- Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì chúng con nói tướng của Tâm Kinh và ngôn thuyết của vọng tưởng. Con và các Đại Bồ Tát nếu khéo biết tướng Tâm Kinh và ngôn thuyết của vọng tưởng, thì được thông đạt hai nghĩa năng thuyết và sở thuyết, chóng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dùng hai thứ năng thuyết và sở thuyết tẩy sạch trần cấu của tất cả chúng sanh.
Phật bảo Đại Huệ :
- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Lành thay! Thế Tôn! Con xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
- Có bốn thứ tướng ngôn thuyết vọng tưởng là : Tướng ngôn thuyết, Mộng ngôn thuyết, Vọng tưởng chấp trước ngôn thuyết, và vô thỉ vọng tưởng ngôn thuyết.
1. Tướng Ngôn Thuyết : Là từ tự tâm vọng tưởng chấp trước sắc tướng mà sanh.
2. Mộng Ngôn Thuyết : Là cảnh giới xưa kia đã trải qua, nay tùy niệm tưởng nhớ mà sanh, Nếu giác ngộ rồi thì cảnh giới '' Vô Tánh '' được sanh.
3. Vọng Tưởng Chấp Trước Ngôn Thuyết : Là như trước kia do oán ghét tạo thành nghiệp, nay tùy niệm tưởng nhớ mà sanh.
4. Vô Thỉ Vọng Tưởng Ngôn Thuyết : Là lỗi từ vô thỉ hư ngụy, chấp trước tạp khí của tự chủng mà sanh. Ấy gọi là bốn thứ tướng của vọng tưởng ngôn thuyết.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại dùng nghĩa này khuyến thỉnh Thế Tôn :
- Cúi xin Phật thuyết lại cảnh giới sở hiện của vọng tưởng ngôn thuyết. Bạch Thế Tôn! Ấy là ở nơi nào? Do cớ gì? Tại sao? Nhân gì mà sanh ra ngôn thuyết vọng tưởng của chúng sanh?
Phật bảo Đại Huệ :
- Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng, hòa hợp mà phát ra âm thanh.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Ngôn thuyết với vọng tưởng là khác hay chẳng khác?
Phật bảo Đại Huệ :
- Ngôn thuyết và vọng tưởng, chẳng phải khác hay chẳng khác. Tại sao? Vì là vọng tưởng làm nhân sanh ra tướng ngôn thuyết. Nếu ngôn thuyết với vọng tưởng khác nhau thì vọng tưởng chẳng nên làm nhân; nếu chẳng khác thì lời nói chẳng hiển bày nghĩa lý. Nhưng sự thật thì chẳng như vậy. Cho nên chẳng phải khác hay chẳng khác.
Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
- Vậy ngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa hay sở thuyết là Đệ Nhất Nghĩa?
Phật bảo Đại Huệ :
- Chẳng phải ngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa, cũng chẳng phải sở thuyết là Đệ Nhất Nghĩa. Tại sao? Nói '' ĐỆ NHẤT NGHĨA " là do ngôn thuyết sở nhập, nghĩa là sự an vui của bậc Thánh, mới gọi là Đệ Nhất Nghĩa, chẳng phải ngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa. Đệ Nhất Nghĩa là do Thánh Trí tự giác sở chứng đắc, chẳng phải cảnh giới của ngôn thuyết vọng tưởng, cho nên, ngôn thuyết vọng tưởng chẳng hiện thị Đệ Nhất Nghĩa. Lại nữa, Đại Huệ! Vì do tự tâm hiện lượng sở nhập nên mổi mổi tướng ngoài tánh phi tánh. Thì vọng tưởng ngôn thuyết chẳng hiển thị Đệ Nhất Nghĩa. cho nên, Đại Huệ! phải lìa tướng ngôn thuyết và vọng tưởng, mới có thể hiển bày được Đệ Nhất Nghĩa.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Các Pháp chẳng tự tánh,
Cũng chẳng phải ngôn thuyết.
Không Không nghĩa sâu tột,
Phàm phu chẳng thể liễu.
Tự tánh của pháp tánh,
Lìa ngôn thuyết phân biệt.
Sanh tử và Niết Bàn,
Các pháp như mộng huyễn.
Như vua và Trưởng giả,
Vì muốn các con vui.
Trước cho vật tương tự,
Sau ban đồ chơn thật.
Nay ta cũng như thế,
Trước thuyết pháp tương tự,
Sau mới vì họ giảng,
Pháp thật tế tự chứng.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Thế Tôn rằng :
- Cúi xin Phật thuyết tướng nhân duyên của tất cả các pháp, do giác đựơc tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ Tát được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu vô, chẳng vọng chấp các pháp tiệm sanh, hoặc đốn sanh, hoặc tiệm đốn cộng sanh.
Phật bảo Đại Huệ :
- Tất cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyên và nội duyên. Ngoại Duyên là : Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên, sanh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ, lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc v.v... do ngoại duyên phương tiện sanh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng Ngoại Duyên.
- Thế nào là Nội Duyên? Vì có vô minh ái nghiệp các pháp hòa hợp gọi là năng duyên, từ đó sanh khởi các pháp ấm, giới, nhập, gọi là sở duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt, ấy gọi là pháp Nội Duyên.
- Đại Huệ! Nói về Nhân gồm có sáu thứ, ấy là : Đương hữu nhân, Tương tục nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân, Đối đãi nhân.
1. Đương Hữu Nhân : Vì thức thứ tám từ vô thỉ đến nay hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sanh quả, bất khả tư nghì, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương Hữu Nhân.
2. Tương Tục Nhân : Vì bên trong nương thức thứ tám và thức thứ sáu, phan duyên ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm nhân sanh quả như ngũ ấm chủng tử v.v... do hiện hành huân tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sanh khởi chẳng dừng, nên gọi là Tương Tục Nhân.
3. Tướng Nhân : Do cái đẳng Vô Gián Duyên ( duyên chẳng gián đoạn ) làm ra tướng Vô Gián, sanh ra quả tương tục. Nơi tương tục có tướng Vô Gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng,, nên gọi là Tướng Nhân.
4. Tác Nhân : Tức là tăng thượng duyên, ấy là tạo nghiệp tăng thượng mà sanh ra quả, cũng như Chuyển Luân Vương, do thân thể chứng đắc Luân Vương làm bản nhân mà bánh xe Thất Bửu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng. Vì cảnh chẳng thể sanh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng, Luân Vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm tăng thượng duyên cho cảnh ( bánh xe bay ), nên gọi là Tác Nhân.
5. Hiển Thị Nhân : Sự vọng tưởng sanh rồi thì hiện cái tướng năng tác, sở tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng v. v... gọi là Hiển Thị Nhân.
6. Đối Đãi Nhân : Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn đứt, mà ngay đó tánh ''chẳng vọng tướng'' sanh khởi. Đại Huệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt sanh, chẳng cùng chúng sanh. Tại sao? Nếu cùng lúc sanh thì chẳng phân biệt được năng tác, sở tác, vì chẳng có tướng nhân. Nếu lần lượt sanh thì chẳng có tự tướng, cho nên chẳng thể có lần lượt sanh, như chẳng sanh con thì không được gọi là cha. Đại Huệ! Vì cha với con làm nhân đối đãi với nhau, không có cha thì không sanh được con, không có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà sanh, nên gọi là Đối Đãi Nhân.
- Đại Huệ! nói tóm lại, các thứ tướng sanh đều do các thứ nhân của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sanh. Vì tự tâm hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh, phi tánh; thực ra Lần Lượt Sanh và Cùng Lúc Sanh hai thứ đều chẳng thể sanh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến chấp đó.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Cũng không nhân duyên diệt.
Ở nơi tướng sanh diệt,
Mà khởi nhân duyên tưởng.
Pháp diệt rồi lại sanh,
Do nhân duyên tương tục.
Vì đoạn dứt si mê,
Của tất cả chúng sanh.
Nên thuyết pháp duyên khởi,
Các pháp thật Vô Sanh.
Do tập khí mê hoặc,
Từ đó hiện tam giới.
Duyên thật vốn Vô Sanh,
Lại cũng chẳng có diệt.
Tất cả pháp hữu vi,
Như hoa đốm trên không.
Nếu lìa bỏ kiến chấp,
Năng nhiếp và sở nhiếp.
Chẳng có Vô nhân sanh,
Và đã sanh, sẽ sanh.
Sự sanh vốn chẳng có,
Thảy chỉ là ngôn thuyết.