TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH
QUA PHẬT GIÁO
Khi
chúng ta tìm hiểu Phật giáo là
chúng ta tìm hiểu chính mình,
tìm hiểu tâm bản nhiên của chính
chúng ta. Thay vì
để ý đến những
vấn đề siêu việt,
siêu nhân,
Phật giáo thường chú trọng đến những
vấn đề thực tế như làm thế nào để thăng tiến
đời sống thường ngày, làm thế nào
để tâm hồn thêm
tốt đẹp và làm sao giữ cho
đời sống của
chúng ta luôn
thanh thản, khỏe mạnh.
Thực ra chúng tôi chẳng coi
Phật giáo là một
tôn giáo đúng nghĩa của một
tôn giáo. Theo
quan điểm của các
Lạt ma thì
Phật giáo thiên về triết lý sống, khoa học và
tâm lý học hơn.
Thông thường tâm của
con người thích
tìm kiếm hạnh phúc. Dù là người phương Đông hay người phương Tây,
chúng ta đều có những ước muốn giống như nhau, chẳng có gì khác hơn điều đó. Nhưng nếu sự
tìm kiếm hạnh phúc bắt nguồn từ một
lý do tham lam,
bám víu thì thật là nguy hiểm.
Chúng ta đã không có sự
kiểm soát.
Chúng ta không
tỉnh thức.
Đừng nghĩ rằng sự
kiểm soát đó chỉ dành cho người
Đông Phương hay dành cho
Phật tử. Tất cả
chúng ta đều
cần phải tự
kiểm soát,
đặc biệt những người đang
chạy theo đời sống vật chất, những người đang mong tìm sự
vừa ý và những người đi tìm
cảm giác. Những người đó đã quá chú trọng đến
đời sống bên ngoài và thích đi tìm những sự
ràng buộc. Theo
Phật giáo, đó là những người bị tâm bệnh, những người có bệnh
tâm thần.
Thực tế cho biết, những người
chạy theo đời sống bên ngoài, những người chỉ mong tìm sự
thỏa mãn ở những
tiến bộ khoa học kỹ thuật đã chẳng bao giờ
hài lòng, chẳng bao giờ
giải quyết được những đòi hỏi của
dục vọng. Nhưng, những gì
Đức Phật dạy lại chỉ cho
chúng ta biết được những khả năng của tâm
chúng ta, những tiềm năng
tự nhiên của
con người. Mỗi khi
chúng ta nghiên cứu Phật giáo là
chúng ta tự
tìm hiểu chính
chúng ta,
chúng ta là ai và làm thế nào để tiến
xa hơn, để phát triển hơn nữa. Thay vì
quan tâm đến những
hệ thống tín ngưỡng, những
phương pháp của
Phật giáo dạy
chúng ta phát triển sự
hiểu biết sâu xa về chính
con người chúng ta và những
hiện tượng ở chung quanh
chúng ta.
Tuy nhiên, dù
chúng ta đang theo một
tôn giáo hay đang
chạy theo đời sống vật chất, dù có
lòng tin hay
vô thần, điều quan trọng là
chúng ta có hiểu tâm của
chúng ta làm việc như thế nào không?
Nếu không,
chúng ta chỉ đi “loòng voòng” rồi
chúng ta tưởng rằng
chúng ta đang
hạnh phúc,
chúng ta đang khỏe mạnh, nhưng
thực ra chúng ta đang đi sâu vào
ảo tưởng,
ảo giác, vì thế những mầm mống của tâm bệnh lại đang từ từ lớn lên ở trong ta. Chính vì thế khi
đời sống thường ngày có một chút thay đổi, có một chút
bất mãn là
chúng ta trở nên tức giận và
cáu kỉnh ngay. Đối với tôi, đó là tâm bệnh. Tại sao? Bởi vì
chúng ta chạy theo đời sống vật chất, bị
mù quáng vì những
ràng buộc và bị
kiểm soát bởi những căn nguyên gây ra những
rắc rối.
Chúng ta đã không biết
bản tính tự nhiên của tâm
chúng ta !
Chẳng sao cả, nếu
chúng ta cứ làm lơ những điều nói ở trên và vẫn cho rằng “tôi chẳng tin gì cả.” Đây chẳng phải là
vấn đề để tin. Cũng không sao cả, không cần biết
chúng ta tin đến mức độ nào, dù tin hay không tin tôi có một cái mũi thì cái mũi vẫn ở đó, ở ngay giữa đôi mắt của tôi. Cái mũi của
chúng ta vẫn ở đó dù
chúng ta tin hay không tin!
Tôi đã gặp rất nhiều người, họ
hãnh diện tuyên bố: “ tôi chẳng phải người dễ tin!” Họ qúa tự kiêu về sự không
tin tưởng của họ. Hãy thận trọng! Đây là một
vấn đề quan trọng để biết: hiện nay có qúa nhiều điều
mâu thuẫn trên
thế giới này! Khoa học
vật chất tuyên bố: “tôi không tin,”
tôn giáo tuyên bố: “tôi tin.” Nhưng không sao cả, dù tin hay không tin,
chúng ta vẫn cần
tìm hiểu bản tính tự nhiên của tâm
chúng ta.
Nếu không thì dù
chúng ta có nói về những sự
ràng buộc đang xẩy ra bao nhiêu đi nữa,
chúng ta cũng chẳng có
ý niệm gì
rõ ràng về chúng và làm sao để
kiểm soát chúng. Nói thì rất dễ. Điều khó khăn là làm thế nào để hiểu được
bản tính tự nhiên của sự
ràng buộc.
Thí dụ, khi
con người mới chế ra xe và máy bay, họ
tin tưởng rằng họ có thể làm được
mọi việc nhanh hơn để rồi có nhiều
thì giờ nghỉ ngơi. Nhưng rồi chuyện gì đã xẩy ra, họ lại
vất vả hơn và chẳng có đủ
thời giờ để nghỉ ngơi hơn trước kia. Hãy
quan sát đời sống thường ngày của
chúng ta, vì bị
ràng buộc nên
chúng ta bị chôn vùi
sâu xa vào
đời sống vật chất do chính
chúng ta tạo ra đến nỗi
chúng ta đã
bỏ quên chính mình mà không còn một chút
thời giờ để trực diện với tâm ta. Với tôi, đó là sự định nghĩa cho
một đời sống khó khăn.
Chúng ta không thể tìm đâu ra sự
thỏa mãn hay sự
thụ hưởng đời sống.
Sự thật là:
hạnh phúc và
an lạc chỉ có
từ tâm ta, chẳng phải từ những vật ở bên ngoài !
Tuy nhiên, có những người
thông minh, có những người không tin vào
đời sống vật chất, họ hiểu cái gì cũng có gía trị của cái đó. Họ vẫn hưởng thụ
đời sống nhưng họ cũng
cố gắng tìm hiểu cái gì mới thực sự mang lại
hạnh phúc cho
cuộc đời.
Khi
Đức Phật nói về khổ, Ngài đã không chỉ
đơn giản đề cập đến những
vấn đề bệnh tật gìa nua nhưng Ngài đã
nói thẳng đến các căn nguyên của
đau khổ và
bất mãn, chúng đang nằm
tại tâm của
chúng ta. Chẳng cần biết
chúng ta đã có được những gì trên đời này, chỉ biết rằng
chúng ta chẳng bao giờ
thỏa mãn với chúng. Những
ham muốn bất tận này chính là nguồn gốc của khổ đau,
bản tính của chúng là mang lại
đau khổ.
Tâm lý học
Phật giáo có đề cập đến 6 loại
cảm xúc căn bản mà chúng chuyên
phá hoại tâm thức con người, chúng luôn luôn quấy phá sự
an lạc và
chúng hiện hành không ngừng nghỉ, đó là:
tham ái,
giận dữ,
vô minh,
kiêu mạn,
ngờ vực và những
quan niệm sai lầm. Đấy là những
thái độ bệnh hoạn, chúng không là những
hiện tượng ở bên ngoài
chúng ta, chúng ở ngay trong tâm ta.
Giáo lý Phật giáo đặc biệt quan tâm đến chúng và
tìm cách vượt thắng chúng. Chúng là căn nguyên mọi khổ đau. Sự
tin tưởng và
tín ngưỡng không giúp gì được bao nhiêu trong
vấn đề này mà
chúng ta cần phải hiểu
sâu xa tận gốc rễ
bản chất của chúng thì mới mong
giải thoát khỏi chúng.
Nếu
chúng ta không
nghiên cứu tìm hiểu tâm của
chúng ta bằng
trí tuệ thì
chúng ta sẽ không bao giờ biết được có gì ở trong đó. Không
tìm hiểu, không
kiểm soát thì dù
chúng ta có nói đến nó nhiều thế nào đi nữa,
chúng ta cũng chẳng bao giờ thực sự hiểu được những
cảm xúc căn bản này lại chính là
ngã chấp. Chính nó là căn nguyên của mọi khổ đau và
bất an trong
cuộc đời.
Để
kiểm soát “cái tôi”,
chúng ta không
cần phải vất đi những vật mà
chúng ta đang
sở hữu. Hãy giữ tất cả những vật gì mà
chúng ta đang có vì chúng không làm cho
đời sống của
chúng ta khó khăn.
Chúng ta không được
thanh thản bởi vì
chúng ta bám víu, bởi vì
chúng ta bị
lệ thuộc vào những
tài sản của
chúng ta.
Ngã chấp và những sự
ràng buộc đã làm
lu mờ tâm ta, chúng làm tâm ta không còn
trong sáng;
vô minh và những
loạn động của
đời sống đã
ngăn cản sự phát triển của
trí tuệ. Để
giải quyết vấn đề này, chỉ có
thiền định mới có thể giúp
chúng ta được.
Thiền định không chỉ có nghĩa là ngồi ở một góc nào đó chăm chú tập trung vào một điểm và không làm gì cả. Thiền là
đánh thức tâm, là khai mở
trí tuệ, ngược hẳn lại với sự lười biếng.
Chúng ta nên
duy trì sự
tỉnh thức trong từng giây phút
trong đời sống hàng ngày, thực sự
ý thức tất cả những gì
chúng ta đang làm, tôi đang làm gì đây? tại sao tôi đang làm việc này? làm việc này như thế nào?
Hầu như
chúng ta thường làm
mọi việc một cách
vô ý thức, làm mà không
biết mình đang làm gì.
Chúng ta ăn mà không
biết mình đang ăn, uống mà chẳng
biết mình đang uống, nói chuyện mà chẳng
biết mình đang nói gì.
Mặc dầu chúng ta bảo rằng
chúng ta tỉnh thức nhưng
thực ra chúng ta hoàn toàn không
nhận ra được cơn nóng giận đang tràn qua tâm ta, chúng gây
ảnh hưởng đến tất cả những gì
chúng ta đang làm.
Chúng ta hãy tự khám nghiệm mà xem,
chúng ta hãy tự
kinh nghiệm lấy. Tôi không phán xét qúy vị, tôi cũng chẳng làm qúy vị mất
tinh thần. Đây là cách làm việc của
Phật giáo ! Nó cho
chúng ta một
ý tưởng để
chúng ta có thể tự
kinh nghiệm lấy những việc mà
chúng ta đã làm xem chúng là thật hay giả, đúng hay sai. Đây là một điều rất thực tế! Tôi không nói tới những điều cao xa ở mãi trên tận trời xanh kia. Đây
hoàn toàn là những chuyện rất
đơn giản, thực sự đơn giản!
Nếu
chúng ta không hiểu được những
đặc tính của sự
ràng buộc và những đối tượng của chúng thì làm sao
chúng ta có thể phát triển
tâm từ, lòng
yêu thương đến bạn bè,
cha mẹ, những người thân và đến quê hương của
chúng ta được. Theo
quan điểm của
Phật giáo thì thật là khó có thể
thực hiện được nếu
chúng ta không có sự
hiểu biết sâu xa. Mỗi khi
chúng ta làm buồn lòng
cha mẹ chúng ta hay bạn bè của
chúng ta là lúc đó tâm
chúng ta không
tỉnh thức. Trong lúc nóng giận, người nóng giận
hoàn toàn hành động như những gì đang xẩy ra trong tâm của họ. Những hành động không
tỉnh thức chỉ gây
đau khổ cho
chúng ta và làm
phiền lòng những người khác. Những
cử chỉ không
tỉnh thức, những
thái độ không
tỉnh thức làm
chúng ta mất
nhân tính. Tất cả
vấn đề là như vậy đó, thật là
đơn giản, phải không qúy vị ?
Thời đại này,
con người được
học hỏi và được
dạy bảo để trở nên những
nhà tâm lý học.
Ý kiến của
Đức Phật là tất cả
mọi người nên
trở thành một
nhà tâm lý học cho chính mình. Mỗi người
chúng ta nên hiểu tâm của mình, mỗi người
chúng ta nên là một
nhà tâm lý học cho chính mình. Điều này
chắc chắn có thể
thực hiện được. Mỗi một người đều có khả năng hiểu được tâm của mình. Một khi
chúng ta hiểu được tâm của
chúng ta là sự
kiểm soát tự nhiên đến.
Đừng nghĩ rằng sự
kiểm soát đó sẽ có khi
chúng ta đi du lịch qua dãy
Hy Mã Lạp Sơn hay sự
kiểm soát đó sẽ dễ dàng xẩy ra cho những người có ít
tài sản. Điều này
hoàn toàn sai. Trong tương lai, nếu
chúng ta nổi nóng, hãy
chiêm nghiệm nó
xem sao. Thay vì làm một vài việc gì để quên
cơn giận dữ,
chúng ta hãy
cố gắng bình tĩnh, nghỉ ngơi, thư dãn
thoải mái và tự hỏi
chúng ta đã làm gì? Hãy tự hỏi: “Tại sao tôi làm vậy? Tôi làm như thế nào?
Nguyên nhân đến từ đâu?
Nguyên nhân của cơn tức giận là gì?...”
Chúng ta sẽ
tìm ra được những
kinh nghiệm qúi gía ở trong đó.
Vấn đề của
chúng ta là thiếu sự
tỉnh thức của
trí tuệ, vì thế
chúng ta sẽ
khám phá ra được nguồn gốc của sự tức giận nếu
chúng ta hiểu nó và như vậy
chúng ta sẽ
giải quyết được những
rắc rối trong đời sống một cách dễ dàng.
Để cảm nhận được tình
yêu thương từ người khác hay cho người khác,
chúng ta cần hiểu họ.
Nếu không, dù
chúng ta có nói: “anh yêu em, em yêu anh” thì cái tâm
kiêu mạn, ta đây, lại dẫn
chúng ta đến một cái “ngã chấp” khác mà thôi. Phải
chắc chắn rằng
chúng ta hiểu
vấn đề tại sao? thế nào? Trở nên một
nhà tâm lý học cho chính mình là một điều
vô cùng quan trọng! Rồi
chúng ta sẽ được hướng dẫn qua một cái tâm
trong sáng,
lành mạnh,
chúng ta sẽ dễ dàng
thoải mái,
an lạc, hưởng
hạnh phúc cuộc đời hơn,
vui vẻ với
mọi người hơn, thay vì bận rộn,
bất an,
lo lắng và
hoang phí cuộc đời.
Để trở nên một
nhà tâm lý học,
chúng ta chẳng
cần phải học những triết
lý cao thâm khó hiểu. Chỉ cần
theo dõi, giám sát chính cái tâm của
chúng ta trong từng ngày.
Chúng ta đã quen
kiểm soát những
vật dụng của
chúng ta mỗi ngày - mỗi buổi sáng
chúng ta coi lại
thức ăn trong tủ lạnh - nhưng
chúng ta đã không bao giờ coi lại tâm của
chúng ta. Hãy
kiểm soát lại tâm mỗi ngày là một
việc làm quan trọng hơn.
Tuy nhiên, hầu như
chúng ta có khuynh hướng làm ngược lại.
Chúng ta nghĩ rằng
chúng ta có thể dễ dàng mua được một
giải pháp để trị tất cả những
rắc rối của
chúng ta. Những người có khuynh hướng
vật chất cho rằng có tiền mua tiên cũng được, họ có thể mua bất cứ gì để làm họ vui, họ có thể mua được sự
an lạc.
Sự thật không phải vậy, đó chỉ là những mơ tưởng, đó chỉ là những
quan niệm sai lầm.
Có một số người lại cho rằng
tôn giáo có bổn phận phải lo cho tâm của họ. Chỉ tin vào
tôn giáo mà thôi thì không bao giờ có thể
chấm dứt được những
rắc rối; nhưng sự
hiểu biết bằng
trí tuệ luôn luôn thay đổi được
vấn đề. Chính
Đức Phật cũng nói rằng tin vào Phật là một điều nguy hiểm; thay vì tin vào một điều gì,
con người nên dùng
trí tuệ của họ để
khám phá ra cái
bản tính thực sự của tâm họ.
Niềm tin đặt
căn bản trên sự
hiểu biết thì tốt, một khi
chúng ta đã
ý thức rõ ràng hoặc đã
sáng tỏ được
vấn đề thì sự
tin tưởng tự nhiên đến.
Tuy nhiên,
niềm tin đặt trên
căn bản sai lầm thì rất dễ thay đổi khi bị người khác
phê bình,
chỉ trích.
Đáng tiếc thay, có một số người
đi theo một
tôn giáo nhưng
đời sống tâm linh của họ lại qúa
yếu kém. Tại sao?
Tại vì họ không hiểu được cái
tâm chân thật của họ. Nếu
chúng ta thực sự hiểu được tâm của
chúng ta là gì, nó làm việc như thế nào thì
chúng ta sẽ dễ dàng biết được
sức mạnh của tâm ta, từ đó
chúng ta có thể
ngăn ngừa được rất nhiều
rắc rối trong
cuộc đời. Một khi
chúng ta hiểu được những
quan điểm của
chúng ta, những
tri giác của
chúng ta về
thế giới chung quanh ta,
chúng ta sẽ
nhận ra được một
sự thật là
chúng ta thường xuyên chụp bắt những
cảm giác trần gian, tất cả những cái đó
hoàn toàn là tưởng tượng,
hoàn toàn không xẩy ra trong tương lai,
hoàn toàn vô ý thức ở
hiện tại,
chúng ta hoàn toàn sống bằng
dự tính,
vọng tưởng.
Chúng ta có nhìn nhận một cái tâm
vô ý thức ở
hiện tại và chộp dật ở tương lai là một cái tâm
bệnh hoạn không?
Điều quan trọng là sống
tỉnh thức trong từng ngày.
Đặc tính tự nhiên của
trí tuệ và
tỉnh thức là
an lành và
hạnh phúc.
Chúng ta không
cần phải chộp dật,
tranh giành mới có
hạnh phúc. Cho tới khi nào
chúng ta còn đi trên
con đường tỉnh thức,
hiểu biết và hành động ngay thẳng với tất cả khả năng của
chúng ta thì
chúng ta sẽ được kết qủa
tốt đẹp ngay trong lúc đó.
Chúng ta không
cần phải hỏi: “ Nếu trong
cả đời tôi, tôi làm mọi điều
tốt lành thì tôi có được
hạnh phúc trong
kiếp sau hay không?”
Chúng ta không cần mang sang
kiếp sau. Cho tới khi nào
chúng ta còn làm
mọi việc trong sự
hiểu biết, trong sự
tỉnh thức thì lúc nào, kiếp nào
chúng ta cũng
an lạc, cũng
an nhiên tự tại.
Tôi nói như thế là qúa đủ rồi.
Tốt hơn, hãy dành
thì giờ cho những câu hỏi, thay vì tôi nói hoài.
Hỏi: Khi ngài đề cập đến
thiền định, ngài đã không nói đến
quán tưởng. Hình như có người
quán tưởng dễ, có người
quán tưởng rất khó. Làm thế nào để phát triển khả năng này?
Lạt ma: Những gì đã được
diễn tả về
quán tưởng thì
đơn giản nhưng rất khó cho nhiều người bởi vì tâm của họ không được huấn luyện, sự tưởng tượng của họ qúa
nghèo nàn, họ qúa
vật chất. Có lẽ họ chỉ có thể nghĩ được rằng tất cả những gì chung quanh họ đều là
vật chất như thân xác của họ, không có một cái tâm nào ngoài bộ óc của họ.
Phật giáo có những
phương pháp mà
chúng ta có thể huấn luyện tâm và phát triển khả năng
quán tưởng trong
thiền định.
Thực ra,
chúng ta đã tưởng tượng trong từng ngày. Những gì
chúng ta ăn bữa sáng, đó là những món
chúng ta đã tưởng tượng tối hôm qua.
Chúng ta đi chợ,
chúng ta nghĩ: “ cái này đẹp” hay “tôi không thích cái này,” bất cứ cái gì
chúng ta nhìn đều là những phóng tưởng của tâm
chúng ta. Như vậy
quán tưởng là một điều
hoàn toàn dễ hiểu. Những chủ chợ và những nhà
quảng cáo hiểu được tầm quan trọng của
vấn đề này, nên họ tạo ra rất nhiều lối trình bày hay rất nhiều mẫu
quảng cáo để gây
hấp dẫn người mua: “ hãy mua cái này đi!” Họ biết rằng những
quảng cáo đó
ảnh hưởng sâu xa đến
tâm trí chúng ta, đến sự tưởng tượng của
chúng ta.
Quán tưởng không phải là cái gì
siêu việt, nó
hoàn toàn khoa học.
Hỏi:
Theo như những điều ngài vừa trình bày, tôi có
cảm tưởng rằng ngài
chỉ trích người
Tây phương, ngài cười những gì
chúng tôi đã làm và những
phương pháp giáo hóa của
chúng tôi không hữu hiệu.
Thực ra tôi không có câu hỏi, nhưng ngài đã nhìn thấy tương lai của
nhân loại ra sao với những
tiến bộ mà người
Tây phương đang phát triển, như chế những máy bay lớn hơn, xây nhà vĩ đại hơn, những
hệ thống siêu thị
tối tân hơn? Ngài đã nhìn thấy gì?
Lạt ma: Tôi chỉ nhìn thấy người
Tây phương bận rộn hơn,
vất vả hơn và ít
thì giờ nghỉ ngơi hơn. Tôi không
chỉ trích đời sống vật chất hay những
tiến bộ khoa học nhưng nó thiếu sự
kiểm soát của tâm. Bởi vì anh không biết anh là ai, anh tiêu phí
cuộc đời một cách
mù quáng cho những sự níu kéo,
bám víu và
tranh giành mà tôi gọi là những “siêu thị
vật chất.” Anh đã khuấy động
đời sống của anh, anh đã làm nó không còn
an tịnh. Thay vì giữ cho nó được
toàn vẹn thì anh đã bẻ gẫy nó ra từng mảnh. Hãy tự
tìm hiểu xem sao. Tôi không đẩy anh xuống đáy vực.
Phật giáo không
cho phép chúng tôi kéo
đời sống của bất cứ một người nào xuống một cách võ đoán, một cách
giáo điều. Tất cả những gì tôi trình bày ở đây chỉ với một đề nghị là
chúng ta nên thay đổi lối nhìn sự vật bằng một đường lối khác.
Hỏi: Thưa
Lạt ma, như ngài, tôi thấy hầu như tất cả các vị thầy
Tây Tạng đều là nam giới. Có những vị
tái sinh, những
vị đạo sư là
nữ giới không?
Lạt ma:
Dĩ nhiên là có. Đàn ông hay đàn bà đều
bình đẳng trong
vấn đề phát triển
tâm linh. Tại
Tây Tạng, có những
vị đạo sư là đàn bà.
Phật giáo dạy rằng
chúng ta không có quyền
phán đoán một người từ bên ngoài;
chúng ta không được nói: “anh chẳng là cái gì cả, tôi mới là người
đặc biệt.”
Chúng ta thực sự không bao giờ được
phê bình người này có
trình độ cao, người kia thấp.
Hỏi: Có
luật lệ nào để
phân biệt một vị sư nam và một vị sư nữ không?
Lạt ma: Không. Họ được dạy giống như nhau và họ huấn luyện học trò của họ cũng như vậy.
Hỏi: Thật là khó khăn để kiếm một vị thầy. Thật là nguy hiểm khi
thực hành mật tông nếu không có thầy mà chỉ đọc qua sách vở, có phải vậy không? Thưa ngài.
Lạt ma: Đúng, rất nguy hiểm.
Nếu không có sự
chỉ dẫn đặc biệt. Anh không thể mua một vài cuốn sách về
mật tông rồi nghĩ: “ ồ,
tuyệt vời qúa, tôi phải
thực hành ngay bây giờ!”
Thái độ này không bao giờ mang lại
sự thật, không bao giờ mang lại kết qủa. Anh cần sự hướng dẫn của một vị thầy có
kinh nghiệm. Đúng vậy, những gì viết trong sách thật là
tuyệt diệu, nhưng nếu anh không biết
phương pháp thì anh không thể biến chúng thành những
kinh nghiệm của riêng anh. Anh cần một cái chìa khóa. Đã có rất nhiều sách
Phật giáo được chuyển dịch sang tiếng Anh. Họ bảo anh: “
bám víu là xấu, đừng nóng giận” nhưng làm sao để
từ bỏ sự nóng giận,
từ bỏ những bám víu? Ngay cả trong Kinh Thánh cũng khuyên
chúng ta bác ái, thương người nhưng làm thế nào để sống
yêu thương bằng tất cả
kinh nghiệm của riêng chúng ta?
Chúng ta cần có một cái chìa khóa, chỉ có những vị thầy mới cho
chúng ta được.
Hỏi: Những người
Tây phương cần phải làm gì để kiếm được một vị thầy? Họ có
cần phải sang Phương Đông để tìm không?
Lạt ma: Đừng lo. Khi thời điểm đến, anh sẽ gặp thầy của anh.
Phật giáo không
cho phép chúng ta thúc đẩy bất cứ một người nào: “tất cả
mọi người phải học thiền, tất cả
mọi người phải
trở thành Phật.” Thật là điên!
Thúc đẩy người khác là không khôn ngoan chút nào. Khi anh đã thực sự
chân thành sẵn sàng
tu tập thì một
thần lực sẽ
liên kết anh và thầy anh lại. Về
vấn đề đi qua Phương Đông, nó
tùy thuộc vào
tình trạng,
hoàn cảnh của riêng anh. Hãy
kiểm soát xem. Một điều rất quan trọng là hãy
tìm kiếm bằng
trí tuệ chứ đừng tìm bằng
lòng tin mù quáng. Đôi khi đi qua Phương Đông anh lại chẳng
tìm thấy thầy, phải cần
thời gian.
Hỏi:
Phật giáo nghĩ sao về
vấn đề tự tử ?
Lạt ma: Những người tự
kết liễu đời mình họ không bao giờ hiểu được
ý nghĩa và
giá trị khi được sinh làm người. Họ tự tử vì
vô minh. Họ không
tìm kiếm được ở đâu sự
thỏa mãn, nên họ nói: “tôi
hết hy vọng rồi !”
Hỏi: Nếu một người vì
vô minh không tin rằng họ có thể
giác ngộ thì họ
tiếp tục sống để làm gì?
Lạt ma: Một người
vô minh mà nghĩ rằng họ
giác ngộ là một người
hoàn toàn có tâm
bệnh hoạn như vậy họ lại càng
vô minh hơn. Tất cả những gì họ có thể làm là
kiểm soát lại những hành động
vô ý thức của họ thì họ sẽ
nhận ra họ chưa
giác ngộ. Cũng vậy, anh không bao giờ hỏi người khác: “Tôi đã
giác ngộ chưa?” Hãy tự
kiểm điểm kinh nghiệm của riêng anh.
Giác ngộ là một điều cao hơn sự việc
cá nhân.
Hỏi: Tôi thích lối
diễn tả của ngài về sự quan trọng của sự
hiểu biết trong
vấn đề tin tưởng, nhưng tôi
nhận thấy khó làm cho người
Tây phương hay khó
giải thích theo khoa học về
ý niệm tái sinh:
đời sống trong qúa khứ,
hiện tại và tương lai. Làm sao ngài có thể
chứng minh được
vấn đề này?
Lạt ma: Nếu anh có thể
hình dung được sự
liên tục của tâm anh từ lúc còn phôi thai trong bụng mẹ đến bây giờ thì anh sẽ hiểu. Sự
liên tục của
tâm thức cũng gần giống như dòng điện chạy từ máy phát điện qua giây điện đến lúc nó cháy sáng ở
ngọn đèn. Từ giây phút thọ thai đến khi thân xác anh
thành hình,
thần thức liên tục chạy qua đó,
chuyển hóa,
chuyển hóa và
chuyển hóa.... nếu anh
hình dung được điều đó, anh sẽ dễ dàng hiểu được
tâm thức của anh
liên tục từ những
kiếp trước. Như tôi vẫn thường nói, để tin được điều này không phải là dễ.
Dĩ nhiên,
lúc đầu rất khó
chấp nhận quan niệm tái sinh, vì ngày nay nó còn là một
ý niệm qúa mới mẻ cho hầu hết
mọi người,
đặc biệt là những người
Tây phương. Họ không dạy anh về sự
liên tục của dòng
tư tưởng ở trường học; anh không được học về
bản tính tự nhiên của tâm ở
đại học, như anh là ai, anh là gì? Vì thế, nó
hoàn toàn mới cho anh. Nhưng, nếu anh nghĩ rằng một điều
vô cùng quan trọng cho anh là biết được anh là ai, anh là gì và nếu anh thường
tìm hiểu tâm qua
thiền định, anh sẽ dễ dàng biết được sự khác biệt giữa thân xác anh và tâm anh; anh sẽ
nhận ra dòng
liên tục của
tâm thức anh; từ đó anh sẽ biết được những
kiếp trước của anh.
Chúng ta không nên tin thuyết
tái sinh một cách
mù quáng.
Hỏi: Xin ngài
giải thích rõ hơn về sự
liên hệ giữa
thiền định, sự
giác ngộ và những
siêu thần lực, như nhìn được tương lai, đọc được tâm người khác và nhìn được những gì xẩy ra ở rất xa...?
Lạt ma: Một
điều chắc chắn là có thể
thành công qua sự
thực hành phương pháp tập trung vào một điểm, nhưng
chúng ta cần một
thời gian rất dài để tập. Từ từ, hãy từ từ để
hiểu rõ tâm của
chúng ta, rồi
chúng ta sẽ phát triển được khả năng nhìn sự vật. Nhưng nó không dễ lắm đâu, hãy
thiền định rồi chợt một lúc nào đó
chúng ta sẽ nhìn được tương lai hay sẽ đạt
giác ngộ.
Chúng ta cần
thời gian.
Hỏi: Nếu
chúng ta thiền định,
chuyên chú đạt
giác ngộ thì
thần lực này sẽ đến do sự
kiểm soát hay chợt đến mà không cần kiểm soát?
Lạt ma:
Thần lực thật sẽ đến trong sự
kiểm soát. Nó không
xuất hiện một cách không
kiểm soát, như sau khi dùng thuốc, dùng cần
sa ma túy. Ngay trước khi đạt
giác ngộ,
chúng ta có thể phát triển khả năng nhìn được
kiếp trước kiếp sau, đọc được tâm người khác, nhưng chúng đến trong sự
tỉnh thức và được từ từ phát triển qua việc phát triển
trí tuệ.
Hỏi: Riêng Ngài, Ngài có thể tách rời tâm khỏi thân xác như xuất vía đi làm một vài việc khác không?
Lạt ma: Không.
Hỏi: Đức
Đạt Lai Lạt Ma có
quyền năng đó không?
Lạt ma:
Đại thừa Phật giáo Tây Tạng có một
truyền thống liên tục không đứt quãng trong việc huấn luyện và phát triển
quyền năng này, nó được truyền dạy trực tiếp từ thầy qua trò thẳng từ
Đức Phật đến bây giờ,
mặc dầu được
dạy bảo nhưng không có nghĩa là tôi đã
thành tựu được. Hơn nữa,
Phật giáo Tây Tạng cấm bất cứ một
Lạt ma nào có
quyền năng đó được phép
tiết lộ bí mật này. Ngay cả khi anh đã
giác ngộ, anh cũng không có quyền đi khắp nơi
tuyên bố anh là phật,
trừ ra vì một
lý do nào đó. Hãy cẩn thận!
Truyền thống của
chúng tôi khác với
truyền thống của các anh. Bên
Tây phương, anh nghe nhiều người nói: “Thượng đế nói chuyện với tôi tối hôm qua.”
Chúng tôi nghĩ rằng điều đó rất nguy hiểm nếu loan truyền
chi tiết huyền bí đó cho
mọi người, do đó
chúng tôi không được phép làm như vậy.
Hỏi: Cách đây mấy năm, tôi có đọc một cuốn sách tên là “Con mắt thứ ba”, nói về một
Lạt ma đạt được siêu
quyền lực. Có nhiều người khai mở được con mắt này không?
Lạt ma:
Tác giả cuốn sách đó là Lobsang Rampa phải không? Những gì nói trong đó có một chút
hiểu lầm. Con mắt thứ ba không phải là con mắt
vật chất, nhưng đó là con mắt
trí tuệ. Con mắt thứ ba của anh không phải là con mắt
bình thường, nó có khả năng nhìn thấu được tâm bản nhiên của anh.
Hỏi: Như vậy
Phật giáo tin có sự
tái sinh, ngài có thể
cho biết từ kiếp này đến kiếp khác bao lâu không?
Lạt ma: Nó có thể là bất cứ gì, từ một thời điểm nào đó tới 7 tuần. Từ lúc
tâm thức rời khỏi xác, thể vía của
thân trung ấm (bardo) đã ở ngay đó, để chờ nó. Vì lòng khao khát một thân xác khác
thúc đẩy,
thần thức bắt đầu tìm một
thân thích hợp, khi nó kiếm được thì sự
tái sinh bắt đầu.
Hỏi:
Phật giáo giải thích thế nào về sự phát triển dân số? Nếu Ngài tin vào sự
tái sinh thì làm sao dân số cứ tăng hoài?
Lạt ma: Điều đó
dễ hiểu thôi. Cũng như khoa học tân tiến,
Phật giáo thường nói về sự
hiện hữu của hàng tỉ tỉ ngân hà (
tam thiên đại thiên thế giới).
Tâm thức của một người sinh ra trên trái đất có thể đến từ một hành tinh xa xôi nào đó, xuống đây vì
duyên nghiệp, chính vì sự
liên hệ đó mà
thần thức đi vào trái đất này. Ngược lại,
thần thức của một người vừa chết ở qủa đất này nếu có
duyên nghiệp tái sinh ở một hành tinh xa xôi nào đó thì
thần thức này sẽ đi về đó. Nếu nhiều
thần thức đi vào trái đất này thì dân số sẽ tăng lên, nếu ít thì dân số sẽ giảm đi. Điều đó không có nghĩa là một
thần thức mới sẽ
nhập thai. Mỗi một
thần thức tái sinh ở đây đều đến từ một
kiếp trước, có thể từ một hành tinh khác, có thể từ ngay qủa đất này, nhưng không đến từ không-nơi-nào cả, tất cả đều
tùy thuộc vào luật
luân hồi của
vạn hữu.
Hỏi: Có phải
thiền định theo
phương pháp của
Phật giáo thì
tốt hơn các
phương pháp khác không? hay mỗi
phương pháp thích hợp cho mỗi người khác nhau?
Lạt ma: Tôi không thể nói
phương pháp của
Phật giáo hay hơn các
phương pháp khác, nó
thích hợp tùy theo từng
cá nhân.
Hỏi: Nếu một người đã có
tiến bộ khi
thực tập thiền định theo một
phương pháp nào đó, họ có thể thay đổi qua
phương pháp của
Phật giáo hay không?
Lạt ma: Không
cần thiết. Nếu anh đã
thực tập qua một
phương pháp nào đó mà nó đem lại cho anh sự
tỉnh thức của
tâm hồn, mang lại niềm
an lạc vô biên và anh bằng lòng về thành qủa này thì tại sao lại thử một
phương pháp khác? Nhưng nếu,
thực tập thiền mà tâm vẫn mù mờ, hành động vẫn không
kiểm soát được, vẫn gây
đau khổ khó khăn cho người khác, thì tôi nghĩ rằng
con đường anh đi còn dài lắm. Đó là một điều
vô cùng quan trọng.
Hỏi: Có thể một
bồ tát là một người cộng sản để tái tạo lại sự
hòa hợp của
xã hội không? Tôi muốn nói,
bồ tát có trong hàng ngũ cộng sản không? hay ngược lại, trong
thế giới cộng sản có
bồ tát không?
Chủ nghĩa Mác có thể là một
phương tiện để
giải phóng sự
đau khổ của
chúng sinh không?
Lạt ma: Đó là điều rất khó cho một người như tôi đi phê phán một hành động của
bồ tát, nhưng tôi
nghi ngờ một vị
bồ tát lại
trở thành một người cộng sản để
giải quyết những
vấn đề xã hội. Mọi
rắc rối đều phát xuất
từ tâm thức của từng
cá nhân. Anh phải
giải quyết vấn đề của riêng anh, không cần biết anh đang sống trong
xã hội nào,
xã hội chủ nghĩa, cộng sản hay
tư bản. Hãy
kiểm soát trong tâm của anh.
Rắc rối của anh không phải từ
xã hội, không phải từ tôi. Anh có
trách nhiệm về những
vấn đề của riêng anh cũng như anh có
trách nhiệm giải phóng anh, anh có
trách nhiệm đạt
giác ngộ cho chính anh. Có thể anh sẽ nói: “Siêu thị giúp
con người vì
con người cần mua những thứ ở trong đó, nếu tôi làm việc trong đó là tôi
phụng sự xã hội.” Rồi một
thời gian sau, anh lại nói: “Có thể siêu thị không giúp gì được nhiều, tôi sẽ giúp người nhiều hơn nếu tôi làm việc ở một bưu điện.” Chẳng có cái gì trong vụ này
giải quyết được những
rắc rối của
xã hội. Trước nhất, anh hãy
kiểm soát xem tại sao anh lại có
tư tưởng một vị
bồ tát phải là một người cộng sản mới cứu vớt được
chúng sinh.
Hỏi: Tôi nghĩ rằng ngày nay trên
thế giới có qúa nhiều người đói, qúa nhiều người bị tước đoạt những sự
cần thiết căn bản, họ qúa
lo lắng về đói khổ, về sự
an toàn và
an ninh cho
gia đình họ, họ đã qúa
cực nhọc trong việc đi tìm
vật chất để sống thì còn giờ đâu để nghĩ đến
bản tính của tâm.
Lạt ma: Tôi hiểu những điều anh nói. Nhưng đừng quên rằng những người
đói khát, những người bận tâm về đói và những người dư tiền bạc bận bịu đi mua sắm ở siêu thị họ đều có một
căn bản như nhau. Đừng chỉ chú ý đến những người
thiếu thốn về
vật chất.
Thực ra, người nghèo và người giầu đều bị hành như nhau, tự căn để họ đều
không hạnh phúc, tự căn để họ đều thích
chiếm hữu và
bám víu như nhau.
Hỏi: Nhưng Chúa Krishna đã hợp nhất được xứ Aán độ bằng
tinh thần chiến tranh, thánh chiến, kết qủa là tất cả người Aán độ đều
gia nhập vào sự
thực hành tâm linh. Tại sao
chúng ta không bành trướng
đạo pháp ra cho tất cả
mọi người trên
thế giới và
thành lập một
xã hội tốt hơn qua kiểu
xã hội tâm linh?
Lạt ma: Trước nhất, tôi nghĩ rằng điều anh nói
vô cùng nguy hiểm. Chỉ có một số người hiểu anh nói gì. Nói chung, anh không thể nói rằng
bồ tát có
trách nhiệm về tất cả những hành động gây ra
đau khổ của
chúng sinh.
Phật giáo ngăn cấm
chúng ta không được giết hại
chúng sinh, ngay cả giết để
phục vụ cho
đạo pháp. Đối với
Phật giáo không có gì được gọi là thánh chiến. Anh phải
hiểu rõ điều này. Thứ đến, không thể bắt buộc
mọi người trên qủa đất phải
bình đẳng. Cho tới khi nào anh thấu hiểu được tâm của
chúng sinh qua cái
vũ trụ này và đã
từ bỏ mọi
ích kỷ và
bám víu, thì anh sẽ không bao giờ còn muốn tất cả
chúng sinh phải như nhau. Điều đó không thể được.
Hỏi: Tôi không muốn nói tất cả
mọi người giống như nhau, vì họ có những
căn bản tinh thần khác nhau, nhưng
chúng ta có thể
thành lập một
vũ trụ con người đặt trên
căn bản kinh tế
xã hội đồng đều.
Lạt ma: Tôi nghĩ rằng anh không nên
lo lắng về
vấn đề đó. Anh nên
lo lắng cho cái
xã hội của tâm anh. Điều đó có gía trị hơn,
thực tế hơn là làm một
dự tính cho chuyện gì sẽ xẩy ra
ở chung quanh anh.
Hỏi: Nhưng sự
thực hành như vậy sẽ không cân bằng giữa hai sự việc
tự giác ngộ và
phục vụ con người.
Lạt ma: Đúng, anh có thể
phục vụ xã hội, nhưng anh không thể bắt
chúng sinh phải
đồng hóa như nhau, làm giống như nhau.
Đức Phật muốn tất cả
chúng sinh cùng
giác ngộ ngay lập tức, nhưng nghiệp của
chúng ta qúa nặng nên
chúng ta vẫn chưa
giải thoát được. Anh không thể vung đũa thần: “ tôi muốn tất cả
mọi người phải
hạnh phúc như nhau,” rồi ngồi chờ nó xẩy ra như vậy. Hãy khôn ngoan! Chỉ có những
tâm hồn khôn ngoan mới có thể
phục vụ bình đẳng và
an lành. Anh không thể
thực hiện nó chỉ vì tình cảm, và anh phải hiểu rằng
tư tưởng của cộng sản về
vấn đề bình đẳng rất khác với những gì Phật nói. Anh không thể
lẫn lộn hai
tư tưởng này. Đừng qúa
lý tưởng, hãy
thực tế.
Hỏi: Để
kết luận, ngài cho rằng không thể
thực hiện đươc một
xã hội thuần túy tâm linh trên trái đất này?
Lạt ma: Mặc dù được, anh cũng không thể
chấm dứt được những
rắc rối của
con người. Mặc dù anh có thể
thành lập được một
xã hội như vậy trên trái đất này nhưng những
bám víu vẫn còn, những
tư tưởng chiếm hữu vẫn còn, sự nóng giận vẫn còn thì
đau khổ vẫn còn. Những
rắc rối nằm ở bên trong của mỗi cá nhân!
Con người không giống nhau,
mọi người đều khác nhau. Mỗi người trong
chúng ta cần những
phương pháp khác nhau vì
tâm tính cá nhân tạo ra những
thái độ tinh thần và cá
tính không giống nhau; nên mỗi người cần một
phương tiện khác nhau để đạt
giác ngộ. Đó là
lý do tại sao
Phật giáo chấp nhận sự có mặt của những
tôn giáo khác, những
triết học khác.
Chúng tôi nhìn nhận rằng những
phương tiện khác nhau này cần cho sự phát triển của
con người. Anh không thể quyết đoán rằng
ý kiến của anh phải đúng cho
mọi người. Đó là
độc tài !
Hỏi: Ngài nghĩ sao về
vấn đề dùng
ma túy để phát triển tâm thức? Một người có thể
kinh nghiệm được cõi chết dưới
ảnh hưởng của
ma túy hay không?
Lạt ma: Có chứ, có thể xẩy ra khi dùng qúa lượng để đủ
đi vào cõi chết mà kinh nghiệm! Tôi chỉ nói đùa vậy thôi, điều đó không thể có được. Không thể
kinh nghiệm được cõi chết qua
ma túy.
Hỏi: Ngài có thể nhìn được quang sắc (aura) của một người không?
Lạt ma: Không, nhưng tất cả
mọi người đều có quang sắc. Quang sắc là những
rung động. Mỗi người trong
chúng ta đều có những
rung động của
tinh thần và của thể xác. Khi anh tức giận, anh sẽ thấy cơ thể anh thay đổi. Tất cả
mọi người đều như vậy. Cả khoa học và
Phật giáo đều nhìn nhận như vậy, tất cả
vật chất và
tinh thần đều có những tần số
rung động riêng. Như vậy
trạng thái tinh thần của một người
ảnh hưởng trên thân xác của họ và những sự thay đổi này
phản ảnh trong quang sắc của họ. Đó là sự
giải thích đơn giản về quang sắc. Để hiểu
sâu xa hơn,
chúng ta phải hiểu được tâm của
chúng ta. Trước nhất hãy học để đọc được tâm
của riêng mình, sau đó
chúng ta mới có thể đọc được tâm của người khác.
Hỏi: Làm thế nào thiền để giải tỏa những vướng víu của cảm xúc?
Lạt ma: Có rất nhiều
phương pháp. Một là qua sự
hiểu biết về
bản tính của những
cảm xúc. Theo đó,
cảm xúc sẽ bị
tiêu hóa trong
trí tuệ.
Tiêu hóa những
cảm xúc của
chúng ta bằng
trí tuệ là một gía trị
tuyệt vời nhất.
Kính chào qúy vị.
Lama Yeshe
thuyết pháp tại Auckland, New Zealand, ngày 7 tháng 6 năm 1975