Nguyên tác: Wherever You Go, There You Are.
Tác giả: Jon Kabat-Zinn - Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên.
"Thiền tập áp dụng vào đời sống hằng ngày"
PHẦN
III
TINH THẦN CHÁNH NIỆM
20.- LÀM CHA MẸ LÀ MỘT SỰ TU TẬP
A.- Tôi bắt đầu học thiền vào năm mình được hai mươi mấy tuổi. Những ngày ấy tôi có nhiều thời giờ, tôi có thể tham dự đều đặn những khóa tu thiền kéo dài mười ngày hoặc hai tuần. Trong những khóa tu này, mỗi ngày các thiền sinh chỉ biết lo ngồi thiền và đi kinh hành trong chánh niệm, xen vào bằng những buổi ăn chay, hoàn toàn trong thinh lặng. Chúng tôi được hướng dẫn bởi những vị thiền sư nhiều kinh nghiệm, mỗi tối các ngài ban cho những bài pháp thoại, giúp thiền sinh đào sâu và mở rộng thêm sự tu tập của mình. Và thỉnh thoảng các vị ấy cũng gặp gở riêng mỗi người để xem sự tu tập của chúng tôi tiến triển ra sao?
Tôi rất yêu thích những khóa tu này, vì nó giúp tôi gác lại hết những việc khác trong đời sống, đi đến một nơi tươi mát và thanh tịnh ngoài miền quê, được chăm sóc, và sống một cuộc đời vô cùng giản dị và trầm lặng. Nơi đây chương trình chánh của tôi chỉ có tu tập, tu tập và tu tập.
Nhưng bạn đừng nghĩ rằng nó là dễ. Thường thì tôi phải chịu đựng nhiều cơn đau ở thân vì phải ngồi yên trong nhiều giờ, và không có gì có thể so sánh được với cái đau tinh thần mà đôi khi khởi lên những lúc tâm và thân mình trở nên yên lặng và ít bận rộn.
Khi chúng tôi quyết định có con, tôi biết rằng tôi phải gác chuyện đi tu tập lại, ít nhất là trong một thời gian. Tôi tự dặn lòng, lúc nào tôi cũng có thể trở lại khung cảnh thanh tịnh tu học ấy, khi con tôi trưởng thành đủ để không cần đến mình nữa. Hình ảnh một ông già trở về đời sống tu viện bao giờ cũng mang một nét rất thơ mộng. Viễn tượng là mình sẽ từ giả những khóa tu, hay ít nhất cũng sẽ phải bớt lại nhiều, không làm tôi phiền muộn gì, mặc dù tôi rất yêu quý chúng. Tôi quyết định rằng mình có thể xem việc có con như là một khóa tu thiền vậy, mà thật ra thì nó có đủ hết những yếu tố của một khóa tu, trừ ra sự thinh lặng và giản dị.
Ðối với tôi thì như thế này: Ta có thể xem mỗi đứa bé như là một em bé Phật hay một vị thiền sư, một vị thầy chánh niệm dạy riêng cho mình. Vị thầy ấy xuất hiện vào cuộc đời ta, mà sự hiện diện và hành động của ngài bảo đảm sẽ thử thách cũng như thử thách hết mọi niềm tin và giới hạn của ta, mang lại những cơ hội giúp ta thấy được những vướng mắc của mình để buông bỏ. Mỗi đứa bé sẽ ban cho ta một khóa tu kéo dài ít nhất là mười tám năm, mà không thể nào bỏ về ngang được. Chương trình của khóa tu thì rất là nghiêm khắc và luôn luôn đòi hỏi ở ta một thái độ hy sinh và từ ái. Cuộc đời của tôi trước khi có con chỉ cần lo cho những nhu cầu và ước muốn cá nhân, hoàn toàn bình thường đối với một thanh niên. Trở thành bậc cha mẹ rõ ràng là một thay đổi lớn lao nhất trong cuộc đời tôi cho đến ngày hôm nay. Làm tròn bổn phận cha mẹ của mình đòi hỏi một cái thấy sáng suốt nhất, biết để cho những sự việc như - là, cũng như một sự buông bỏ lớn lao nhất mà tôi chưa bao giờ bị thử thách.
Ví dụ, những đứa bé lúc nào cũng cần và đòi hỏi sự chăm sóc của ta. Những nhu cầu của chúng phải được thỏa mãn đúng theo chương trình của chúng, không phải của ta, và mỗi ngày, chứ không phải chỉ khi nào ta cảm thấy thích. Quan trọng hơn hết, những đứa bé và trẻ thơ rất cần sự có mặt trọn vẹn của ta để có thể phát triển và lớn lên mạnh mẽ. Chúng cần sự bồng ẵm càng nhiều càng tốt, ru hát, đùa giỡn, vỗ về của ta, đôi khi trong những đêm khuya khoắt hay sáng sớm, khi ta cảm thấy mệt nhoài, kiệt sức chỉ muốn ngả lưng xuống giường, hoặc khi ta có những bổn phận, công việc gấp rút và quan trọng khác cần đến sự chú ý của mình. Những nhu cầu sâu xa và luôn thay đổi của đứa bé là những cơ hội tuyệt vời để cho bậc cha mẹ tập có mặt trọn vẹn trong chánh niệm, thay vì hoạt động như một người máy. Chúng ta phải biết cảm nhận được sự sống của mỗi đứa bé, và để cho sự linh hoạt, sống động và ngây thơ của chúng khơi dậy những điều ấy ở nơi ta. Tôi cảm thấy rằng, làm cha mẹ là một cơ hội tuyệt vời để tu tập chánh niệm thâm sâu, nếu tôi có thể cho phép gia đình và con cái tôi trở thành những vị thầy của mình, cũng như biết học hỏi và lắng nghe cẩn thận những bài học của cuộc sống, mà chúng sẽ đến rất nhanh và rất mãnh liệt.
Cũng như những khóa tu nhiều ngày, ta sẽ có những thời gian thoải mái và những thời gian khó khăn, những giây phút kỳ diệu và những giây phút đau đớn. Cuối cùng, cái nguyên lý đem đời sống làm cha mẹ như một khóa tu, và tôn trọng những đứa bé và hoàn cảnh gia đình như là vị thầy của mình đã tự chứng minh được giá trị cũng như địa vị của nó, hết lần này đến lần khác. Làm cha mẹ là một công việc rất cực nhọc. Ngày xưa, đó là một công việc đủ cho mười người làm, mà thường thì chỉ có hai người, hoặc nhiều khi chỉ có một để cáng đáng mà thôi, và không có sách vở nào kèm theo với đứa bé để hướng dẫn ta cách săn sóc. Ðây là một công việc khó nhất trên trái đất này, để ta có thể làm cho đúng, cho hay. Mà phần nhiều ta cũng không biết mình có làm đúng không, hoặc làm đúng, làm hay có nghĩa là thế nào! Và chúng ta cũng không có một ai được chuẩn bị trước hoặc huấn luyện để làm cha mẹ hết, chỉ có sự tự học trong khi thực hành, khi phải đối diện với chuyện này chuyện kia xảy ra.
Ban đầu chúng ta cũng còn có được một vài cơ hội quý báu để tạm nghỉ ngơi trong chốc lát. Nhưng rồi công việc sẽ đòi hỏi sự đối phó thường xuyên của ta. Những đứa bé lúc nào cũng thử thách mức giới hạn của ta, để học hỏi, tìm hiểu thế giới chung quanh cũng như về chính nó. Và còn thêm nữa, khi những đứa bé phát triển và tăng trưởng, chúng sẽ thay đổi. Khi ta vừa tìm ra phương cách tốt đẹp để đối phó với một hoàn cảnh nào đó, thì chúng cũng đã thay đổi, chuyển sang một trường hợp mới mà ta chưa từng gặp bao giờ. Vì vậy lúc nào ta cũng phải giữ chánh niệm và có mặt để tránh khỏi bám víu vào một quan điểm đã không còn thích hợp nữa. Và dĩ nhiên, không có một quy tắc hay công thức đơn giản nào là duy nhất để xử sự cho "đúng" trong thế giới làm cha mẹ. Nó có nghĩa là lúc nào ta cũng phải đối diện với những hoàn cảnh thử thách và hoàn toàn mới lạ, và cùng một lúc, ta cũng sẽ đối diện với những việc làm lặp đi lặp lại hết lần này sang lần khác.
Công việc làm cha mẹ sẽ còn nhiều thử thách hơn nữa, khi những đứa bé trưởng thành và phát triển ý kiến cũng như ý muốn riêng của chúng. Chăm sóc cho những nhu cầu của đứa bé là một chuyện rất là đơn giản, nhất là khi chúng chưa biết nói và thật dễ thương đáng yêu. Còn đối phó với những đứa lớn hơn một chút, không còn mấy dễ thương và đáng yêu, là một chuyện khác hẵn. Trong trường hợp này ta phải biết nhìn cho rõ và đáp ứng bằng một sự thông minh, vì dù sau đi nữa ta cũng là người lớn, và lúc nào cũng sẽ có một sự va chạm giữa hai ý muốn, chúng có thể tranh luận loanh quanh, chọc ghẹo nhau, đánh lộn, chống đối, cãi lời, đối phó với những hoàn cảnh cần sự hướng dẫn của ta, mặc dù có thể chúng sẽ không thèm nghe theo. Nói tóm lại, nó cần một sự đối phó thường xuyên mà ta sẽ không còn thì giờ cho chính mình nữa. Những trường hợp ta cảm thấy sự điềm tĩnh cũng như sự sáng suốt của mình bị "đảo lộn" thì nhiều vô số. Không có một lối thoát nào, một chỗ trốn nào, một sự che dấu nào có thể giúp ích cho mình hoặc cho chúng được. Những đứa con sẽ nhìn thấy hết tất cả những gì là của ta, từ sát bên trong và rất cận kề, như là những nhược điểm, cách cư xử, lỗi lầm, mâu thuẫn và những thất bại của ta.
Nhưng những khó khăn ấy không phải là chướng ngại cho việc làm cha mẹ hoặc sự tu tập chánh niệm của ta. Chúng chính là sự tu tập chánh niệm, nếu ý thức được điều đó. Bằng không, đời sống làm cha mẹ có thể trở nên một gánh nặng mệt mỏi, và vì thiếu sức mạnh và mục tiêu rõ rệt, ta có thể không thấy được và tôn trọng những cái hay đẹp trong con cái mình cũng như là trong ta. Những đứa trẻ có thể dễ bị thương tích và mất đi tuổi thơ, nếu nhu cầu và tâm hồn đáng yêu của chúng bị chối bỏ liên tục và không được biết đến. Những thương tích ấy sẽ tạo thêm vấn đề cho chúng và cho cả gia đình, như là sự thiếu tự tin, thiếu tự trọng, không có khả năng truyền thông và tranh đua. Những khó khăn ấy sẽ không biến mất khi chúng lớn lên mà nhiều khi lại còn gia tăng thêm. Và là bậc cha mẹ, chúng ta lại không biết cởi mở để thấy những dấu hiệu của sự thương tích ấy, và vì vậy ta không thể nào chữa lành những vết thương xuất phát từ hành động thiếu ý thức của ta. Cũng có khi nó rất là tinh tế, ta có thể dễ dàng trốn tránh và đổ thừa cho một nguyên do khác, rồi từ đó không chịu nhận lãnh những trách nhiệm thật sự là của mình.
Rõ ràng là khi bấy nhiêu năng lượng của ta tuôn ra bên ngoài, chắc chắn phải có một nguồn năng lượng nào đó thỉnh thoảng đổ vào bên trong, thì mới có thể nuôi dưỡng và làm hồi sinh lại những bậc cha mẹ. Nếu không thì quá trình ấy sẽ không thể nào duy trì lâu dài được. Nhưng nguồn năng lượng ấy phát xuất từ đâu? Tôi nghĩ nó đến từ hai nơi: nhờ sự giúp đở ở bên ngoài từ người thân, bạn bè, nhà giữ trẻ và thỉnh thoảng từ những việc làm mà mình ưa thích; và nguồn năng lượng từ bên trong mà ta có thể có được nhờ thực hành thiền tập, nếu ta có thể bỏ ra chút thì giờ trong cuộc sống để giữ thanh tĩnh, để có mặt, để ngồi lại, hoặc tập Yoga, để tự nuôi dưỡng mình.
Tôi ngồi thiền vào mỗi sáng sớm, vì đây là thời gian tất cả nhà đều yên tĩnh và tôi không bị ai quấy rầy, và cũng vì nếu tôi không ngồi thiền lúc ấy, thì có thể tôi vì quá bận rộn hoặc mệt mỏi mà sẽ không muốn ngồi nữa. Tôi cũng còn khám phá ra rằng, ngồi thiền vào buổi sáng sớm sẽ quyết định cho phẩm chất của trọn ngày. Nó sẽ là một sự nhắc nhở cũng như một sự xác nhận cho những gì thật sự quan trọng trong đời sống, và nó sắp đặt cho chánh niệm có thể lan rộng sang những lãnh vực khác trong ngày.
Nhưng khi chúng ta có con nhỏ trong nhà thì buổi sáng sớm cũng chỉ như mọi thời gian khác mà thôi. Ta không thể cố chấp vào bất cứ một chuyện gì, vì việc nào ta muốn làm dù đã sắp đặt chu đáo đến mấy, cũng sẽ bị gián đoạn và đôi khi còn phải hoàn toàn bị bỏ dỡ. Những đứa con nhỏ của tôi ngủ rất ít. Dường như lúc nào nó cũng thức rất khuya và lại dậy thật sớm, nhất là nếu hôm ấy tôi quyết định sẽ ngồi thiền. Hình như chúng rình xem nếu tôi dậy thì chúng cũng sẽ thức dậy theo. Có ngày tôi phải thức dậy vào bốn giờ sáng mới có thể yên ổn ngồi thiền hoặc tập Yoga. Có những hôm tôi quá mệt mỏi, bỏ hết và thấy rằng chỉ có giấc ngủ mới quan trọng hơn cả. Và cũng có khi tôi ngồi thiền với đứa con trong lòng mình, và để cho chúng quyết định tôi sẽ ngồi được bao lâu. Chúng nó rất thích được quấn mình trong chiếc mền ngồi thiền, chỉ có cái đầu nhỏ lú ra, nhiều khi chúng ngồi yên rất lâu, trong khi tôi theo dõi hơi thở vào ra không phải của riêng tôi mà là của cả hai đứa.
Ngày ấy tôi tin rằng, và bây giờ cũng thế, sự chánh niệm về thân và hơi thở của tôi, và sự xúc chạm trong khi ôm đứa con trong lòng, giúp nó cảm nhận được sự an ổn, cũng như khám phá được sự tĩnh lặng và một cảm giác được chấp nhận. Và sự thanh thản của chúng, chắc chắn là trong sạch và chân thật hơn tôi nhiều, vì tâm chúng chưa bị bận rộn bởi những ý nghĩ, lo lắng của người lớn, giúp tôi trở nên an ổn hơn, thanh thản hơn và có mặt hơn. Khi chúng lớn hơn một chút, tôi có thể tập Yoga trong khi chúng cởi trên lưng, leo lên vai hoặc đu đưa trên tay tôi. Có khi đùa giởn trên sàn nhà, chúng tôi tình cờ khám phá ra thêm những tư thế Yoga mới cho cả hai cùng tập. Sự đùa giởn thực tập không ngôn từ và trong chánh niệm này là một nguồn vui và hạnh phúc lớn cho tôi, một người cha, và là một mối liên hệ sâu sắc mà chúng tôi cùng chia xẻ.
Khi những đứa con của mình càng lớn bao nhiêu, chúng ta lại càng quên đi rằng chúng là những vị thiền sư bấy nhiêu. Sự thực tập giữ chánh niệm, không phản ứng, và thấy rõ phản ứng của mình, sẽ càng lúc càng trở nên khó khăn hơn, khi ta dần dà mất đi tiếng nói của mình trong cuộc đời của chúng. Những thói quen, tập quán xa xưa lại bừng sống dậy thật mạnh mẽ, trước khi tôi kịp có ý thức về chúng. Kiểu mẫu về một người đàn ông trong gia đình,về thẩm quyền, làm sao thể hiện được quyền hành của mình, hạnh phúc của tôi trong gia đình ra sao, những mối tương quan giữa mọi người của mọi lứa tuổi và nhu cầu của họ... Mỗi ngày là một sự thử thách mới. Có lúc tôi cảm thấy mình bị tràn ngập, nhưng cũng có lúc rất là cô đơn. Chúng ta cảm thấy có một hố sâu càng lúc càng mở rộng. Dù biết rằng sự cách biệt ấy là cần thiết cho sự trưởng thành và khám phá của đứa bé, dù biết rằng sự kiện ấy là lành mạnh, nhưng ta vẫn cảm thấy đau đớn. Ðôi khi tôi quên rằng mình là người lớn và hành động như một đứa con nít. Mấy đứa con của tôi đã nhắc nhở và đánh thức tôi dậy rất nhanh, những khi chánh niệm của mình bị lơ là.
Làm cha mẹ và đời sống gia đình là một môi trường tuyệt vời cho sự thực tập chánh niệm. Nhưng nó không phải dành cho những người yếu đuối, ích kỷ, lười biếng hoặc mơ mộng không thực tế. Làm cha mẹ là một tấm gương bắt ta phải tự soi lấy chính mình. Nếu bạn có thể học được từ những gì mình thấy, bạn sẽ có một cơ hội rất tốt để tiến triển.
Một khi
ta đã hiểu và chấp nhận rằng dù giữa hai người gần gũi nhau nhất cũng đang có mặt
những khoảng cách vô tận, chúng ta sẽ có thể có một cuộc sống kỳ diệu bên nhau,
nếu ta biết yêu quý cái khoảng cách giữa hai người ấy, vì nó giúp mỗi người có
thể nhìn thấy được người kia một cách toàn vẹn trên nền trời.
Rainer Maria Rilke, Letters
Muốn đạt được một sự trọn vẹn đòi hỏi ta phải bỏ ra cả con người của mình. Không có thể ít hơn thế được, không có một điều kiện nào dễ hơn, không có một sự thay thế nào, cũng không có thể mặc cả được C. G. Jung
Thực tập: Nếu bạn là bậc cha mẹ, hoặc ông bà, hãy thử tập xem con cháu mình như là những vị thầy. Ðôi khi nên quan sát chúng trong thinh lặng. Lắng nghe chúng cẩn thận hơn. Ðọc những tác động của chúng.Ðánh giá tính tự trọng của chúng bằng cách theo dõi thái độ của chúng, chúng vẽ những hình ảnh gì, nhìn thấy gì, xử sự như thế nào. Nhu cầu của chúng trong giây phút này là những gì? Trong thời gian này trong ngày là gì? Ở giai đoạn này của cuộc đời chúng là những gì? Hãy tự hỏi: "Ta có thể giúp ích gì cho chúng được?". Rồi theo sự hướng dẫn của con tim mình. Và bạn nên nhớ rằng, lời khuyên răn của bạn là điều cuối cùng mà chúng muốn nghe, trừ khi đúng lúc, đúng thời và nếu bạn khéo léo. Bạn hãy lúc nào cũng có mặt trọn vẹn, cởi mở và có mặt, những điều đó là món quà rất lớn cho chúng. Và ôm chúng trong chánh niệm cũng rất là bổ ích.
B.- Lẽ dĩ nhiên, ta cũng là một vị thầy rất quan trọng trong cuộc đời của những đứa con mình như chúng là thầy của ta vậy. Và ta nhận lãnh trách nhiệm này bằng cách nào sẽ ảnh hưởng rất lớn cho cuộc đời của chúng, cũng như là của chính ta. Tôi nghĩ rằng làm cha mẹ là làm một người giám hộ, theo nghĩa rộng, nhưng chỉ tạm thời mà thôi. Khi ta xem con cái như là "của mình", và hành xử chúng như là những sở hữu, để kiểm soát và uốn nắn theo nhu cầu của ta, thì tôi tin rằng chúng ta đang có một vấn đề rất lớn. Dù muốn dù không thì những đứa trẻ bao giờ cũng vẫn chính là chúng, mặc dù chúng cần tình thương và sự hướng dẫn của ta để có thể trở thành một con người toàn vẹn. Một người giám hộ hoặc người hướng dẫn giỏi cần rất nhiều trí tuệ và kiên nhẫn để có thể trao lại cho thế hệ kế tiếp những gì thật sự là quan trọng. Có một số người - trong đó có tôi - cần phải có một chánh niệm liên tục và sự thương yêu, để có thể bảo vệ và nuôi dưỡng những đứa bé trong khi chúng phát triển sức mạnh, quan điểm và tài năng của chúng, trên một con đường mà sau này tự chúng có thể khám phá thêm thâm sâu hơn.
Có những người rất ham thích phương pháp thiền tập, và họ rất muốn dạy cho con mình cách ngồi thiền. Ðiều này cũng có thể là một lỗi lầm lớn. Ðối với tôi thì phương pháp hay nhất để truyền trao tuệ giác, phương pháp thiền tập, hay bất cứ cái gì cho con mình, nhất là khi chúng còn bé thơ, là tự mình phải sống đúng như thế: tự thể hiện những gì mình muốn truyền trao và im miệng lại. Vì khi ta càng nói về thiền tập bao nhiêu, càng ca tụng bao nhiêu, hoặc là khăng khăng bắt chúng phải làm theo, là ta càng khiến cho chúng ghét bỏ nó bấy nhiêu, có khi là trọn đời. Những đứa trẻ sẽ cảm nhận được sự vướng mắc của ta, một thái độ ép buộc và muốn thực hiện những niềm tin của riêng ta, chứ không phải là của chúng. Chúng biết con đường ấy là của ta chứ không dính dáng gì đến chúng. Và khi lớn lên, chúng có thể sẽ nhận thấy nơi đó một sự giả tạo, một khoảng cách rất xa giữa những gì ta nói và những gì ta làm.
Nếu bạn thật sự thực hành thiền tập, chúng sẽ ý thức và nhận thấy điều ấy, và sẽ chấp nhận đó như là một phần của cuộc sống, như một sinh hoạt thường ngày. Ðôi khi những đứa bé cũng sẽ tập tành và bắt chước những hành động khác của cha mẹ mình. Ðiều quan trọng là sự ham muốn học hỏi và thực hành thiền tập phải được bắt đầu phần lớn từ nơi chúng, và được thực hiện theo mức độ ưa thích của chúng.
Một sự truyền dạy chân thật thường thường không cần đến ngôn ngữ. Những đứa con tôi đôi khi tập Yoga chung, vì chúng thấy tôi tập đều đặn. Nhưng nhiều khi chúng có những công chuyện khác quan trọng hơn và cũng chẳng thèm ngó ngàng gì đến. Chuyện ngồi thiền cũng thế. Nhưng chúng biết về thiền tập. Chúng có ý niệm thế nào là thiền tập. Chúng cũng biết tôi tôn trọng và chính mình thực hành việc ấy. Và khi nào muốn, chúng cũng sẽ biết cách ngồi thiền vì đã từng ngồi với tôi từ thuở còn bé.
Nếu thật sự tu tập, bạn sẽ khám phá ra rằng, đôi khi cũng có những lúc thích hợp để ta khuyên dạy con mình về chuyện thiền tập. Những lời khuyên ấy có thể có hiệu quả, cũng có thể là không, nhưng chúng sẽ gieo trồng những hạt giống cho sự đâm hoa kết trái sau này. Một trong những trường hợp tốt là khi con chúng ta đang gặp chuyện sợ hãi hoặc cảm thấy khó ngủ. Ðừng bao giờ làm quá lố, nhưng bạn có thể dạy cho chúng quan sát hơi thở, chậm lại một chút, tưởng tượng như đang thả trên một chiếc thuyền nhỏ trôi trên những ngọn sóng, theo dõi nỗi sợ hoặc cái đau, dùng trí tưởng tượng để "đùa chơi" với hoàn cảnh, rồi nhắc nhở chúng rằng đó chỉ là những hình ảnh trong đầu mà thôi, cũng giống như một cuộn phim vậy. Và chúng có thể thay đổi truyện phim, ý nghĩ, hình ảnh, màu sắc, và có thể sẽ cảm thấy vui vẻ trở lại nhanh chóng hơn và tự tin hơn.
Ðôi khi phương pháp này có hiệu quả đối với những đứa trẻ chưa đến tuổi đi học, đến lúc năm, sáu hoặc bảy tuổi, có thể chúng sẽ cảm thấy mắc cở hoặc cho đó là vớ vẩn. Nhưng giai đoạn ấy cũng sẽ qua, và rồi có lúc chúng sẽ cảm thấy thích hợp trở lại. Dù sau đi nữa thì những hạt giống cũng đã được gieo trồng, dạy cho chúng biết rằng có những con đường nội tâm để đối phó với sự sợ hãi và đau đớn, và thường khi chúng sẽ trở lại với sự hiểu biết này sau khi đã lớn lên. Chúng học được từ một kinh nghiệm trực tiếp là mình không phải chỉ là ý nghĩ và cảm thọ mà thôi. Và điều ấy sẽ giúp cho chúng có được thêm nhiều sự chọn lựa, để tham dự và ảnh hưởng đến kết quả của những hoàn cảnh khác nhau. Chúng hiểu rằng, vì tâm người khác náo động, nó không có nghĩa là tâm của ta cũng sẽ phải giống như thế.