SUY NIỆM TỪ BỨC THÔNG ĐIỆP CỦA THỜI ĐẠI MỚI
Hoàng Thượng
"Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp; ngươi là hải đảo, là nơi nương tựa của chính ngươi"
Tôi xin vào đề từ câu kinh: "Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp; ngươi là hải đảo, là nơi nương tựa của chính ngươi!" để làm tiền đề suy niệm trong mùa Phật Ðản năm nay, mùa Phật Ðản lần thứ 2543, kể từ sau ngày Phật diệt độ.
Chúng ta biết rằng, trong một bối cảnh lịch sử, khi mà phần lớn các tôn giáo đều chủ trương con người và mọi hiện hữu trên thế gian này hoặc là tạo vật của Thượng Ðế, của đấng toàn năng vô hạn, của một bản thể Ðại ngã", hoặc là phải chịu sự chi phối của một thế lực siêu nhiên vô hình nào đó, thì Phật giáo ngược lại, chủ trương con người là chủ nhân của tất cả. Mỗi con người là một thế giới, một vũ trụ, một hành tinh của các phạm trù đối lập: khổ đau và hạnh phúc, thiện và bất thiện, và quan trọng hơn hết, mỗi người là hải đảo của chính mình, là nơi nương tựa của chính mình. Lời tuyên bố của bức thông điệp ấy quả thật là phi thường. Vì đối diện trước nó, con người chỉ có thể hoặc là sống buông trôi theo dòng sinh tử bất tận, sống như kiểu: "Phận bèo đâu quản bước xa, lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh" (Nguyễn Du); hoặc là - chủ động tái thiết cuộc đời bể dâu này thành một hành tinh của hạnh phúc thực thụ - Niết bàn trần thế hay "Tịnh độ nhân gian".
Thế nhưng trước hết, theo quan niệm thông thường, chúng ta biết rằng, đặc tính của con người là bất toàn. Do bất toàn mà con người luôn hướng về một đấng toàn thiện, hòng mong được cứu rỗi, được độ trì chở che. Và lúc bấy giờ, với một tâm thức như thế, hẳn nhiên, chỉ có kẻ trên cao mới có thể cứu người dưới thấp. Cũng như một người, khi đứng dưới đất thì không thể tự mình nắm tóc mình và nhấc mình lên khỏi mặt đất. Nếu muốn được như thế, phải có một người khác ở trên cao làm nhiệm vụ cứu độ Ầ Phải chăng xuất phát từ ý niệm đó mà con người luôn luôn đi tìm kiếm một đối tượng siêu nhân? Và cũng từ đó, thay vì từ cứu độ theo trực nghĩa, được hiểu như là sự giúp đỡ lại biến thành học thuyết cứu độ, như cứu độ cho những linh hồn (SoulỖs salvation) và cưu mang trong nó một thế giới của huyền học thần bí? Từ đó, khi con người càng trầm kha trong dục vọng khổ đau thì tâm thức của họ càng bị cuốn hút vào thế giới của các thế lực vô hình, ở đó khát vọng được cứu độ xuất hiện như là một trú xứ bình yên duy nhất mà con người khả dĩ nương tựa. Bởi lẽ, như đã nói, đặc tính của con người là tội lỗi và khổ đau, bản chất của nó không gì khác hơn là sự bất lực, sự không vượt qua nổi con người của chính mình - con người của khát vọng. Do đó, càng khát vọng thì càng khổ đau. Tất nhiên, khát vọng được đề cập ở đây là khát vọng được phát sinh từ tự ngã - cái tôi, cái của tôi, cái tự ngã của tôi. Và, phần lớn nhân loại đều/ hoặc ra đi, hoặc trở về với cái tự ngã đó. Ðây là lý do tại sao Ðức Phật kêu gọi sinh linh của Ngài "hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp".
Hẳn bạn đọc cũng hiểu rõ khái niệm trở về - tiếng gọi đầu tiên trong bức thông điệp của thời đại mới. Ðó là sự quay đầu trở lại, trước hết là với con người của chính mình và tâm thức của chính mình; và sau đó là trở lại với con đường Chánh pháp (nương tựa pháp).
Ở đây, con người xuất hiện như một thế giới phổ quát với đầy đủ các hiện tượng sai biệt đa thù, các đức lý thiện ác phân minh, và cho đến cả những phẩm tính siêu việt (như những con người đã chứng ngộ). Và Pháp xuất hiện như những chân lý, vừa mang tính hiện thực khách quan - chân lý công ước, lâm thời; lại vừa mang tính tuyệt đối - chân lý bất khả thuyết.
Từ đây chúng ta thấy rõ rằng, Ðạo theo Phật giáo là con đường qui ngưỡng về một nếp sống, mà ở đó vai trò của Thượng đế không có mặt. Mọi trách nhiệm về khổ đau và hạnh phúc của đời người đều do con người phán quyết; và điều đáng chú ý nhất ở đây là định luật nhân quả, một định luật mà đối với con người thì quả thực là vô cùng khắt khe. Nhân quả ở đây chính là định mệnh hiện tiền của mỗi con người. Vì đó là nơi tích tụ của tất cả thiện nghiệp cũng như ác nghiệp của con người chính nó từ vô lượng kiếp quá khứ. Và tương lai của định mệnh đó như thế nào cũng tùy thuộc vào sự tạo tác của chính con người - định mệnh hiện tiền này. Như thế, sự trở về ở đây, trước hết là sự trở về với mọi trách nhiệm luân lý đạo đức, mọi trách nhiệm trong cuộc sống tư duy và hành động, trong thể cách ứng xử giữa tự thân và tha nhân, giữa cá nhân và xã hội của mỗi con người. Thế giới này là bao la, đời sống tâm thức này là vô tận; do đó, sẽ không có bất kỳ một động lực tự nhiên hay siêu nhiên nào có thể ngự trị trong dòng sinh tử luân lưu, ngoại trừ định luật nhân quả. Nhân quả như một thứ trái khoán, mà một ngày nào đó nó phải được trả về cho trái chủ.
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộ là năng lực tiềm ẩn, vốn có trong tâm thức của mọi chúng sinh. Do đó, trở về nương tựa mình chính là trở về với khả năng giác ngộ mà bao lâu nay con người đã lãng quên. Trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và chân lý, con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm. Nghĩa là, khổ đau hay hạnh phúc là tùy thuộc ở cái nhìn của mỗi con người khác nhau. Nhưng quan trọng hơn hết, cội nguồn của hạnh phúc phải được khai phóng từ nguồn lực cá thể, tức là từ trong chiều sâu tâm thức của mỗi người, đó là một bản thể tâm thức bình yên nội tại, nó vận hành như một nguồn sinh lực uyên nguyên, như thác đổ, như suối nguồn, như đại dương mênh mông bao la không giới tuyến. Và cội nguồn hạnh phúc đó, người ta không thể cho nhau, và không thể vay mượn của nhau. Ở đây cần ghi nhận rằng, dù là hiện thực hay tiềm năng, thì cội nguồn hạnh phúc vẫn là yếu tố thường trực vốn có trong mỗi con người. Thực tế cho thấy rằng, đời sống của con người do không làm chủ được dòng vận hành của tâm thức, thân thể, môi trường v.v.. nên thường xuyên đối diện với hai ảnh tượng bất an, đó là hy vọng và sợ hãi. Cho đến khi nào con người còn tìm kiếm hay nương tựa vào một nơi trú ẩn nào khác ngoài con người của chính mình, thì khi đó đối tượng của sự bất an vẫn luôn luôn hiện hữu trong dòng sông tâm thức. Càng không làm chủ thì càng dao động. Càng bị dao động thì càng thao thức trong/ hoặc hy vọng hoặc sợ hãi. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là yếu tố chánh pháp. Vì như đã đề cập, mặc dù con người cũng như tất cả chúng sinh đều có khả năng thức tỉnh - giác ngộ. Song, do tính chất lầm lỗi (vô minh) và bất toàn nên cần phải được soi sáng bởi chánh pháp trong mọi thế cách của tư duy và hành động. Bấy giờ, Pháp đóng vai trò là con đường dẫn vào Ðạo. Và Pháp ở đây được cụ thể hoá như là cuộc sống Giới - Ðịnh - Tuệ. hay nói khác hơn là chân lý như thật (Dharma) đối với con người, một thứ chân lý mà con người dù muốn hay không nó vẫn là như thế. Ðó chính là dòng nhân quả hai chiều của thế gian (con người còn vô minh) và bậc xuất thế (con người giác ngộ) như được cụ thể hóa trong pháp thoại về Bốn chân lý.
Nói tóm lại, trên căn bản của đời sống, con người cần phải làm chủ được, hay ít ra là điều hành được cuộc sống tâm lý và vật lý của chính mình. Và xa hơn, trên con đường đi đến giác ngộ, mỗi người phải tự thắp đuốc lên mà đi, như lời Ðức Phật dạy; "Ngươi phải làm công việc của ngươi, vì Như Lai chỉ chỉ dạy con đường" (1) hoặc là: "Ngươi là nơi nương tựa của chính ngươi, không ai khác có thể là nơi nương tựa" (2). Ðây chính là bức thông điệp của thời đại mới, một bức thông điệp không tiền khoáng hậu trong lịch sử tôn giáo và triết học Ðông phương mà cách đây trên 26 thế kỷ, Ðức Phật đã truyền trao cho loài người.
* Chú thích:(1) - Dhp.XX4 ; (2) - Dhp.XII 4
Source: thuvienhoasen