Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Học Phật Theo Tinh Thần Tích Tập Và Buông Xả

01 Tháng Hai 201400:00(Xem: 10035)
Học Phật Theo Tinh Thần Tích Tập Và Buông Xả

Học Phật Theo Tinh Thần Tích Tập Và Buông Xả



sakya-muni-45Không gian vũ trụ mênh mông vô định hướng, nhưng không gian cũng chỉ là sự tích tập, buông xả mà thôi. Tích tập là duyên sinh tụ hội của vạn pháp, và buông xả là sự lặng thinh tuyệt đối của không gian vô định như thuở nào vô thủy vô chung. Cuộc sống con người cũng vậy, không phải từ lúc sinh ra cho đến trưởng thành mới gọi hiểu biết tích tập, mà tất cả mọi hoạt động của từng cá nhân trong đời này, đều do tích tập vô số nhân duyên đời trước tạo thành. Suy ra như vậy, sinh hoạt xã hội, đất nước quốc gia, chính thể… đều bắt nguồn từ bao đời sống quá khứ cho đến ngày nay. Nhận thức như trên, ta thử xét về tinh thần học Phật qua hai vấn đề Tích tập và Buông Xả.

TÍCH TẬP:

Là cách nói khác của sự hình thành qua điều kiện nhân duyên. Chẳng hạn xã hộisự tích tập của nhiều người, và nhiều người là sự tập hợp từng người một. Rồi từng người một, lại được tạo thành do các phần thể căn thân vật chất, và tinh thần ý thức. Như vậy làm người không thể ngẫu nhiên sinh ra, càng không thể đơn giảnđiều kiện xây dựng được một gia đình, xã hội, quốc gia. Từ đây việc học Phật làm cho ta suy nghĩ nhiều hơn; vì không thể dễ dàng hiểu được một chân lý siêu việtlịch sử từ hơn 2500 năm. Ngay trên đất Ấn, thời Phật tại thế, còn rất nhiều người không hiểu, vì Phật chỉ sinh ra, thành đạo, hoằng pháp giới hạn ở miền Bắc Ấn, và phương tiện truyền thông bấy giờ hết sức lạc hậu, thì làm sao những người ở miền Trung, Nam Ấn có thể thấy hay nghe biết đến Ngài. Đây nói lên việc tích tập pháp giải thoát trong một con ngườiliên hệ đến đời sống quá khứ. Nếu từ khi nhân loại biết được Phật xuất hiện, mà chúng ta vẫn bao lần sinh tử, lang thang qua nhiều đất nước không duyên Phật pháp, thì đời nay đương nhiên không thể hiểu được giáo pháp Như Lai. Nói rõ hơn không thể nào đời trước chưa từng gieo nhân giải thoát, mà đời này có thể chứng đạo.

Thế thì không ngạc nhiên, tại sao thế giới có trên 7 tỉ người, mà người tin đạo giải thoát còn chưa tới nửa tỉ. Chúng ta không thể bắt ép người khác phải tin cho được đạo giải thoát, dù người đó là người thân của ta. Ta chỉ nên cư xử, hành động theo lời Phật dạy, để làm nhân duyên cho người khác tìm hiểu, hay kết duyên mà thôi. Một khi người ta đã không tin, hoặc còn chỉ trích bác bỏ, điều đó nói lên pháp giải thoát quá xa lạ với họ, và không chừng họ đã từng chống đối từ nhiều đời trước. Như trường hợp Đề Bà Đạt Đa luôn luôn chống đối Đức Phật, không phải chỉ có một đời.

Sự tích tập tạo thành nhân và đủ duyên thì sinh quả. Người không tin đạo giải thoát họ không có lỗi; vì nhân quá khứ không có nên quả và duyên hiện tại không sinh, thế nên đời này phản bác, chỉ trích cũng không lạ. Tuy nhiên một khi nhân phát khởi, bấy giờ có bảo họ không tin cũng không được. Xưa kia Phật vẫn dạy, đến với đạo giải thoát phải thấy hiểu rồi mới tin, chứ không thể tin mù quáng, hóa ra ngược lại phỉ báng giáo lý Như Lai.

Ngày nay người học Phật chúng ta, có được niềm tin giải thoát không mấy khó khăn, đó là nhờ duyên tích tập từ đời trước; nhưng ngày nay vì sống quá xa thời Phật, nên sự tích tập của thời quá khứ, không đủ lực duyên cho ta hành trì trọn vẹn. Nghĩa là ta phải đối phó tích tập các pháp nhiễm khác, xen tạp với pháp giải thoát trong đời sống ngày nay. Xã hội văn minh càng cao, tâm người càng dễ bấn loạn, vì phải ứng xử chạy theo đời sống. Thành ra nhiều người học Phật tự tạo cho mình đủ thứ phương tiện để ứng xử, mong duy trì tín tâm học Phật. Nhưng quá nhiều phương tiện đôi khi trở thành bất lợi, tạo thêm gánh nặng lo âu, và giáo pháp giải thoát tưởng duy trì được, nào ngờ càng mờ nhòa đi. Như vậy mà duyên giải thoát cứ xa lần, chỉ còn hình thức ảnh tượng, theo đó lời Phật dạy hóa thành triết lý siêu hình khó thể ứng dụng thực tế.

Trong ba thời kỳ Phật pháp, Chánh, Tượng và Mạt, quả thật đời này có thể gọi là Mạt pháp không sai. Vì chỉ có hình sắc Phật pháp hưng thịnh, mà hình ảnh chứng đạo của người tu Phật càng ngày càng hiếm đi.

Như thế sự tích tập duyên giải thoát phải được xem trọng trân quý, nếu không nói là thắng duyên tối thượng vô cùng hy hữu; vì điều đó dẫn đến dứt trừ đau khổ, đưa đến giác ngộ chứng đạo. Ngược lại ta phải tiếp tục sinh tử luân hồi vô số đời sống, chỉ vì mỗi lần sinh ra Chánh pháp yếu dần, pháp tục tăng trưởng. Hay quá lắm được phước nhân thiên, nhưng vất vả trong luân hồi tìm kiếm người giác ngộ.

BUÔNG XẢ:

Nếu không hiểu các pháp do duyên sinh, do tích tập thành, việc buông xả sẽ khó thể thực hiện. Thế gian cũng rất nhiều người có lòng quảng đại, thương người mến vật, dám hy sinh xả thân cứu nguy đất nước, hay cứu người thương vật. Làm được như vậy, đó là việc đã từng làm trong quá khứ. Nhưng tâm người hễ còn là phàm phu thì phiền não, tham, sân, dục ái vẫn còn đeo đuổi, trừ khi hiểu và hành đạo giải thoát, sự buông xả mới hoàn toàn tuyệt đối. Sự buông xả được thiết lập và hành động, phải đến từ việc hiểu giáo lý giải thoát, qua ba yếu tố Vô thường, Bất toại ý, và Vô Ngã.

- Vô thường, nên hết thảy mọi pháp đều luôn thay đổi, kể cả vũ trụ mênh mông vô định, vô thường vẫn hằng diễn ra. Con người quá nhỏ bé, nhỏ đến mức không có gì so sánh với cái vĩ đại của vũ trụ vô biên, nên không thể hiểu nó vô thường ra sao! Thật may mắn, nền văn minh của nhân loại ngày nay phần nào cho thấy, các vì sao, các dãi ngân hà, thiên vân, tinh vân… trong vũ trụ vẫn luôn thay đổi; điều đó cho thấy thỉnh thoảng những vầng sao xẹt, là hiện tượng di động của những hành tinh tử sinh trong vũ trụ. Nói gần hơn sự sáng tối, thời tiết nóng lạnh ở trái đất là sự nhắc nhở vô thường của các hành tinh đang hoạt động trong Thái Dương Hệ chúng ta. Và con người cũng vô thường trải qua hàng ngàn năm, để biết mình đang là thế hệ già nua, hay trung trẻ ở thế kỷ 21 này.

Sự buông xả nói cho cùng cũng là đương nhiên, vì không thể bắt được một thứ gì có thể ngưng lại, có thể không thay đổi! Nó không thay đổi bởi nó sống nó chết là do các phần tử, chủng tử nhân duyên tích tập rồi tan rả, tan rả rồi tích tập trong nhân duyên, nhân quả. Nếu ta bảo mặt trời đừng sáng nữa, chuyện không bao giờ có! Hay ta bảo trái đất đừng quay, lại không bao giờ được! Nhưng rồi mặt trời sẽ có một ngày không sáng, và trái đất nhất định sẽ ngừng quay ở một ngày nào đó! Vậy thì chừng ấy ta sẽ ra sao? Thật thú vị, ngờ ngạc làm sao! Vì dù mặt trời có sáng đến chừng nào, hay không còn sáng nữa, dù trái đất không còn quay, hay sẽ quay trong một thời gian dài giống như bất tử, thì ta cũng không thể sống và không thể chết, vì sao? Vì vũ trụ còn hằng hà sa số thế giới, và nếu nghiệp thức của ta còn mãi với tham, sân, si, thì ta vẫn sống, vẫn chết mãi trong luân hồi khắp nơi trong vũ trụ.

Hiểu như vậy ta sẽ không bao giờ bắt buộc điều gì xảy ra theo ý ta, và cũng hiểu như vậy người học Phật sẽ bỏ dần việc chấp ngã chấp pháp.

Bất toại ý (Khổ): Chính là phiền não, là Khổ đau của con người. Khổ đau này chỉ xảy ra với phàm phu si mê trong sinh tử, chứ không bao giờ xảy đến với bậc giác ngộ giải thoát. Khổ sẽ trở thành phi lý nếu bảo bậc trí giả nhìn nhận, vì khổ là do không hiểu các pháp duyên sinh, không hiểu vô thường, nên xảy ra việc không toại ý. Bậc trí giả liễu pháp duyên sinh vô thường thì làm sao có việc toại ý hay không toại ý! Cho nên Khổ dù là chân lý, nhưng chỉ dành cho hạng phàm phu, chứ bậc giải thoát không hề biết khổ, do đó nghe rằng, Khổ vẫn có khổ nhưng người thọ khổ sẽ không còn khổ!

Phàm phu học Phật từ thời Chánh Pháp đến nay, hay đến tương lai chưa biết được, nếu chưa giải thoát, đó là vì chưa hiểu được chân lý duyên sinh. Và thuận theo việc không hiểu chân lý, nên khó thể buông xả các pháp. Pháp thô như vật chất, con người, còn không bỏ được, thì làm sao pháp tế là quan niệm, tư tưởng… lại có thể chối từ! Huống gì Phật còn dạy chính Chánh Pháp còn không chấp hà huống phi pháp. Cuối cùng là kết quả đau khổ, trong khi vẫn tự cho mình đang học hiểu giáo pháp Như Lai.

Vô Ngã:

Là mọi thứ không có tự tính, không tự thể độc lập sinh ra, do tất cả hết thảy đều nương vào duyên sinh lập thành. Mênh mông rộng lớn không thể nghĩ bàn như không gian vũ trụ, mà vẫn không thể gọi là tự thể độc lập. Vì nếu có tự thể độc lập thì ở đâu đó của vũ trụ, sẽ không hề thay đổi, và nếu có thế giới nào rơi vào cái bản thể đó, thế giới đó sẽ chịu ảnh hưởng, sẽ không phải bị mai một, bị sinh trụ dị diệt theo thời gian. Nhưng sự thật thì thế giới nào cũng bị tiêu diệt, bởi có sinh ra.

Cho nên vũ trụ vẫn luôn thay đổi, vì tự tánh các pháp là duyên sinh. Lại có thể nói khi ta nhận định về một cái gì đó, thì cái đó tuyệt đối nhất định phải vô thường. Vì sao? Vì con người đang nhận định đây cũng vô thường, nên đối tượng khách thể được nhận định làm sao không vô thường được!

Thế gian không hiểu điều này, nên ra sức đấu tranh giành giựt nhân ngã sở hữu, hóa thành chiến tranh khủng bố; thậm chí người học Phật, nhất là đời nay, chỉ hiểu vô ngã qua kiến thức văn tự, còn việc hành trì có mấy người thành tựu! Như vậy mới thấy hiểu pháp vô ngã là việc ưu tiên hàng đầu học Phật. Do đó bất kỳ Tông phái nào trong nhà Phật đều phải học giáo lý Tánh Không Vô Ngã.

Tóm lại sự buông xả chỉ xảy ra khi hiểu được 3 yếu tố: Vô thường, Bất toại ýVô ngã.

Như vậy trên đường học Phật giải thoát, sự Tích Tập, Buông Xả cần được ghi nhận thực hành. Ghi nhận đời sống chỉ là Tích Tập nhân duyên nhân quả trải qua nhiều đời, và trong hiện tại quả đang trỗ khởi, cũng là tích tập nhân duyên dẫn đến đời sau. Ghi nhận được việc này, người học Phật sẽ tự nỗ lực gia tâm tích tập càng nhiều nhân giải thoát; theo đó sự buông xả các pháp ô nhiễm cũng được thực hành không còn khó khăn. Nguyện cho tất cả hai giới Phật tử chúng ta sẽ được thành tựu viên mãn, thực hành Chánh pháp giải thoát.

Nam Mô Bổn Sư Thích Mâu Ni Phật

Mùa Xuân Giáp Ngọ 2014

TK Thích Phổ Huân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 62)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 87)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 171)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 199)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 222)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 258)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 229)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 224)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 428)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 255)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 365)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 296)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 286)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 263)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 371)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 368)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 484)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 357)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 618)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 388)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 420)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 578)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 488)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 412)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 716)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 457)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 517)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 460)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 460)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 477)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 480)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 405)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 870)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 895)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 734)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1081)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 544)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 514)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 592)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 592)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 585)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 754)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 652)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant