- 01. Luân hồi
- 02. Hiện tượng khi chết
- 03. Con người và nghiệp quả
- 04. Nghiệp Sát hại
- 05. Nghiệp quả và Tướng diện
- 06. Nghiệp quả vả Sức khỏe
- 07. Nghiệp quả và Tài năng
- 08. Nghiệp quả và Nhân cách
- 09. Nhân cách và Tình cảm
- 10. Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp
- 11. Chuyển Nghiệp
- 12. Tôn giả Xá Lợi Phất (Đệ nhất trí huệ)
- 13. Tôn giả Mục Kiền Liên (Đệ nhất thần thông)
- 14. Tôn giả Đại Ca Diếp (Đệ nhất tu khổ hạnh)
- 15. Tôn giả Ca Chiên Diên (Đệ nhất luận nghị)
- 16. Tôn giả Phú Lâu Na (Đệ nhất thuyết pháp)
- 17. Tôn giả A Na Luật (Đệ nhất thiên nhãn)
- 18. Tôn giả A Nan (Đệ nhất đa văn)
- 19. Tôn giả La Hầu La (Đệ nhất mật hạnh)
- 20. Tôn giả Tu Bồ Đề (Đệ nhất giải Không)
- 21. Tôn giả Ưu Bà Ly (Đệ nhất trì giới)
Lê Sỹ Minh Tùng
11. Chuyển Nghiệp
Con
người từ trong quá khứ đã tạo biết bao Nghiệp Báo, mà
cứ mỗi nghiệp chính là một nét vẽ, một vết mực điểm
tô dần dần để hoàn thành bức tranh cho cuộc đời của
họ ở đời sau. Một lời nói thiện vừa thốt ra thì lập
tức một niềm vui đã hình thành và ngược lại, một hành
vi ác vừa thực hiện xong thì Luật Nghiệp Quả vô hình cũng
lập tức kiến tạo một nỗi khổ để sắp đặt cho họ
phải thọ lãnh ở đời sau. Do đó bao nhiêu hạnh phúc, khổ
đau, cay đắng hay vinh quang đều đã được hình thành xong
từ kiếp trước.
Như
vậy khi con người vừa mới kết tinh vào noãn bào của người
mẹ thì hài nhi đã cưu mang một định mệnh do chính nó tạo
ra từ kiếp trước. Vâng, cái định mệnh vô hình nầy sẽ
quyết định mọi thưởng phạt cho cuộc đời của nó khi
nó lớn lên. Nhưng đây là một định mệnh không do thần
linh áp đặt mà do chính nó tự tạo lấy cho mình. Vậy con
người có thể thay đổi được cái định mệnh nầy không? Hay là với những nghiệp đã hình thành, con người bị sức
mạnh của nghiệp cuốn trôi khó mà chống lại?
Để trả lời nghi vấn nầy, trong kinh A Hàm, Phật có dạy:
- Người gây nhân bất thiện, dù đời trước hay sau, nếu họ
biết tu tâm, tu thân và tu giới thì quả sẽ đổi thay. Còn
nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu tâm, tu thân
và tu giới thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân
nào quả nấy và nếu gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì
quả cũng đổi thay.
Chính
Đức Phật đã cho chúng ta một nhận định rõ ràng về cuộc
sống để chúng ta không còn bận tâm về sự may rủi thành
bại trong đời. Nhưng làm thế nào để chuyển nghiệp?
Tâm
hồn của chúng ta đã tích lũy biết bao khuynh hướng vị kỷ,
tham lam, thù hận, đố kỵ, hơn thua… từ bao nhiêu đời bao
nhiêu kiếp. Vì chúng nó là Ý nghiệp của đời quá khứ nên
đời hiện tại tất cả những khuynh hướng bất thiện nầy
thúc đẩy chúng ta tiếp tục tạo tác những hành vi bất thiện
để đưa chúng ta mãi mãi vào con đường tối tăm tội lỗi.
Vậy muốn chuyển nghiệp chúng ta phải cố gắng chuyển hóa
nội tâm của mình trước đã, rồi hành động và hoàn cảnh
sẽ dần dần thay đổi theo sau.
Trong
xã hội có nhiều người nhận thấy cuộc đời của họ không
được may mắn, khổ nhiều hơn vui và thường gặp cảnh trái
ý nghịch lòng. Vì tin sâu vào luật Nghiệp Quả nên họ công
nhận rằng trong đời quá khứ họ ít làm việc phước mà tạo quá nhiều nghiệp bất thiện. Vì khao khát muốn chuyển
nghiệp, họ đi chùa cầu nguyện sự gia bị của thần thánh.
Họ cúng dường một mà muốn hưởng phước đức tới mười.
Họ cũng chịu khó làm những việc thiện khác, nhưng nội
tâm tham lam, ích kỷ vẫn còn nguyên vẹn. Đối với họ thì
làm việc thiện vì muốn quả báo tốt cho chính họ chứ không
phải tình thương chân thật đối với con người. Chính họ
đã xây lâu đài phước thiện trên bãi cát vì nó không xuất
phát từ nội tâm thuần thiện nào cả. Theo luật Nghiệp Quả
thì đời sau họ sẽ gặp nhiều may mắn, nhưng trong họ bản
chất tham lam, ích kỷ vẫn còn và chính bản chất tham lam
ích kỷ nầy sẽ thúc đẩy họ làm các việc bất thiện khác.
Vậy
tu tâm hay chuyển hóa nội tâm là cố gắng loại bỏ cho được
lòng tham lam, tính sân hận và tật si mê… Tham thì có nội
tham như tham ăn, tham uống, tham mặc, tham sống lâu… và ngoại
tham như tham tiền, tham sắc, tham danh, tham lợi… Ăn thì lúc
nào cũng muốn ăn ngon, ăn no đủ, còn ngủ thì phải ngủ
cho đủ giấc, hay nệm ấm gường êm… Ai đụng đến chút
tự ái là nổi điên và hễ thấy vật đẹp, cao quý thì muốn
chiếm lấy. Đây là tâm trạng chung của con người vì tham,
sân, si đã ăn sâu vào trong tiềm thức của chúng ta từ bao
nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Do đó chuyển hóa nội tâm là phải
can đảm từ bỏ cho được tham, sân, si để tâm được sáng
suốt. Một khi tâm được sáng suốt thì thân khẩu ý trở
thành thanh tịnh và dĩ nhiên con người sẽ không còn tạo
nghiệp nữa.
Phật
dạy tu thân là thân nầy không làm điều ác dù lớn hay nhỏ
đều phải tránh xa. Còn điều thiện thì phải cố gắng hoàn
thành. Còn tu giới là người Phật tử phải giữ tròn ngũ
giới, đó là không được sát sanh, không được trộm cướp,
không được vọng ngữ, không được uống rượu và không
được tà dâm. Tuy nói tu tâm, tu thân và tu giới nhưng chủ
yếu vẫn là tu tâm. Nếu chúng sinh tu tâm được viên mãn
thì mọi nghiệp chướng không còn do đó nghiệp khổ sẽ chấm
dứt và cuộc đời sẽ được an vui tự tai.
Đức
Phật dạy nguyên nhân của mọi đau khổ là vô minh và ái
dục, hay nói một cách khác chính lòng tham lam, sân hận, si
mê là nguồn gốc của mọi tranh chấp, oan trái để rồi đem
đến những sự lo âu sầu muộn và bất mãn. Con đường chuyển
hóa nội tâm thiết thực là chúng ta phải biết giữ mình
theo Giới, Định, Huệ để có thể diệt trừ tham, sân, si
thì đời sống sẽ được tự tại bởi vì tham thì có thể
phá giới, sân thì có thể phá định, còn si thì có thể phá
tuệ.
Một
số người nói rằng điều kiện của một đời sống hạnh
phúc là có sức khỏe, có tiền tài và có địa vị trong xã
hội, nhưng một đời sống hạnh phúc chân thật chưa chắc
đã hoàn toàn dựa vào những điều kiện vật chất như thế.
Chẳng hạn như một người mạnh khỏe lại dùng sức mạnh
của mình làm những điều tội lỗi thì chẳng được ích
lợi gì. Còn người giàu sang mà sống bỏn xẻn, ích kỷ,
tham lam vô độ thì chính họ chẳng tìm được hạnh phúc
cho chính mình mà còn làm hại đến kẻ khác. Người có địa
vị lại lạm dụng quyền hành thì chỉ rước thêm oan trái
oán thù mà thôi. Như thế thì tiền tài danh vọng chưa phải
là yếu tố chính cho một đời sống hạnh phúc mà điều
kiện tiên quyết để đem lại an vui là phải có tinh thần
sáng suốt và lành mạnh. Được tinh thần sáng suốt lành
mạnh nầy thì sẽ không còn bị dục lạc, oán thù hay mê
loạn chi phối. Vì thế Phật lại dạy rằng:
- Người tùy theo thế tình thức là chạy theo tham cầu danh vọng.
Khi được công danh hiển đạt, thì thân thể đã già yếu.
Kẻ tham danh lợi ở đời mà không lo học đạo thì chỉ uổng
công nhọc xác mà thôi. Ví như cây hương đốt, khi được
người ta ngửi thấy mùi thơm thì thân hương đã hóa thành
tro bụi, vì lửa nung đốt cháy liền thân hương vậy.
Mặc
dù tôn chỉ của đạo Phật là giúp chúng sinh chứng ngộ
Niết Bàn, nhưng phát huy lòng từ bi, có nghĩa là đem
vui cứu khổ, vẫn là cứu cánh để chúng sanh đạt được
tâm thanh tịnh. Bởi vì nếu trong hiện tại tâm chúng ta được
thanh tịnh, không còn phiền não khổ đau thì đây chính là
Niết Bàn trong cuộc sống nầy vậy.
Thật
vậy, mục đích của đạo Phật là không dùng những triết
lý hay phương pháp tạm bợ để giúp con người khai trừ những
khổ đau hệ lụy trong nhất thời mà mục đích của đạo
Phật là giúp con người giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi
nô lệ của phiền não và khổ đau.
Muốn
chuyển hóa nội tâm được chu toàn thì trước hết chúng
ta phải phá tan cái bản ngã của mình. Trong kinh A Hàm, Phật dạy rằng một khi chúng ta chứng được “ngã không” nên
khi làm việc lợi ích cho người thì làm với một tâm niệm
vô tư, không dính mắc. Có nghĩa là khi làm việc thiện thì
đừng nghĩ đến lợi lạc cho mình mà hướng tâm về sự
lợi lạc cho chúng sanh do đó việc thiện đó sẽ mang nhiều
thiện quả về sau. Ví dụ như khi chúng ta đi chùa lạy Phật
thì thường hay cúng dường chút ít tiền hay hoa quả, nhưng
khi bái Phật thì chúng ta thường cầu nguyện cho con trai có
vợ đẹp, con gái có chồng giàu sang, làm ăn mua may bán đắt,
bà con thân quyến được bình an mạnh giỏi… Như vậy chúng
ta đi chùa với tinh thần bản ngã là cầu lợi cho mình nên
không đúng với lời Phật dạy. Mục đích tới chùa lạy
Phật là để bớt tham mà chúng ta đi chùa lạy Phật mà lại
càng tham hơn thì một ngày nào đó cái bản ngã mê lầm của
chúng ta sẽ biến đạo Phật thành ra mê tín di đoan. Vì thế
chúng ta nên làm việc phước đức với lòng vô ngã, tức
là làm việc thiện mà không cần quả báo cho mình hay hướng
lòng từ bi về người khác, thì Luật Nhân Quả chẳng những
sẽ đền bù cho ta nhiều phước đức ở đời sau mà còn
tạo cho ta một nhân cách cao thượng và một tâm hồn trong
sáng để tiếp tục hưởng phước thiện và làm việc thiện.
Chúng
ta quỳ dưới chân Đức Phật, đầu ta cúi sát đất để
biểu lộ rằng chúng ta vô cùng nhỏ bé kém cỏi, còn Đức
Thế Tôn thì vòi vọi như núi cao biển rộng. Trong giây phút
thiêng liêng đó, cái ngã mạn tự cao âm thầm bên trong bị
lay động dữ dội bởi vì chúng ta ý thức được sự thấp
kém của mình bởi trước mắt chúng ta là đấng cao cả sáng
chói như ánh mặt trời rực rỡ. Thông thường, do lòng đố
kỵ và ích kỷ, chúng ta ít chịu chấp nhận cái hay của người
khác vì người khác nổi bật sẽ làm chúng ta bị lu mờ.
Chúng ta thờ ơ trước những ưu điểm của kẻ khác và vui
mừng khi tìm thấy khuyết điểm của người vì người lu
mờ thì ta sẽ nổi bật. Do tâm vị kỷ chúng ta dễ dàng rơi
vào cạm bẩy “tán kỷ, hủy tha”, tức là chê người, khen
mình. Đây là cội nguồn phát sinh ra phiền não và tạo nghiệp
cũng tại vì cái ngã mạn mà thôi. Phải đổi tính vị kỷ
nầy bằng tinh thần vị tha thì cuộc sống sẽ an vui tự tại.
Thấy họ giỏi thì khen, thấy họ giàu thì mừng, thấy họ
khổ thì giúp đỡ thì tâm không còn phiền não và lòng từ
bi xuất hiện để giúp chúng ta tạo thêm thiện nghiệp.
Giáo
lý đạo Phật là giúp con người tẩy trừ phiền não để
tâm được thanh tịnh. Tâm có thanh tịnh thì trí tuệ mới
phát sinh để giúp chúng sinh đi thong dong trong con đường chánh
đạo. Mà gốc của phiền não chính là tham, sân, si. Ví dụ
có người khoe rằng vì nhờ tu thiền hay niệm Phật nên có
thể xuất hồn đi ngao du khắp thế giới hay gặp được Phật
và Bồ Tát… Ngày xưa trong số đại đệ tử của Phật không
ai giỏi thần thông bằng tôn giả Mục Kiền Liên, nhưng thần
thông đâu có thắng nghiệp lực cho nên chính tôn giả cũng
phải bị bọn ngoại đạo lăn đá đến chết. Do đó chúng
ta không quan tâm đến chuyện xuất hồn đi ngao du sơn thủy
bởi vì nếu phiền não chưa dứt thì dù có ngao du ở đâu
rồi cũng phải trở về trần gian để thọ lãnh quả báo
đau khổ như thường.
Do
đó người tu Phật không cần phép mầu cao siêu huyền bí,
mà điều căn bản là phải tự xét mình để thấy rằng thân
làm, khẩu nói và ý tưởng suy nghĩ của mình có hợp với
Phật pháp hay không? Nói một cách khác khi đối diện với
ngoại cảnh thì chúng ta luôn luôn tự hỏi nếu việc đó
Phật và Bồ Tát có làm thì chúng ta làm, còn nếu họ không
làm thì chúng ta đừng nghĩ tới. Không làm điều ác tức
là không gây nghiệp, mà không tạo nghiệp thì khỏi lo đau
khổ và chặt đứt dây luân hồi.
Chuyển
nghiệp có nghĩa là chuyên làm việc thiện và tránh xa điều
ác. Nhưng muốn thực hiện hiệu quả điều nầy thì tâm của
chúng ta phải bền vững kiên trì để không chạy theo ngoại
cảnh ngay cả tám thứ gió phong trần cũng không lung lay thay
đổi được. Tám gió đó là:
1) Khi có nhiều tiền của, hoặc do mình làm ra, hoặc được biếu tặng, tâm có vui mừng chăng?
2) Đang có tiền của mà làm ăn lỗ lã, hay bị trộm cướp, hoặc oan gia phá tan, tâm có buồn chăng?
3) Người vô cớ làm nhục, tâm có buồn tức chăng?
4) Được danh tiếng tốt đồn khắp xa gần có thấy hài lòng không?
5) Được khen tâm có thấy vui chăng?
6) Bị chê trước mặt hay sau lưng, lòng có buồn chăng?
7) Gặp cảnh khốn khổ, thiếu ăn thiếu mặc, nhà cửa hư hại, có thấy nao lòng chăng?
8) Gặp cảnh thật vui, thật sung sướng, lòng có tham đắm chăng?
Nếu
tám thứ gió nầy thổi đến mà tâm chúng ta như như bất
động, đó là đắc đạo, là thành chánh quả. Nhưng chúng
ta là phàm phu chớ không phải thánh nhân do đó nếu muốn
tâm mình được như như bất động thì nên cố gắng theo
thời gian đánh tan từng ngọn gió một thì chắc chắn một
ngày nào đó tâm của chúng ta sẽ được thanh tịnh, có nghĩa
là đạt được cảm ứng ngoại bất chấp tướng nội bất
động tâm. Ví dụ như hiện tại chúng ta đang bị giặc bên
trong nổi loạn và giặc bên ngoài bao vây. Trước hết phải
chận giặc bên ngoài, tức là đừng cho lục trần quyến rũ
mê hoặc chúng ta, rồi sau đó vận dụng trí tuệ để dẹp
giặc bên trong, tức là đừng để lục căn bị sức lôi cuốn
của dục vọng từ bên ngoài. Chúng ta đóng sáu cửa thành
bên trong lại, tức là kiềm chế kiểm soát lục căn của
mình đừng để cho nó chạy theo ngũ dục lục tình, thì giặc
bên ngoài không có nội ứng mà tiến vào bên trong được.
Khi giặc trong ngoài biến mất thì chúng ta mặc tình ung dung
tự tại để tìm lại cuộc sống an vui và hạnh phúc. Vì
mỗi người chúng ta đều có thể tánh bất sanh bất diệt
gọi là chơn như hay Phật tánh. Lý do mà chúng ta không sáng
suốt là vì cái Phật tánh nầy bị các chủng tử nhiễm tịnh
che lấp làm cho vọng tưởng khởi dậy liên miên. Càng bớt
nhiều vọng tưởng thì càng dễ dàng khôi phục cái Phật
tánh nầy để tâm trở thành thanh tịnh.
Thời
nay người tu không quan tâm đến việc chứng ngộ bản tâm
thanh tịnh của mình để loại trừ phiền não.Thậm chí
có người lấy thời khóa tụng kinh làm sự nghiệp tu hành.
Khi Phật còn tại thế, chính Đức Phật và các vị đại
đệ tử A La Hán chỉ tọa thiền chứ không có tụng kinh.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, chư Tổ dạy ra sự tụng kinh
là muốn mượn phương tiện cho Phật tử kiềm chế vọng
tưởng của họ. Trong khi tụng kinh, tay gỏ mõ, tay đánh chuông,
ý duyên vào lời kinh thì thân khẩu ý được thanh tịnh. Nếu
tụng kinh được nửa giờ thì được thanh tịnh nửa giờ… Nhưng
người tu không tụng kinh với chủ ý ấy mà lấy sự tụng
niệm làm sự nghiệp. Cả đời tu thì sáng một thời công
phu, chiều một thời tịnh độ, còn bày ra cầu an cầu siêu,
loanh qoanh lẩn quẩn. Tâm mình thì chất đầy phiền não, vọng
tưởng mà lại đi cầu an cho người. Chính mình không siêu
nổi cho mình thì làm sao mà siêu cho kẻ khác được. Muốn
siêu thì tâm phải thanh tịnh, tinh khiết có nghĩa là không
còn tham, sân, si, ái dục, do đó tự mình đã không mang lợi
ích gì cho mình mà còn hướng dẫn người đi sai lầm nữa.
Thật là đáng thương xót. Tụng kinh là việc tốt, là việc
thiện, chỉ có việc không tốt là không hiểu được ý kinh
để áp dụng tu hành. Nếu biết nương theo kinh để thấy
được tánh giác của mình là chánh tín và nếu biết nương
theo kinh để cho thân khẩu ý được thanh tịnh là chánh đạo.
Kinh
Phật có câu: ”Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả” cho
nên một khi chúng ta gây ra một nghiệp căn nào thì nó sẽ
tồn tại mãi mãi cho đến khi hội đủ nhân duyên thì nó
sẽ thành cái quả và đó là kết quả của mọi sự khổ
vui của chúng ta trong đời nầy. Nhưng nếu chúng ta muốn chuyển
nghiệp thì phải cố gắng làm việc tốt, việc thiện thì
nhân duyên xấu không có cơ hội kết cấu với nghiệp bất
thiện để biến thành quả xấu mà tạo cảnh khổ cho chúng
ta. Vì thế muốn chuyển nghiệp viên mãn là phải tùy duyên
để tiêu nghiệp cũ bằng cách không được gây thêm nghiệp
mới. Bởi vậy cổ nhân mới có câu:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp
Thiết
mạt tạo tân ương.
Phật
lại dạy rằng:
- Quan sát tứ đại trong thân nầy, mỗi cái đều có tên riêng
như đất, nước, gió, lửa, thì không có cái nào có tên là
cái ta cả. Cái ta cũng không có thì thân nầy cũng giả dối,
không thật.
Thêm
nữa, trong kinh Tăng Nhất A Hàm, Đức phật cũng phân tích
rõ ràng là trong thân người ta có ba trăm sáu mươi lóng xương,
năm trăm mạch máu, năm trăm sợi gân, chín mươi ngàn lỗ
chân lông và tám mươi ngàn hộ trùng.
Nếu
quan sát kỹ, chúng ta thấy rõ ràng không có gì là ta và của
ta cả. Chẳng hạn như khi nhìn một ngón tay thì chúng ta thấy
nó dài thon và đẹp, nhưng khi nhìn xuyên qua lớp da bọc ngoài
thì thấy các lóng xương được cột lại bởi các sợi dây
gân, chung quanh bọc một mớ thịt bầy nhầy và bên ngoài
được phủ lên bởi một lớp da. Khi nhìn thì chúng ta chỉ
nhìn giả tướng bề ngoài chớ không chịu nhìn cái thật
thể của nó. Đáng lẽ bác sĩ phải là những kẻ giác ngộ
hơn ai hết vì hàng ngày họ được nhìn rất tường tận
biết bao nhiêu thân thể của bệnh nhân. Nhưng họ đâu có
thấy thân thể là bất tịnh, là giả tạo nên họ cũng như
bao nhiêu người khác vẫn còn đắm say sắc dục và dĩ nhiên
phải chịu khổ đau như mọi người.
Vì
chúng sinh không chịu quán chiếu để thấu rõ sự giả dối
của vật thể mà mù quáng chạy theo ái dục để tạo nghiệp
nên khi nói về Lý Không của sự thọ dụng, Đức Phật có
dạy rằng:
- Tất cả sự thọ dụng tức là Không. Như thọ dụng bao nhiêu
món ăn ngon, lúc buông đũa rồi tức là Không, khi đi ra ngoài
nhiều người theo hầu, đến lúc tới nơi không còn ai hầu
nữa tức là Không. Cả ngày ham đi chơi bời phóng túng, nhưng
lúc về nhà rồi tức là Không.
Thật
vậy, nếu chúng ta làm việc lành đã xong thì sự mệt nhọc
kia chấm dứt, tức là Không, nhưng nghiệp lành vẫn còn đó.
Làm việc ác thì cũng thế, lúc ai làm ta tức giận, chúng
ta chửi mắng họ cho thỏa lòng. Khi mắng xong tức là Không,
nhưng nghiệp ác khẩu vẫn còn. Do đó, khi đối diện với
việc ác thì đừng tưởng làm rồi là Không, mà nghiệp ác
đeo đuổi đời đời kiếp kiếp là Có.
Vậy
chuyển nghiệp là cố gắng giải thoát cái bản ngã vị kỷ
thấp hèn để có một đời sống đạo đức xả kỷ, quên
mình để sống trọn vẹn vì mọi người chung quanh.
Đời
sống xả kỷ vị tha được coi là một đức hạnh cao đẹp
nhất của con người. Cho dù chúng ta chưa chứng được trạng
thái vô ngã thực sự, nhưng từng giây từng phút, từng tâm
niệm, chúng ta biết từ bỏ những lợi ích của mình để
lo cho lợi ích của mọi người thì cái tự ngã đang từ từ
bị tiêu diệt.
Thật
vậy, đạo Phật có mặt để đem lợi ích cho cuộc đời,
chớ không phải để cuộc đời đem lợi ích lại cho đạo
Phật.
Do
đó một Phật tử chân chính là người thấm nhuần giáo lý
Đức Phật, rồi sau đó quay lại sống với mọi người bằng
lòng từ bi vô ngã. Phật pháp là con đường để sống, là
ánh sáng trí tuệ hướng dẫn mọi người sống đúng với
chân lý và chắc chắn sẽ mang lại an vui tự tại cho mình
và cho tất cả mọi người.
Ở
Trung Hoa đời nhà Đường có nhà thơ rất nổi tiếng là Lý
Bạch. Vì nghe danh Thiền Sư Ô Sào là một cao tăng đắc đạo
nên tìm tới tham vấn. Ô Sào có nghĩa là con quạ đen vì thiền
sư thích ngồi trên cháng ba của một cây cổ thụ trên một
nắm cỏ giống như một ổ quạ nên từ đó người đời
gọi Ngài là Thiền Sư Ô Sào.
Nhà
thơ Lý Bạch đứng dưới đất nhìn lên hỏi:
- Bạch Hòa thượng, xin Hòa Thượng dạy cho tôi một phương
pháp tu ngắn và gọn để tôi có thể tu được.
Thiền Sư Ô Sào ở trên nói xuống:
Chư ác mạc tác
Chứng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị
chư Phật giáo
Có nghĩa là:
Tất cả các nghiệp ác chớ có làm
Nên làm tất cả các việc lành
Cố gắng làm cho tâm ý được thanh tịnh
Đó
là lời dạy của chư Phật.
Lý
Bạch nghe qua, cười và nói:
Hòa Thượng nói bài kệ đó con nít tám tuổi cũng thuộc lòng, vậy Hòa Thượng đem dạy tôi để làm gì?
Thiền
Sư Ô Sào nói:
Ông
nói đúng, con nít tám tuổi cũng thuộc nhưng ông già tám mươi
tuổi làm cũng chưa xong.
Tuy
đạo Phật là đạo ban vui cứu khổ, nhưng con người phải
sáng suốt để chọn con đường sống cho mình. Con đường
thiện mang đến sự an lạc, hạnh phúc và ngược lại con
đường ác dẫn đến sự phiền não, khổ đau. Cốt tủy của
đạo Phật vẫn là tâm thanh tịnh để gạn lọc tham, sân,
si, phiền não cho mình trước, rồi mới trải lòng thương
giúp đỡ cho người, làm cho mọi người được an vui hạnh
phúc. Khi xưa chúng ta làm việc thiện với hy vọng quả báo
tốt ngày sau cho mình thì dĩ nhiên kiếp sau chúng ta sẽ được
hưởng phước báu nhưng tâm vẫn còn nặng tính tham lam, ích
kỷ để dẫn dắt chúng trở lại làm việc ác. Ngày nay chúng
ta cũng làm nhiều việc thiện nhưng với tâm hồn trong sáng,
vị tha. Chúng ta thi ân mà không cần quả báo, làm việc thiện
chỉ cầu lợi ích cho chúng sanh chớ không cầu phước riêng
cho mình thì tinh thần vô ngã, vị tha của nhà Phật đã nẩy
nở rộng lớn để che lấp chỗ tham lam, ích kỷ trong tâm
chúng ta.
Sự
hạnh phúc và khổ đau của chúng ta trong đời nầy chẳng
qua chỉ là Nghiệp Quả mà chúng ta đã tạo ra trong đời quá
khứ mà thôi. Cái định mệnh vô hình nầy không phải là
do thần linh sắp đặt, hay là ông trời áp xuống mà chính
là do tự tay chúng ta tạo ra. Mỗi nghiệp chúng ta đã tạo
ra từ đời trước chính là cái vui hay cái khổ mà chúng ta
nhận lãnh ở đời nầy. Thế thì nếu mình tạo nghiệp được
thì chính mình có thể sửa nghiệp được, nhưng muốn chuyển
nghiệp thì trước hết phải chuyển tâm. Tâm có trong sáng
thì hành động mới thanh cao, ngược lại tâm ngã mạn thì
hành động đen tối.
Sau
cùng, người tu Phật là người sáng suốt để lìa xa mọi
hành vi bất thiện và không làm việc ác bởi vì sống trong
thế gian nếu gặp cảnh thuận thì con người sẽ nổi tánh
tham còn gặp cảnh nghịch thì lòng
sân nổi dậy. Do đó cho dù chúng ta có gặp cảnh thuận hay
cảnh nghịch thì tâm vẫn khởi động niệm như thường. Vì
thế khi gặp bất cứ hoàn cảnh tốt hay xấu thì đó cũng
chỉ là cách tăng thượng duyên cho chúng ta mà thôi. Nếu gặp
cảnh khó khăn thì cứ nghĩ đây là sự thử thách của Phật
hay Bồ Tát thì tâm của chúng ta sẽ thanh tịnh.