có giới mới sanh định, có nghĩa là những ý thức lăng xăng được lắng xuống và từ định mới sanh trí tuệ. Cái trí tuệ nầy không phải do học mà có, nhưng nó chính là sự tạo thành bởi sức công phu tu tập bền vững. Trí tuệ nầy chính là trí tuệ chân thật và cũng chính là tánh giác của chúng ta. Nếu chúng ta biết sống với cái tánh giác chân thật nầy thì sẽ không còn tạo nghiệp và dĩ nhiênsanh tử luân hồi cũng vì thế mà dừng.

Tóm lại, người thông minh trí thức ở ngoài đời là do khả năng lượm lặt của người làm của mình, nhưng không có gì thật là của mình cả. Còn người tu Phật là phải gạt bỏ tất cả những thứ bên ngoài để cho tâm được trong sáng và khi đó tánh giác sẽ hiện bày. Như vậy, nền giáo dục của thế gian là thu vào, thu vào càng nhiều thì càng thông minh trí thức, còn người tu Phật thì phải bỏ ra, càng bỏ ra thì tâm càng thanh tịnh và tánh giác mới hiện bày. Đây mới chính là trí tuệ chân thật có sẵn trong tất cả mọi người

Tùy theo nghiệp đời trước, sự cấu trúc não bộ của mỗi người cũng khác nhau. Do đó chính nghiệp đã chi phối sự phối hợp cũng như phân chia các phân tử di truyền (gene) và các tế bào của não bộ đã dựa vào các gene nầy để phát triển. Trong hệ thống não bộ có hai loại quả báo để tạo thành tài năng của con người:

1) Đây là loại quả báo tạo thành tế bào não bộ để có một khả năng thông minh nhất định, tức là cái vốn có sẵn.

2) Loại quả báo nầy tạo thành môi trường giáo dục để chuyển hóa tư tưởng của họ trở thành người tốt hay xấu.

Nếu phối hợp hai quả báo nầy với nhau thì tài năng của một người được hình thành.

Thí dụ như có những người được phước thông minh nhưng không có phước về học vấn nên tài năng bị hạn chế. Ngược lại, có người tuy kém thông minh, nhưng được ở trong môi trường giáo dục tốt, gặp thầy giỏi, cha mẹanh chị chăm sóc dạy dỗ tường tận nên cũng trở thành người giỏi. 

Mặc dù não bộ con người đã hình thành xong từ khi còn nằm trong bụng mẹ, có nghĩa là nghiệp quả đã quy định xong mức độ thông minh của từng người, nhưng trên thực tế thì cái thông minh của họ cũng bị thăng trầm tăng giảm tùy theo duyên nghiệp. Vào những giai đoạn phước lành xuất hiện, người đó bỗng nhiên sáng suốt lạ thường do đó trí thông minh được tăng trưởng đến cực độ khiến họ trở thành người tài giỏi. Đến khi phước đã hết thì cũng con người đó mà họ trở thành lú lẫn mờ mịt, không thể nhìn xa thấy rộng và dĩ nhiên dễ đi vào con đường thất bại.

Trường hợp điển hình là khi thời vận tốt, tức là phước đức đang đến, thì doanh gia tiên đoán trước sự thay đổi của thị trường để đầu tư thích hợpđạt được thành công lớn. Đến khi phước đã hết, họ tiên liệu sai lầm và đầu tư không đúng chỗ thành thử bị phá sản.

Thời Tam quốc bên Trung Hoa khoảng 200 năm sau Tây lịch, Khổng Minh Gia Cát Lượng là một nhận vật siêu phàm, trí tuệ không ai sánh kịp. 

Chẳng những là một quân sư đại tài, ông còn là một anh hùng trung liệt cố giúp cho Lưu Bị phục hồi nhà Hán. Ông mưu tính như thần lại có kiệt tài giúp sức thì tại sao sáu lần ra Kỳ Sơn để đánh nhà Ngụy của Tào Tháo và Tư Mã Ý vẫn không thành đạt? Biết mạng mình sắp hết, ông lập đàn cúng sao để cầu được sống thêm 10 năm nhưng không được nên sau cùng thốt ra câu:”Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên!”. Tại sao ông trời không chìu lòng Khổng Minh? Nhà Hán làm vua trên 400 năm thì cái phước đức do tiền nhân tạo ra đã hết. Một triều đại kéo dài như vậy thì có rất nhiều vị vua không nhân từ, tạo nhân dữ nhiều hơn nhân lành khiến lòng dân ta thán. Khi phước đức nhà Hán đã cạn thì dầu có mười Khổng Minh giúp cũng vẫn thất bại như thường. Vì thế nếu Khổng Minh có tái sinh thì nhà quân sư đại tài nầy sẽ nói lại rằng: ”Lượng sự do tâm, thành sự do nghiệp” là đúng.

Khi duyên đã đến, Luật Nghiệp Quả tức thì chi phối tận trong tâm thức sâu kín của con người khiến họ dự tính hay hành động tương ứng với nghiệp mà họ đã tạo thành. Chẳng hạn khi quả báo lành xuất hiện, nó thúc đẩy tâm con người khởi ra những dự tính khôn ngoan và chính xác do đó họ nỗ lực hành động và dĩ nhiên là sẽ thành công. Ngược lại khi quả báo dữ xuất hiện, nó thúc đẩy tâm con người mưu tính chuyện trật đường rầy để họ rơi vào chỗ thất bại.

Thật vậy chính cái phước trong quá khứ xa xăm đã tạo ra những cái sáng suốt kỳ diệu trong hiện tại khiến họ suy nghĩ đúng và dĩ nhiên họ sẽ hành động đúng. Phước đức càng to thì khả năng thành công càng lớn khiến họ trở thành giàu có

Như vậy tất cả những phước nghiệp như bố thí, cúng dường, giúp đỡ người nghèo khó, bênh vực kẻ thế cô, săn sóc người bệnh tật… đã góp phần tạo ra trí sáng suốt cho những đời sau. Nhưng nếu phước nghiệp được kết tạo liên tục lâu bền thì họ sẽ nhận được tính thông minh mãi mãi. Còn nếu phước nghiệp được tạo theo kiểu “văn nghệ” có nghĩa là lúc thích thì làm, lúc chán thì thôi, thì đời sau họ có được một trí thông minh cũng “văn nghệ”. Đó là lúc thì khôn ngoan mà cũng có khi thì khờ khạo. 

Trong kinh Bổn Sanhcâu chuyện Đức Phật kể về trưởng lão Cella Panthaka. Trong những đời quá khứ, trưởng lão là một người học nhiều hiểu rộng, nhưng vì tự cao về tài trí của mình nên trưởng lão đã cười khinh bỉ một huynh đệ thiếu thông minh khiến vị đó buồn tủi mà không thể tiếp tục học tập kinh điển. Vì gây nghiệp như thế nên khi sanh vào thời Đức Phật, trưởng lão phải chịu quả báo làm người đần độn một thời gian, cho đến một bài kệ ngắn cũng không thuộc nổi. Đến khi nghiệp hết, Đức Phật dùng phương tiện khai ngộ khiến cho trưởng lão chứng được quả vị A La Hán. Như vậy, khi nghiệp liên đới không còn thì sự thông minh uyên bác phát triển mãnh liệt khiến cho trưởng lão trở thành một người biện tài thuyết pháp vô ngại làm cho đại chúng kinh ngạc thán phục vô cùng.

Chính thái độ khinh thị người dở của trưởng lão Panthaka khiến cho Ngài chuốc lấy quả báo kém tài năng. Nhưng thói đời thì con người lúc nào cũng thế, chúng ta luôn kính phục trước bậc kỳ tài và coi thường kẻ kém cỏi. Sự kính trọng bậc kỳ tài tạo ra quả báo tốt về sau, trong khi khinh thường người dở cũng tạo quả báo bất lợi cho mình. Như vậy con đường hạnh phúc viên mãn là chẳng những chúng ta luôn kính trọng người có tài mà lúc nào cũng giữ được sự thương mến với kẻ kém cỏi. Có như thế thì chắc chắn sẽ tránh được quả báo xấu về sau.

Một tính chất đặc thù khác của Luật Nghiệp Quảcon người từ những đời trước đã tạo những nghiệp nhân khác nhau cho nên quả báo họ có các năng khiếu sai biệt cho đời nay mà có người gọi là năng khiếu bẩm sinh. Đó là trường hợp có người chỉ thích âm nhạc, còn kẻ khác lại say mê về khoa học, chính trị, lịch sử hay võ thuật…Chẳng hạn như có người hiện tại rất say mê âm nhạc tức là người đó đã tạo cho mình một năng khiếu âm nhạc cho kiếp sau. Nhưng không có nghĩa là người đó có thể mang cái say mê âm nhạc sang đời sống kế tiếp. Cái say mê âm nhạc bây giờ chính là Ý Nghiệp mà họ đã tạo ra và chính cái ý nghiệp nầy sẽ tạo thành nhân cách của họ cho đời sau mà thôi. Thí dụ một vị bác sĩ hành nghề mà thiếu lòng vị tha, chỉ tìm cách làm giàu, có nghĩa là Ý Nghiệp xấu sẽ bị Quả báo nhân cách xấu, thì quả báo đời sau nghiệp y khoa họ vẫn còn đeo đuổi nhưng không còn là bác sĩtrở thành y tá. Ngược lại một y tá bình thường nhưng tâm hồn quảng đại, tận tình chăm sác cho bệnh nhân thì kiếp sau nghề nghiệp tăng trưởng người ấy sẽ trở thành vị bác sĩ giỏi.

 Vậy tài năng của con người là sự kết tập từ vô số nghiệp nhân của tiền kiếp và tất cả chỉ được phát triển nếu họ có tâm hồn vị thaquảng đại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14901)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17835)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18246)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15016)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13217)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21204)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32644)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15335)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12377)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12849)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27577)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12167)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 35001)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17778)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11848)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12663)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14582)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32505)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19477)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12990)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14108)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14285)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15341)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14168)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14156)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11966)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53240)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11685)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13936)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13833)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20740)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14324)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13443)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13645)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34241)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16244)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14087)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14228)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13575)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15958)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13537)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 23051)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27799)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13927)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 25020)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13967)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31389)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13879)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15573)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 15010)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant