Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 1 đến 15

Wednesday, September 17, 201417:07(View: 8530)
Quyển 1 đến 15

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

Quyển thứ nhất

 --- ooOoo ---

 

Bốn mươi quyển Tạp sự này có tám môn. Một tụng đại môn bao trùm cương lĩnh cả bộ. Có tám tụng tổng nhiếp cho tám môn, trong mỗi môn lại có biệt môn. Mỗi biệt môn có mười tụng. Tổng cộng là tám mươi chín tụng. Trong mỗi nhiếp tụng có ngàn hàng. Người nào thọ trì thông thuộc, có thể nắm được toàn bộ ý nghĩa cả bộ.

 

Tụng đại môn tổng nhiếp:

 

    Chuyên thạch cập ngưu mao,

    Tam y tinh thượng tòa,

    Xá lợi mãnh thú cân,

    Cấp đa ny trừ tháp.

 

Tụng tổng nhiếp biệt môn thứ nhất:

 

    Chuyên khai tiễn trảo bát,

    Cảnh sanh chi đạp y,

    Thủy la sinh đậu châu,

    Tẩy túc quần ưng kết.

 

Tụng nhiếp một trong biệt môn thứ nhất:

 

    Chuyên khai thạch tự thổ,

    Ngưu hoàng hương ích,

    Nhãn Đã trụ đẳng chư tuyến,

    Anh lạc ấn ưng tri.

 

* Một thời, đức Thế Tôngiảng đường Cao Các, bên bờ hồ Di Hầu, thành Quảng Nghiêm.

 

Vào sáng sớm, Lục chúng Bí-sô mặc y mang bát sắp vào thành Quảng Nghiêm để khất thực. Cách thành không xa, có vườn của Lật Cô Tỳ Tử, phong cảnh thanh nhàn, hoa trái xum xuê, suối mát chảy quanh, chim đẹp đua hót như trong vườn Hoan Hỷ của trời Đế Thích. Trong vườn lại có các dụng cụ giải lao, những nhạc khí với âm thanh tuyệt hảo, cùng các vật để tắm rửa, hương thơm để thoa.

 

Lục chúng bàn nhau:

 

- Này Nan Đà, Ô Ba Nan Đà, từng nghe vườn này rất khả ái. Thế Tôn cũng thường tán thán như cõi trời Ba mươi ba. Chúng ta thử vào xem có những gì đặc biệt không.

 

Sau khi bàn bạc, Lục chúng vào vườn, thấy các loại chày gỗ dài ngắn, các vồ to nhỏ và các cục đá lớn bé. Những vật này phục vụ cho việc vui đùa, làm cho thân thể được vận động, máu huyết lưu thông, trừ bệnh, làm tiêu hoá ăn uống. Họ lại thấy các loại nhạc cụ đặc biệt như sáo, đàn, trống ...

 

Lại có các loại bột tắm thơm, các loại gạch nổi nhẹ, tháo đậu, cỏ thơm, dư cam (hạt dư cam có ở Quảng Châu dùng để gội tóc, phương Tây gọi là trái Am-ma-lạc-ca) dùng kỳ cọ thân thể và xức tóc, có thể làm cho tóc trắng trở thành đen.

 

Lục chúng thấy vậy, bàn với nhau:

 

- Các nhạc cụ này diễn tả được đủ các tình cảm, chúng ta cố gắng xử dụng cho hết; vậy nên ca múa hay tắm rửa trước?

 

Một người bảo:

 

- Đã lâu chúng ta chưa tắm, vậy nên tắm trước.

 

Sau khi bàn luận, họ cùng nhau xuống ao, cầm gạch nổi để kỳ cọ thân thể. Lục chúng có nhiều kỹ xảo, biết hết các kỹ thuật, khi tắm rửa dùng gạch nổi kỳ cọ thân thể làm vang ra âm thanh của năm loại nhạc, như người có kỹ thuật thổi kèn gẩy đàn vỗ tay. Những người đi qua nơi này, ngờ nơi đây có tấu nhạc nên cùng lắng tai nghe. Họ nói với nhau:

 

- Vườn Lật Cô Tỳ có biểu diễn ca vũ, chúng ta hãy dừng lại xem.

 

Mọi người hưởng ứng đồng ýchen nhau vào vườn.

 

Khi mọi người vào vườn thì Lục chúng lại đi ra. Họ hỏi Lục chúng:

 

- Thánh giả, người tấu âm nhạc ở đâu?

 

Đáp:

 

- Các người là kẻ ngu, có tai nghe tiếng mà tâm không biết hay dở. Làm gì có nhạc sĩ nào tấu được những âm thanh kỳ diệu như vậy.

 

Hỏi:

 

- Thánh giả, vậy âm thanh vừa rồi là của ai tấu?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, âm thanh các người nghe là khi chúng ta tắm rửa, dùng gạch kỳ cọ thân thể phát ra âm điệu ấy.

 

Những người kia nói:

 

- Sa-môn quý ngài còn có năm dục não loạn thân tâm hay sao?

 

Đáp:

 

- Này kẻ ngu si, chúng ta không não loạn người khác, tự hưởng thụ dục lạc nhưng không bỏ phế việc tu tập thì có lỗi gì? Ngươi có phải là thầy ta đâu mà nói ra những lời chê bai này, hãy im lặng đi chớ rước lấy tai họa.

 

Những người kia nghe nói, sợ hãi, im lặng bỏ đi. Họ vào thành Quảng Nghiêm, đến ngã tư đường bàn luận chê bai. Các Bí-sô nghe vậy, bạch Phật:

 

Phật suy nghĩ: "Bí-sô tắm rửa dùng gạch kỳ cọ thân thể, có những lỗi như vậy". Vì vậy, Ngài dạy:

 

- Khi tắm rửa, các Bí-sô không nên dùng gạch kỳ cọ thân thể , ai dùng gạch kỳ cọ thân thể, bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho phép dùng gạch kỳ cọ thân thể, chân các Bí-sô có cấu bẩn nên bị nứt. Khi họ đi khất thực, mọi người trông thấy, hỏi:

 

- Thánh giả! Chân ngài bị nứt có nhiều cấu bẩn, tại sao không kỳ cọ sạch sẽ mà để bẩn thỉu như vậy?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho phép.

 

Họ nói:

 

- Thân quý ngài nhơ bẩn, sao gọi là thanh tịnh?

 

Bí-sô im lặng, sau khi nhận thực phẩm, trở về trú xứ, đem sự việc bạch Phật. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Trước đây chế định, nay tùy khai. Ta cho phép các Bí-sô dùng gạch kỳ cọ chân, nhưng không kỳ cọ nơi khác trên thân. Ai kỳ cọ chỗ khác bị tội vượt pháp.

 

Khi ấy, Lục chúng thấy Phật không cho dùng gạch, nên dùng đá nổi.

 

Phật dạy:

 

- Cũng bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Vào sáng sớm, các Bí-sô mặc y mang bát vào thành khất thực. Họ thấy các vị Bàlamôn dùng tay vạch ba vạch bằng đất trắng hay tro trắng lên trán, nên cầu xin gì cũng được tốt đẹp. Thấy vậy, Lục chúng nói với nhau:

 

- Đây là phương pháp tốt, chúng ta nên làm theo.

 

Hôm khác, họ vạch ba vạch trên trán rồi vào thành khất thực. Những người không tin, cười nói:

 

- Ta xin bái lạy.

 

Lục chúng bảo:

 

- Này kẻ ngu không hiểu biết lễ nghi, ai hợp với quỳ lạy, ai đáng được kính lễ?

 

Họ đáp:

 

- Chúng tôi chỉ biết thấy bà la môn già thì nói quỳ lạy, thấy Bí-sô nên thưa lễ kính.

 

Lục chúng nói:

 

- Như vậy, tại sao các ngươi thấy ta là Bí-sô lại không lễ kính mà nói quỳ lạy?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Tôi thấy mặt quý ngài có ba vạch, vậy là Bàlamôn nào phải Bí-sô. Chúng tôi không biết là Bí-sô, xin thứ lỗi.

 

Lục chúng đành im lặng. Các Bí-sô nghe sự việc, bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Nếu Bí-sô vẽ ba vạch trên mặt sẽ có những lỗi lầm như vậy". Do đó, Ngài quy định:

 

- Bí-sô nào vẽ ba vạch như vậy, bị tội vượt pháp.

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô không được dùng đất trắng vẽ ba vạch trên mặt như vậy.

 

Có Bí-sô bệnh, y sĩ cho đơn thuốc dùng đất trắng bôi lên thân. Bí-sô không dám, đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trước là chế định, nay là tùy khai. Nếu y sĩ bảo bôi đất trên thân, được làm theo, không phạm.

 

Phật ở thành Thất La Phiệt. Vào sáng sớm, Lục chúng mặc y mang bát vào thành khất thực, thấy các vị Bàlamôn bôi ngưu hoàng trên trán nên mong cầu những thức ăn ngon; đều đạt được. Thấy vậy, Lục chúng nói với nhau:

 

- Đây là phương pháp tốt, chúng ta nên làm theo.

 

Hôm khác, họ bôi ngưu hoàng trên trán, đi khất thực. Những người không tin, thấy dấu trên trán, khinh thường cười nói:

 

- Ta xin quỳ bái ... như đoạn trên ... Tôi thấy quý vị trang sức trên mặt bằng ngưu hoàng, đó là Bàlamôn chứ nào phải Bí-sô. Chúng tôi không biết, xin thứ lỗi.

 

Lục chúng đành im lặng. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật nghĩ: "Nếu Bí-sô trang sức trên trán bằng ngưu hoàng, nên sẽ gây ra lỗi như vậy". Do đó, Ngài quy định:

 

- Bí-sô không được bôi ngưu hoàng trên trán. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật chế không được bôi ngưu hoàng trên trán, có Bí-sô bị mụt dữ trên trán, đến hỏi y sĩ:

 

- Hiền thủ, hãy trị bệnh cho tôi.

 

Y sĩ nói:

 

- Thánh giả hãy dùng ngưu hoàng bôi quanh mụt ghẻ thì sẽ hết bệnh.

 

Bí-sô nói:

 

- Thế Tôn chế giới không được dùng ngưu hoàng bôi trên trán.

 

Y sĩ nói:

 

- Thánh giả! Thầy ngài đại từ bi, nếu có bệnh tất cho phép.

 

Họ đem việc này bạch Phật. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Trước đây chế định, nay tùy khai, trừ trường hợp bệnh và y sĩ bảo làm được phép dùng ngưu hoàng. Không bệnh, cố ý dùng, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô thoa chất thơm, đi vào trong nhóm thanh thiếu niên, bảo với họ:

 

- Các ngươi hãy ngửi mùi thơm của ta xem thế nào?

 

Những người kia đáp:

 

- Lẽ nào Thượng tọa thoa chất thơm?

 

Đáp:

 

- Đúng vậy.

 

Họ nói:

 

- Thoa mùi thơm là trang sức thế tục, nào hợp với Thượng tọa.

 

Đáp:

 

- Hợp hay không, ta cũng đã làm.

 

Họ cùng nhau bất mãn khinh khi. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật nghĩ: "Bí-sô thoa mùi thơm, có lỗi lầm như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được thoa mùi thơm. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật đã chế không được thoa chất thơm, có Bí-sô bị bệnh, đến gặp y sĩ, hỏi:

 

- Xin khám bệnh cho tôi và điều trị.

 

- Thánh giả, hãy thoa chất thơm thì hết bệnh ngay.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, lẽ nào bảo tôi ưa thích dục lạc hay sao?

 

- Thánh giả! Đấy là thuốc trị bệnh, dùng loại khác không hết được.

 

Bí-sô bạch Phật .

 

Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép nếu y sĩ cho toa như vậy, thoa chất thơm không phạm.

 

Khi Bí-sô thoa chất thơm vào ngồi trong chúng, thuyết pháp cho các Bàlamôn cư sĩ, hoặc vào nhà thế tục, mọi người biết vậy nên chê bai. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta sẽ quy định những pháp cho Bí-sô thoa mùi thơm. Những Bí-sô nào thoa mùi thơm không được vào ngồi giữa mọi người, cũng không được thuyết pháp cho Bà-la-môn cư sĩ, không được đi đến nhà thế tục. Sau khi hết bệnh, Bí-sô phải tắm sạch hết mùi, mới được tùy ý vào giữa mọi người và được thuyết pháp cho mọi người. Ai không làm theo pháp này, bị tội vượt pháp.

 

Khi ấy, có tín tâm Bà-la-môn cư sĩ đem hương thoa đến cúng dường các Bí-sô.

 

Bí-sô không nhận, các cư sĩ nói:

 

- Thánh giả! Khi Phật chưa ra đời, chúng con nhờ vào ngoại đạo để làm phước. Nay, Phật ra đời, chúng con lấy các Ngài làm phước điền lớn. Vì sao không nhận vật cúng dường của các con mang đến? Lẽ nào làm cho chúng con không có hành trang tốt đẹp để đi qua đời sau? Xin từ bi nhận của cúng dường nhỏ mọn của chúng con.

 

Bí-sô đáp:

 

- Hãy chờ tôi thưa hỏi Phật .

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.Phật dạy:

 

- Nên nhận.

 

Sau khi nhận, Bí-sô vứt ngay xuống đất trước người cho.

 

Thí chủ nói:

 

- Thánh giả! Chúng con mua vật quý giá đem đến, vì sao vứt bỏ đi.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.Phật dạy:

 

- Nhận xong, không nên xem thường vứt bỏ trước thí chủ, nên đem thoa trên đất trước tháp Phật đề cúng dường.

 

Như lời Phật dạy:

 

- Nên thoa hương trên đất trước tháp Phật để cúng dường.

 

Các Bí-sô sau khi nhận hương ấy, dùng tay bôi trước tháp tóc móng tay của Phật để cúng dường. Thấy vậy, thí chủ nói:

 

- Thánh giả! Con không biết có tháp để cúng dường hay sao? Ý chúng con là cúng cho các ngài. Trước tháp Phật, chúng con đã cúng dường rồi.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nhận được chất thơm nên thoa trong phòng.

 

Bí-sô được hương thơm, bôi lên cánh cửa phòng. Những người khác cho là điện Phật nên lễ bái.

 

Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy, nên bôi lên cửa ngoài ... họ lại bị lỗi như trước.

 

Phật dạy:

 

- Nên thoa trên đầu, bờ của tường vách, mũi luôn được ngửi. Khi ngửi vật thơm, làm cho mắt sáng, chớ nghi ngại.

 

* Một thời, Thế Tôn ở vườn Thi-Lộc, rừng Khủng Úy, núi Thất Thu Ma La. Vương tử Bồ Đề xây cất lầu Điểu Minh vừa xong nên tổ chức khánh thành, thỉnh Phật và Tăng đến để cúng dường. Thế Tôn đến nơi, cùng chúng Tăng an tọa dưới lầu thọ trai. Trong khi thọ trai, Ô Ba Nan Đà lấy tay đánh vào trụ lầu, làm cho lầu bị chấn động. Người cúng dường báo:

 

- Thánh giả! Vương tử Bồ Đề mới tạo lầu này, dùng cả trăm màu sắc để tô vẽ điêu khắc, ý gì mà ngài muốn phá hoại?

 

Ô Ba Nan Đà đáp:

 

- Kẻ bần hàn Bồ Đề có tâm tham ái nơi này, sau khi chết sẽ đọa vào nơi nào? Ngươi cũng có tâm tham ái nơi này, sau khi chết sẽ đọa vào loài quỷ bứu to.

 

Người kia nghe xong, rất bất mãn chê trách. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật .Phật suy nghĩ: "Bí-sô đánh vào cột, có những lỗi như vậy".

 

Ngài chế:

 

- Bí-sô không được lấy tay đánh vào cột, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật chế không được dùng tay đánh vào cột, Lục chúng Bí-sô dùng đấm tay, vai, lưng, gối và gạch đá đánh làm lay động ... lại gây bất mãn chê trách bị lỗi như trước.

 

Phật dạy:

 

- Không được đánh bằng bất kỳ vật gì?

 

Khi ấy, Lục chúng đánh vào tường, vào đất. Phật dạy:

 

- Không được đánh vật khác, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước... Vào sáng sớm, Lục chúng Bí-sô mặc y mang bát vào thành khất thực, thấy các Bàlamôn mang dây phạm tuyến nên khất thực được nhiều thức ăn ngon. Họ bàn nhau:

 

- Nan Đà, Ô Ba Nan Đà! Ta có phương pháp tốt là mang dây phạm tuyến.

 

Vào ngày khác, họ mang dây này vào thành khất thực. Có những người không tin thấy dây phạm tuyến, nên khinh khi nói:

 

- Ta xin quỳ bái ... hỏi đáp như trước ... cho đến các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.

 

Phật suy nghĩ: "Bí-sô mang dây phạm tuyến có những lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được mang dây, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước... Lục chúng khất thực thấy các Bàlamôn dùng hoa thơm đẹp trang sức thân thể, tay đeo dây ngũ sắc, được nhiều thức ăn no đủ, sau khi ăn no thân hình sung mãn đi ra khỏi nhà.

 

Lục chúng bảo nhau:

 

- Nan Đà, Ô Ba Nan Đà! Đây là phương pháp tốt, chúng ta nên làm theo.

 

Vào ngày khác, họ cột dây ngũ sắc trên tay, đi vào thành khất thực. Các Bà-la-môn thấy vậy nên khinh thường, nói:- Ta xin quỳ bái. Lục chúng nổi lên bất mãn.. nói rộng như trước ... cho đến các Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Bí-sô mang dây ngũ sắc có những lỗi lầm như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được mang dây ngũ sắc nơi tay, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho mang dây ngũ sắc nơi tay, có Bí-sô bị bệnh, đến gặp y sĩ hỏi:

 

- Hiền thủ! Tôi bị bệnh xin ngài điều trị.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Ngài dùng dây ngũ sắc, chú nguyện mang nơi tay thì hết bệnh.

 

- Thế Tôn không cho phép làm.

 

Y sĩ nói:

 

- Đại sư của ngài lấy từ bi làm gốc, bị bệnh tất cho phép không ngờ gì cả.

 

Các Bí-sô bạch Phật .Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép các Bí-sô vì bệnh, y sĩ bảo làm, mang dây không phạm.

 

Sau khi Phật cho cột dây nơi tay, Bí-sô lại mang dây trước khuỷu tay phải, lại bị chê có lỗi. Phật dạy:

 

- Không được.

 

Họ lại mang sau khuỷu. Phật dạy:

 

- Không được.

 

Họ lại mang trước khuỷu tay trái.Phật dạy:

 

- Không được.

 

Họ lại mang sau khuỷu tay trái.

 

Bí-sô nhờ mang dây được hết bệnh, sau đó vứt bỏ dây ấy bừa bãi. Phi nhân thấy vậy nên hiềm khích, nói:

 

- Thánh giả! Dây này do có kết tên họ của tôi, nhờ chú ấy nên làm cho hết bệnh, nay ngài lại khinh thường.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được vứt bỏ bừa bãi. Ai chưa hết bệnh thì cột nơi góc y, khi bình phục rồi nên an trí nơi hốc tường cột.

 

* Duyên xứ như trước... Lục chúng khất thực, thấy những người thế tục trang sức bằng các loại chuỗi anh lạc, nên dùng vòng anh lạc đeo tay chân trang sức nơi thân, rồi nói với nhau rằng trang sức đẹp không. Những người thế tục nói đùa:

 

- Thánh giả, trên đầu tóc cạo sạch , dưới nách lông dài, có chỗ nào trang sức cho đẹp đâu, chẳng phải là các vị bị dục nhiễm trói buộc hay sao?

 

Lục chúng đành im lặng. Bí-sô bạch Phật.Phật suy nghĩ: "Bí-sô mang anh lạc có những lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được dùng chuỗi anh lạc trang sức nơi tay chân, ai cố ý mang bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước... Có giặc đến, trộm kho tàng của Tăng và các vật riêng tư. Vì không ghi chép chính xác nên Bí-sô không biết mất vật vào lúc nào. Phật dạy:

 

- Bí-sô nên làm con dấu.

 

Lục chúng Bí-sô dùng vàng bạc lưu ly thủy tinh ngọc thạch mà làm con dấu, trang sức bằng vật quý trên nhẫn (con dấu) đeo tay . Khi gặp mgười thế tục, họ xòe tay ra khoe nhẫn quý và chú nguyện: "Mong quý vị không bệnh sống lâu".

 

Người thế tục hỏi:

 

- Trên nhẫn có gì vậy?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, đây là nhẫn con dấu, Phật cho phép dùng.

 

Người đời chê bai cười nói:

 

- Sa-môn Thích tử còn làm việc kiêu mạn, dùng các vật báu trang sức để làm nhẫn con dấu, chẳng phải thật Sa-môn, cũng chẳng phải Bà-la-môn.

 

Các Bí-sô nghe vậy, bạch Phật . Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên mang nhẫn và vật trang sức quý báu, nên dùng năm loại là thâu thạch, đồng đỏ, đồng trắng, ngà và sừng để làm con dấu.

 

Trên con dấu của Lục chúng lại khắc hình tượng nam nữ làm việc phi pháp. Những người thế tục thấy vậy chê:

 

- Quý vị là Sa-môn còn có tâm ô nhiễm hay sao?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Con dấu có hai loại, một cho đại chúng, một cho cá nhân. Nếu con dấu của đại chúng, nên khắc tượng chuyển pháp luân, hai bên bố trí hình nai quỳ chầu vào , bên dưới ghi căn nguyên làm chùa, tên họ thí chủ. Nếu là con dấu cá nhân, nên khắc tượng bộ xương, hoặc hình đầu lâu, để khi nhìn thấy sinh tâm nhàm chán.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ hai trong biệt môn thứ nhất

 

    Tiễn qua phát khai quang,

    Xuân thời thực tiểu quả,

    Khát thính ngũ chủng dược,

    Quảng thuyết Hỏa Sinh duyên.

 

* Duyên xứ như trước... Trưởng giả Cấp Cô Độc xây dựng trú xứ Thệ Đa Lâm cúng dường cho Phật và Tăng.

 

Một hôm, trưởng giả bảo người thợ cạo:

 

- Người hãy đến rừng Thệ Đa, cạo râu tóc cho Thánh chúng.

 

Người kia vâng lệnh, đi đến chùa. Khi ấy, Lục chúng Bí-sô tụ tập trước cửa chùa nhìn ngắm không ngừng. Ô Ba Nan Đà đang kinh hành qua lại trước chùa, thấy người thợ cạo đến, bảo:

 

- Xin chào, hiền thủ đến đây! Cũng như trăng đầu tháng thật khó gặp được.

 

Người thợ nói:

 

- Trưởng giả sai tôi đến cạo tóc cho chúng Tăng.

 

Hỏi:

 

- Người biết cắt móng tay không?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Đấy là nghề của tôi.

 

- Người hãy đến đây, thử trổ nghề giỏi xem!

 

Người thợ ra trước, Tôn giả xoè tay ra.

 

Người thợ nói:

 

- Thánh giả muốn cắt như thế nào?

 

- Hiền thủ! Hãy cắt như hình hạt lúa.

 

Thợ cạo làm đúng theo yêu cầu. Sau đó, Ô Ba Nan Đà lại bảo cắt hình đầu người, rồi hình dao cạo, hình lưỡi búa, hình bán nguyệt ... người kia vẫn làm đúng theo. Cuối cùng, Tôn giả bảo:

 

- Người là kẻ ngu si, nói dối có nghề giỏi, mà chẳng biết gì cả, hãy cắt bằng hết, mau bỏ hình cũ đi.

 

Mãi đến chiều , Tôn giả mới cho người thợ về.

 

Chiều tối, người thợ mới về chỗ Trưởng giả. Trưởng giả hỏi:

 

- Người đã cạo râu tóc cho bao nhiêu vị?

 

Đáp:

 

- Tôi nào có rảnh để cạo tóc cho đại chúng, quan trưởng Bí-sô Ô Ba Nan Đà sai tôi cắt móng tay với các loại hình dạng ... nói đủ như trước ... cho đến chiều mới cho về, còn muốn làm gì nữa!

 

Trưởng giả nghe nói, có ý chê trách:

 

- Tuy đã xuất gia trong pháp luật thiện thuyết mà tâm không tịch tịnh.

 

Bí-sô nghe nói, bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Bí-sô cắt móng tay có những lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không nên cắt móng tay, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho cắt móng tay, các Bí-sô để móng tay dài.

 

Người thế tục thấy vậy hỏi:

 

- Tại sao móng tay dài vậy?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho cắt.

 

- Để móng tay chân dài vậy là sạch hay sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trước là quy định, nay tùy khai. Để móng tay có hai cách: một như hình dao cạo, hai như lưỡi búa.

 

* Duyên xứ như trước... Trưởng giả Cấp cô độc sai thợ cạo vào chùa cạo râu tóc cho chúng Tăng ... như trước ... cho đến hỏi:

 

- Ngươi hiểu cách đánh móng tay chân không?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, đấy là nghề của tôi.

 

- Ngươi hãy đến đây làm thử xem .

 

Bí-sô sai họ làm màu vàng trước, rồi đến màu đỏ, màu trắng, màu vàng kim ... Họ đều làm theo lời sai bảo. Bí-sô lại bảo họ:

 

- Ngươi là kẻ ngu si, dối nói có nghề giỏi nhưng không biết gì cả, hãy chùi cho bình thường bỏ hết cái cũ đi. Khi người kia về gặp Trưởng giả ... cho đến ... còn muốn làm gì nữa. Trưởng giả nghe nói nên có ý hiềm trách nói như trước. Bí-sô nghe vậy, bạch Phật.

 

Phật nghĩ: "Bí-sô đánh móng tay có những lỗi như vậy ". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được chùi móng tay, ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho Bí-sô chùi móng tay, Bí-sô nhuộm y hay đốt bát, móng tay bị cấu bẩn màu sắc nhớp nhúa. Khi họ mang bát khất thực, người thế tục hỏi:

 

- Thánh giả, vì sao móng tay ngài bẩn vậy?

 

Bí-sô trình bày sự việc.

 

- Tại sao thánh giả không chùi sạch?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho phép.

 

- Vậy mang đất trên móng tay là thanh tịnh hay sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi chùi cấu bẩn, có thể lau móng tay, không nên vì đẹp mà chùi cho sáng bóng.

 

* Phật ở thành Vương Xá. Vua Ảnh Thắng suy nghĩ: "Khi thời tiết thay đổi đến Xuân Thu, có lúa mới và trái đầu mùa nên đem dâng lên Phật và các Thánh chúng, sau đó mới dùng riêng". Khi ấy, có đại thần dâng trái Am-một-la mới chín lên vua (trái này lớn như trái đào, sống chín khó biết, có bốn loại khác nhau không đồng. Am-ma-lạc-ca lớn như trái táo chua, chỉ dùng làm thuốc). Nhà vua bảo:

 

- Hãy mang quả này dâng lên Phật và Tăng.

 

Vị đại thần cười mỉm. Vua nói:

 

- Vì sao khanh cười?

 

Đáp:

 

- Đại vương cho rằng thần chưa dâng lên Phật và Tăng, nhưng thần đã dâng lên trước rồi.

 

Vua nói:

 

- Sợ khanh không biết việc này, vì vậy, ta dâng lên Thánh chúng vườn cây ăn trái có ngàn gốc.

 

Đại thần tâu:

 

- Đây thật là việc tốt, thần rất tùy hỷ.

 

Nhà vua liền đem vườn cây ăn trái có ngàn gốc dâng lên tứ phương Thánh tăng, và tổ chức đại hội khánh tạ phước điền. Trước đây, rừng cây này kết trái rất nhiều, giả sử nhân dân nước Ma yết đà tụ họp lại hết cũng đủ trái để ăn. Sau khi nhà vua dâng khu rừng này cho Tăng già, các Bí-sô thấy trái còn nhỏ nhưng đã thơm ngon nên cùng hái ăn cho đến hết sạch. Có vua nước khác cần loại trái này, sai sứ giả đến gặp vua Ảnh Thắng xin trái Am-một-la.

 

Nhà vua nói:

 

- Rừng trái cây này, ta đã cúng Tăng chúng rồi. Người hãy đến đó xin với chúng Tăng. Sứ giả đến vườn Trúc lâm.

 

Khi ấy, Lục chúng đang tụ tập trước chùa trông ngóng chẳng sót việc gì. Ô Ba Nan Đà đang kinh hành trước chùa. Sứ giả đến nơi lạy sát chân Tôn giả, bạch:

 

- Thánh giả! Con là sứ giả của quốc vương ... ngài sai con đến đây cầu xin trái Am-một-la. Nếu quý ngài có, xin chia cho. Ô Ba Nan Đà bảo sứ giả:

 

- Người hãy đến rừng trái, tùy ý muốn, lấy nhiều ít đem đi.

 

Sứ giả đến vườn, quan sát khắp nơi, chỉ thấy cành không chẳng có trái nào cả, nên trở về thưa lại là rừng trống không có trái. Ô Ba Nan Đà cùng sứ giả đi vào vườn, sau khi quan sát, bảo:

 

- Người hãy leo lên cây cao này. Sứ giả liền leo lên nhưng vẫn không thấy trái. Ô Ba Nan Đà lại bảo:

 

- Hãy leo lên cành phía Đông.

 

Cho đến bảo leo lên cánh phía Nam, Tây, Bắc. Người kia leo khắp nhưng chẳng được gì nên tụt xuống khỏi cây, hỏi:

 

- Thánh giả, hay là năm nay rừng cây này chẳng có trái?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, năm nay cũng kết trái như năm trước.

 

- Như vậy, hay là năm nay bị gió mưa nên trái rụng phải không?

 

Đáp:

 

- Không phải.

 

- Vì sao không có trái nào?

 

Đáp:

 

- Chúng tôi đã ăn hết khi trái còn nhỏ.

 

Sứ giả trở lại tâu sự việc lên vua. Vua phán:

 

- Lành thay! Tâm nguyện của ta là muốn cho Thánh chúng được ăn.

 

Sứ giả buồn bã trở về nước mình. Khi ấy, nước Ma-yết-đà có đại hội, mọi người đều tụ tập. Họ hỏi Bí-sô:

 

- Thánh giả! Vì sao năm nay cả rừng cây không kết trái?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Chẳng phải không kết trái chỉ vì chúng tôi đã ăn hết.

 

- Thánh giả! Tính ra, khi rừng trái cây này chín, nhân dân cả nước Ma-yết-đà ăn cũng đủ, chỉ vì các vị ăn hết khi chúng còn nhỏ, nên không còn trái nào cả, đây thật không tốt.

 

Bí-sô đáp:

 

- Rừng trái này, nhà vua không cho những người trong nước, chỉ cúng Tăng chúng.Vậy chúng ta cùng ăn, có lỗi gì?

 

Khi mọi người nghe nói vậy, cùng nhau không vừa lòng chê trách:

 

- Sa-môn Thích tử còn không biết tri túc, huống chi bọn thế tục chúng ta.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Do ăn trái ấy còn nhỏ nên có lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Các Bí-sô không được ăn trái ấy còn nhỏ, ai ăn bị tội vượt pháp.

 

Như Phật chế, không được ăn trái ấy, có Trưởng giả với tín tâm đem trái Am-một-la nhỏ nhưng thơm ngon dâng lên Bí-sô. Bí-sô nói:

 

- Phật không cho ăn. Các Trưởng giả nói:

 

- Khi Phật chưa ra đời, những người chúng con đều lấy ngoại đạo làm phước điền ... như trên ... cho đến từ bi nhận vật cúng dường nhỏ mọn của con.

 

Các Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi chúng có hạt ăn không phạm.

 

Lại có Trưởng giả với tín tâm đem trái Am-một-la-chín dâng lên Bí-sô ... như trước ... cho đến nhận vật cúng nhỏ mọn của con. Các Bí-sô không dám nhận, đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Sau khi có hạt cho đến khi chín đều được ăn, chớ nghi ngại.

 

* Duyên khởi ở thành Thất la phiệt. Có Bí-sô bị bệnh, đến y sĩ nói:

 

- Tôi có bệnh như vậy, xin điều trị. Y sĩ nói:

 

- Nên dùng bơ cho thân thể nhuận tốt, tôi sẽ cho thuốc xổ.

 

Vị ấy dùng bơ, lại sinh bệnh tiêu khát. Y sĩ đến hỏi:

 

- Thánh giả khoẻ không?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, tôi lại sinh bệnh khát.

 

Y sĩ nói:

 

- Hãy cầm lấy dư cam tử.

 

Bí-sô giữ mãi dư cam tử nơi tay, y sĩ thấy hỏi:

 

- Ngài đã hết khát chưa?

 

Đáp:

 

- Chưa hết.

 

Y sĩ nói:

 

- Thánh giả, hay là ngài không cầm đến dư cam tử?

 

Đáp:

 

- Đang cầm trong tay.

 

Y sĩ:

 

- Nên cho vào miệng.

 

Bí-sô ngậm vào miệng. Ngày khác, y sĩ đến hỏi:

 

- Ngài hết khát chưa?

 

Đáp:

 

- Vẫn chưa hết khát.

 

Y sĩ:

 

- Hay là ngài không ngậm dư cam tử trong miệng?

 

Đáp:

 

- Đang ngậm trong miệng.

 

- Hãy nhai đi.

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho.

 

Y sĩ nói:

 

- Thế Tôn đại từ bi chắc chắn cho phép.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên nhai.

 

Sau khi nhai, lại nhả ra ngoài, không dám nuốt xuống, nên không hết bệnh khát.Y sĩ nói:

 

- Tại sao không nuốt?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho ăn phi thời.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật . Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép, có năm loại trái, bệnh hay không bệnh, thời hay phi thời đều được ăn, không phạm.

 

Như Phật dạy có năm loại trái cây, bệnh hay không bệnh, thời hay phi thời đều được ăn, không phạm, Bí-sô không biết năm loại nào. Phật dạy:

 

    - Đó là dư cam tử (Phạn ngữ Am-ma-lạc-ca, dịch là Dư cam tử cùng với Am-một-la ở trên khác nhau, chỉ giống về tiếng gọi, mọi người nhầm lẫn nên chú ra; đây đã trực tiếp xem rõ) Ha-lê-lặc, Tỳ-ê-lặc, Tất-bát-lê, Hồ-tiêu. Năm loại thuốc này, có bệnh không bệnh, thời hay phi thời, tùy ý ăn, chớ ngại.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ NẠI DA TẠP SỰ.

 

Quyển thứ nhất hết.

 

--- o0o ---

 

 

Quyển thứ hai

 

--- ooOoo ---

 

(Phần tiếp theo của nhiếp tụng thứ hai trong biệt môn thứ nhất - nói về chuyện Trưởng giả Hỏa Sinh)

 

* Một thời, Phật ở vườn Trúc Lâm, thành Vương Xá.

 

Trong thành có một trưởng giả tên Thiện Hiền, nhiều tài sản hưởng thụ sung túc, rất tín ngưỡng ngoại đạo lõa hình, kết hôn chưa bao lâu, vợ đã có thai.Vào sáng sớm, Thế Tôn mặc y mang bát, vào thành Xá vệ, theo thứ lớp khất thực, lần lượt đến nhà Thiện Hiền. Trưởng giả thấy Thế Tôn đến nhà, liền đưa vợ ra gặp Thế Tôn, thưa thỉnh:

 

- Bạch đức Bạc-già-phạm, vợ con có thai sẽ sinh nam hay nữ?

 

Phật nói:

 

- Trưởng giả, chắc chắn sẽ là nam, làm hưng thịnh rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ta, diệt hết các hoặc, đắc quả A-la-hán.

 

Trưởng giả nghe xong, đem thức ăn tinh khiết thơm ngon đặt đầy bát, dâng lên Thế Tôn. Sau khi chú nguyện Trưởng giả khỏe mạnh, Thế Tôn ra khỏi nhà.

 

Cách đó không xa, có ngoại đạo lõa hình vừa thấy Thế Tôn, liền suy nghĩ: "Ta chỉ có nhà này thường cúng dường thức ăn, nay cũng bị Sa-môn Kiều Đáp Ma khuyến dụ. Ta thử đến gặp họ hỏi lý do, được thọ ký gì". Sau khi đến nơi, ngoại đạo hỏi Trưởng giảû:

 

- Sa-môn Kiều Đáp Ma có từng đến đây không?

 

Đáp:

 

- Có đến.

 

- Hãy kể lại cho ta nghe được không?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, vợ con có thai, nên hỏi vị ấy về việc sinh đẻ. Vị ấy báo trước là sinh con trai, làm rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong pháp luật vị ấy, đoạn trừ hết hoặc, đắc quả A-la-hán.

 

Vị ngoại đạo này tinh thông lịch số, liền quán sát tính toán âm dương thì đúng như lời Phật nói, nên suy nghĩ: "Nếu ta tùy thuận khen ngợi sự thật thì gia chủ càng tôn kính ông ta. Vậy ta nên che dấu sự thật, nói khác đi". Sau khi suy nghĩ, ngoại đạo liền chống tay vào mặt ra dáng suy nghĩ. Thấy vậy, Trưởng giả hỏi:

 

- Thánh giả, vì sao chống tay vào mặt?

 

Đáp:

 

- Lời nói của Sa-môn nữa thật nữa hư.

 

Trưởng giả hỏi:

 

- Thật hư như thế nào?

 

Đáp:

 

- Sinh con trai là thật, làm rạng rỡ gia tộc thì không đúng. Nói rạng rỡ là tên khác của lửa, đây là con vô phước, vừa sinh xong đốt cháy gia tộc. Nói có đầy đủ diệu tướng của chư Thiênnói dối. Này Trưởng giả! Có bao giờ thấy ai sinh trong loài người mà có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên không. Xuất gia tu tập trong giáo pháp vị ấy cũng có thật, vì sau khi sinh bị nghèo cùng đói lạnh, thiếu ăn thiếu mặc, tự nhiên phải gia nhập vào trong pháp của Sa-môn. Đoạn trừ hết hoặc, chứng quả A-la-hán, cũng là dối trá vì Sa-môn Kiều Đáp Ma cũng chưa diệt hết phiền não chứng quả A-la-hán, huống chi các đệ tử khác.

 

Trưởng giả Thiện Hiền nghe nói như vậy nên rất buồn khổ, thưa:

 

- Thánh giả, con phải làm thế nào đây?

 

Ngoại đạo nói:

 

- Này trưởng giả! Ta là người xuất gia, thọ trì giới cấm, không tùy tiện nói dối, hư thật thế nào sau này tự người sẽ rõ.

 

Nói xong, ngoại đạo từ giã.

 

Thiện Hiền suy nghĩ: "Hãy giết bỏ cái thai trong bụng kia đi". Thiện Hiền liền đưa cho vợ uống thuốc phá thai, nhưng người con này mang thân cuối cùng, tuy bị thuốc độc nhưng biến thành thuốc lành. Trưởng giả liền đạp vào bên hông trái, cái thai nằm qua bên phải; đạp hông bên phải, thai chuyển qua bên trái. Người mang thân cuối cùng các lậu chưa hết thì không thể bị chết nữa chừng. Trải qua nhiều tháng, khi người phụ nữ kia bị bóp bụng đau đớn thì kêu lớn.

 

Người chung quanh nghe tiếng kêu, vội chạy đến hỏi Trưởng giả:

 

- Tại sao vợ ngài kêu lớn như vậy?

 

Trưởng giả đáp:

 

- Vợ tôi đau bụng sắp sinh.

 

Người chung quanh nghe vậy nên bỏ về.Trưởng giả suy nghĩ: "Ta không thể phá cái thai trong bụng, vậy nên đem người mẹ đến nơi rừng vắng không người, giết đi". Trưởng giả đưa vợ cùng đi, thi hành độc kế giết chết, rồi lén mang trở về nhà, bảo với thân thuộc và hàng xóm: "Vợ tôi gặp nạn thình lình qua đời". Thân thuộc đều buồn rầu thương tiếc, đem lụa năm màu bọc thi thể, đưa đến rừng lạnh nơi hỏa thiêu. Ngoại đạo nghe vậy, rất vui mừng, vì quá phấn khởi nên dựng cờ phướng, đi vào thành vua, khắp các phố phường đường xá, lớn tiếng rao lên:

 

- Này tất cả mọi người, hãy cùng nhau xét lại lời báo trước của Sa-môn Kiều Đáp Ma. Vợ Trưởng giả Thiện Hiền sinh con trai, làm vẻ vang gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ta, trừ hết các hoặc, chứng quả A-la-hán. Nay, vợ trưởng giả đã chết, bỏ thây ra rừng lạnh, như cây đại thọ không có gốc rễ cành lá hoa quả, việc này làm sao chấp nhận được?

 

Pháp nhĩ của Thế Tôn là trong tất cả mọi lúc quán sát nghe thấy biết rõ tất cả chúng sinh, thường có tâm đại bi làm lợi ích tất cả, đứng đầu trong việc cứu hộ, đại hùng lực không nói hai lời, y vào định tuệ hiển phát ba minh, tu tập trọn vẹn ba học, điều phục hoàn toàn ba nghiệp, vượt bốn bạo lưu, ở yên nơi bốn thần túc, luôn luôn tu tập bốn nhiếp hạnh, xả trừ năm triền cái, viễn ly năm chi, thoát khỏi năm đường, đầy đủ sáu căn, viên mãn sáu độ, bố thí khắp bằng bảy thánh tài, nở hoa bảy giác ngộ, xa lìa tám nạn, tu tập bát chánh đạo, vĩnh viễn đoạn trừ chín kết, thông suốt chín định, đầy đủ mười lực, tiếng khen khắp mười phương, rất thù thắng trong các tự tại, được pháp vô úy chiến thắng ma oán, nổi lên tiếng sấm lớn, rống lên tiếng sư tử, ngày đêm sáu thời luôn luôn dùng mắt Phật quán sát thế gian: "Ai tăng thiện căn, ai giảm thiện căn, ai gặp khổ nạn, ai hướng đến nẻo ác, ai bị chìm trong bùn dục, ai có thể hóa độ, làm phương tiện nào để cứu hộ họ thoát ra, làm cho người không có thánh tài được thánh tài, dùng thuốc trí tuệ An-thiện-na phá tan mạc mắt vô minh, làm cho người không có thiện căn trồng được thiện căn, người có thiện căn làm cho phát triển, đưa nhân loại lên đường Trời, an ổn không bị trở ngại đến thành Niết bàn".

 

Như có bài tụng:

 

    Giả sử đại hải triều,

    Có khi trễ kỳ hạn,

    Phật với kẻ đáng độ,

    Cứu ngay không bỏ qua,

    Phật đối các hữu tình,

    Luôn từ bi thương tưởng.

    Nghĩ cứu khổ cho họ

    Như trâu mẹ giữ nghé.

 

Đang đi kinh hành, Thế Tôn mỉm cười, miệng phóng ra hào quang vi diệu năm sắc, chiếu xuống đất, rọi lên trời. Ánh sáng chiếu xuống địa ngục Vô gián và các ngục khác. Nơi đang bị nóng bức liền được mát mẻ, nơi chìm trong nước lạnh thì được ấm áp.

 

Các loài hữu tình ở đó đều được an lạc, cùng suy nghĩ: "Ta cùng các ngươi đã chết khỏi địa ngục sinh đến đây hay sao?" Khi Thế Tôn làm cho chúng hữu tình ấy phát lòng tin rồi, lại hiện tướng khác. Hữu tình thấy tướng khác, lại suy nghĩ: "Chúng ta không phải chết ở đây mà sinh đến nơi khác, chắc chắn chúng ta nhờ vào sức uy đức của bậc Vô thượng Đại thánh, làm cho thân tâm chúng ta đang được hưởng thụ an lạc". Sau khi họ sinh tâm kính tín thì các khổ không còn nữa, được thọ thân tốt đẹp trong trời người, sẽ là bậc pháp khí thấy lý chân đế.Ánh sáng hướng lên, rọi tận cõi trời Sắc cứu cánh. Trong hào quang này diễn thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, và thuyết hai bài kệ:

 

    Ngươi hãy cầu xuất ly,

    Siêng tu trong Phật giáo,

    Chiến thắng quân sinh tử,

    Như voi xô nhà cỏ.

    Ngay trong pháp luật này,

    Thường sống không phóng dật,

    Tát cạn biển phiền não,

    Chấm dứt cảnh giới khổ.

 

Bấy giờ, hào quang ấy chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, xoay quanh trở lại chỗ Phật. Nếu Phật Thế Tôn thuyết giảng việc quá khứ thì hào quang đi vào lưng, nếu thuyết giảng việc vị lai thì hào quang đi vào ngực, nếu thuyết giảng về địa ngục thì hào quang đi vào dưới chân, nếu thuyết giảng về bàng sinh thì hào quang đi vào gót chân, nếu thuyết giảng về ngạ quỷ thì hào quang đi vào ngón chân, nếu thuyết giảng về loài người thì hào quang đi vào đầu gối, nếu thuyết giảng về việc lực luân vương thì hào quang đi vào bàn tay trái, nếu thuyết giảng về việc chuyển luân vương thì hào quang đi vào bàn tay phải, nếu thuyết giảng về việc trời thì hào quang đi vào rốn, nếu thuyết pháp Thanh văn thì hào quang đi vào miệng, nếu thuyết pháp Độc giác thì hào quang đi vào giữa lông mày, nếu thuyết về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì hào quang đi vào đảnh. Hào quang này xoay quanh đức Phật ba vòng rồi đi vào miệng Phật. Cụ thọ A Nan Đà chắp tay cung kính bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Đức Như lai Ứng cúng Chánh đẳng giác tự nhiên mỉm cười chẳng phải không có nhân duyên.

 

Tôn giả nói kệ thỉnh Phật:

 

    Miệng phóng các hào quang vi diệu,

    Chiếu khắp đại thiên nhiều hình tướng,

    Bao trùm các quốc độ mười phương,

    Như mặt trời sáng khắp hư không,

    Phật là nhân tốt cho chúng sinh,

    Hay trừ kiêu mạn và buồn khổ,

    Có duyên nên từ kim khẩu Phật,

    Mỉm cười chắc giảng việc hy hữu,

    Thế Tôn biết các việc tường tận

    Xin Ngài dạy cho người muốn nghe,

    Như vua sư tử rống sấm lớn,

    Nguyện Ngài giải nghi cho chúng con,

    Như Diệu sơn vương trong biển lớn,

    Nếu không nhân duyên không lay động,

    Đấng Từ bi tự tại mỉm cười,

    Xin Ngài nói rõ nhân duyên ấy.

 

Thế Tôn bảo A Nan Đà:

 

- Đúng vậy! Đúng vậy! Này A Nan Đà, chẳng phải không nhân duyênđức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác thị hiện mỉm cười. Ông hãy báo cho các Bí-sô, đức Như Lai sắp đi đến nơi Thi Lâm, cụ thọ nào muốn đi theo hãy mặc y.

 

Tôn giả A Nan vâng lời Phật dạy, bảo các Bí-sô:

 

- Cụ thọ nào muốn đi theo Phật đến nơi Thi Lâm, hãy mặc y.

 

Bấy giờ, các Bí-sô cùng đến chỗ Phật . Khi ấy đức Đại sư tự điều phục nên sự điều phục vây quanh; tự tịch tịnh nên tịch tịnh vây quanh, giải thoát nên giải thoát vây quanh, an ổn nên an ổn vây quanh, thiện thuận nên thiện thuận vây quanh, A-la-hán nên A-la-hán vây quanh, ly dục nên ly dục vây quanh, đoan chính nên đoan chính vây quanh, như rừng chiên đàn nên chiên đàn vây quanh, như voi chúa nên các voi vây quanh, như vua sư tử các sư tử vây quanh, như trâu chúa lớn các trâu vây quanh, như vua nhạn các nhạn vây quanh, như Bà-la-môn có học trò vây quanh, như thầy thuốc giỏi có bệnh nhân vây quanh, như đại tướng quân có binh sĩ vây quanh, như bậc thầy dẫn đường giỏi người lữ hành vây quanh, như quốc vương lớn quần thần vây quanh, như chuyển Luân vương ngàn người con vây quanh, như mặt trăng sáng các sao vây quanh, như vầng mặt trời ngàn ánh sáng vây quanh, như Trì quốc thiên vương có chúng Càn thát bà vây quanh, như Tăng trưởng Thiên vương có chúng Cưu bàn trà vây quanh, như Quảng mục thiên vương có chúng rồng vây quanh, như Đa văn thiên vương có chúng Dược xoa vây quanh, như Tịnh diệu vương có chúng A tu la vây quanh, như Đế Thíchchư thiên trời Ba mươi ba vây quanh, như đại Phạm vương có chúng phạm vây quanh, như biển lớn sâu trong suốt yên lặng, như đám mây lớn giăng mù khắp nơi, như voi chúa chấm dứt cơn say cuồng, điều phục các căn uy nghi tịch tịnh, trang nghiêm với ba mươi tướng, tám mươi vẻ đẹp trang sức tự thân, ánh sáng chiếu tròn một tầm rực rỡ hơn ngàn mặt trời, bước đi ổn định chậm rãi như núi báu di chuyển, có đủ mười lực, bốn vô úy đại bi, ba niệm trụ, vô biên phước trí đều đã tu tập, vô lượng công đức đều viên mãn. Lại có Tôn giả A Thận Nhã Kiều Trần Như , Tôn giả Mã Thắng, Tôn giả Bà Sáp Ba, Tôn giả Đại Danh, Tôn giả Vô-Diệt, Tôn giả Xá Lợi Tử, Tôn giả Đại Mục Liên, Tôn giả Ca Nhiếp Ba, Tôn giả A Nan Đà, Tôn giả Hiệt Ly Phạt Để. Có vô số các vị đại Thanh văn và các Bí-sô cùng vô số ức trời người như thế, cung kính vây quanh Thế Tôn, muốn đến Thi Lâm.

 

Du hành theo Phật có mười tám lợi ích thù thắng:

 

    1.- Không sợ vua chúa.

    2.- Không sợ kẻ làm hại.

    3.- Không sợ nước.

    4.- Không sợ lửa.

    5.- Không sợ nước địch.

    6.- Không sợ sư tử hổ lang ác thú.

    7.- Không sợ bị đóng cửa.

    8.- Không sợ thuế bến đò.

    9.- Không sợ thiếu sự che chở.

    10.- Không sợ người.

    11.- Không sợ phi nhân.

    12.- Luôn luôn được thấy chư thiên.

    13.- Được nghe tiếng chư thiên.

    14.- Được thấy ánh sáng lớn.

    15.- Nghe âm thanh thọ ký.

    16.- Cùng nhau lĩnh thọ diệu pháp.

    17.- Cùng hưởng thụ thực phẩm.

    18.- Thân không bệnh khổ.

 

Khi chư thiên cùng đại chúng theo đức Phật đến Thi Lâm, có gió mát thổi ở bốn mặt rừng. Bấy giờ, trong thành Vương xá có hai đồng tử, một thuộc dòng Sát đế lợi, một thuộc dòng Bà-la-môn, đi du ngoạn với nhau. Đồng tử Sát đế lợi rất có tín tâm, đồng tử Bà-la-môn không có kính tín. Đồng tử Bà-la-môn nói với đồng tử Sát đế lợi:

 

- Bạn biết không, đức Như Lai thầy của bạn báo trước vợ trưởng giả Thiện Hiền sinh con trai, làm rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của vị ấy, đoạn trừ các hoặc chứng quả A-la-hán. Nay vợ ông ta đã chết, bỏ thây trong Thi Lâm, chẳng phải lời nói của Thế Tôn không đúng hay sao?

 

Đồng tử Sát đế lợi nói kệ:

 

    Giả sử trăng sao đều rơi rụng,

    Đất núi rừng cây bay lên không.

    Sóng lớn nước biển khô cạn sạch,

    Lời nói Thế Tôn không hư vọng .

 

Đồng tử Bà-la-môn nói:

 

- Nếu như vậy, chúng ta hãy cùng đi đến nơi thiêu thây chết ở Thi Lâm, xét nghiệm hư thật.

 

Đáp:

 

- Ta cùng đi.

 

Khi đồng từ Sát đế lợi trông thấy Thế Tôn, nên nói kệ:

 

    Mâu Ny uy nghi không đùa giỡn,

    Trời người đại chúng đều vân tập,

    Ngài sẽ rống lên tiếng sư tư,

    Chiến thắng lời kẻ khác, không ngại,

    Đại sư đang đến trong Thi Lâm.

    Gió mát thổi khắp nơi hoang dã,

    Vô lượng chúng sinh đều chiêm ngưỡng,

    Mừng nhìn Điều Ngự hiện thần thông.

 

Vua Ảnh Thắng nghe sự việc này: "Thế Tôn dự báo vợ Trưởng giả Thiện Hiền sinh con trai, làm vẻ vang gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Phật, đoạn trừ các hoặc chứng quả A-la-hán. Nay vợ ông ấy đã chết, bỏ thây nơi Thi Lâm. Đại sư Như Lai và các Thanh văn, đại chúng gần xa cùng đến nơi tống táng".

 

Nhà vua lại suy nghĩ: "Không thể vô cớThế Tôn đi đến Thi Lâm, chắc vì việc của vợ Thiện Hiền, nhân đó điều phục những chúng sinh có duyên. Ta nên đến đó cùng xem việc này". Nhà vua ra lệnh quân đội với nghi vệ, cùng thái tử hậu phi trong cung ... và các tùy tùng đồng ra khỏi thành . Khi đồng tử Sát đế lợi thấy vua Ảnh Thắng, nên nói kệ:

 

     Hãy xem quốc vương ra khỏi thành,

    Cùng với quân đội theo hộ vệ,

    Tôi suy nghĩ rằng đại chúng này:

    Chắc chắn được nhờ lợi ích tốt.

 

Khi thấy đức Thế Tôn, đại chúng liền mở đường phía trước ra. Thế Tôn mỉm cười đi vào trong đại chúng. Nhóm lõa hình đều suy nghĩ: "Kiều Đáp Ma mỉm cười đang đi vào trong chúng, chả lẽ đứa nhỏ này không chết?". Họ bảo trưởng giả:

 

- Đấy là chúng sinh làm hết phước nên thân mạng chưa chết.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, nay gặp tai họa này, phải làm sao đây?

 

- Trưởng giả, ta là người xuất gia, giữ gìn giới cấm, chỉ biết niệm thiện, sau này ngươi tự biết.

 

Khi ấy, trưởng giả đưa thây vợ lên giàn củi, châm lửa hỏa thiêu, ngọn lửa rực rỡ đốt cháy toàn thân nhưng chung quanh vùng bụng không bị thương tổn. Ngay trong bụng người mẹ, liền nứt ra mọc lên một hoa sen xanh. Trong hoa sen có một đứa bé thân hình xinh đẹp, an nhiên ngồi yên trông thật đáng yêu. Đại chúng thấy sự việc này rất kinh ngạc thật chưa từng có. Ngoại đạo đều mất hết nhuệ khí, dẹp hết ngã mạn. Đấng Đại sư bảo Trưởng giả Thiện Hiền:

 

- Ông hãy bồng đứa bé trong lửa ra.

 

Trưởng giả vẫn nhìn sang mặt ngoại đạo. Họ bảo trưởng giả:

 

- Ngài vào trong lửa, chắc chắn phải chết.

 

Trưởng giả nghe vậy, run sợ nên không dám vào bồng con. Thế Tôn bảo Thị Phược Ca:

 

- Ông hãy vào lửa bồng đứa trẻ ra.

 

Thị Phược Ca suy nghĩ: "Thế Tôn không sai ta làm việc phi xứ phi thời, ta hãy vào lửa bồng đứa trẻ". Với tâm không sợ, Thị Phược Ca vào bồng đứa bé đang ở trong lửa ra. Chư thiên nói kệ:

 

    Phật dạy vị ấy vào trong lửa,

    Bồng đứa bé ra, không sợ hãi,

    Nhờ thần lực tự tại của Phật,

    Làm cho lửa nóng thành ao mát.

 

Thế Tôn bảo Thị Phược Ca:

 

- Vừa rồi, ông vào lửa, thân có bị thương tổn, cháy phỏng không?

 

- Bạch Thế Tôn! Con sinh ra trong vương cung, lớn lên trong cung, từng thoa thân thể bằng hương ngưu đầu chiên đàn, nhưng chưa có cảm giác mát mẻ như hôm nay.

 

Phật bảo Trưởng giả Thiện Hiền:

 

- Bây giờ, ông hãy bồng con về.

 

Khi ấy, Trưởng giả bị ác kiến che mất tâm trí, nên vẫn không tin, quay lại nhìn ngoại đạo. Bọn tà kiến cùng nói:

 

- Này Trưởng giả, đứa bé này rất ít phước, bẩm tánh hung bạo, lửa có thể ăn tất cả mà không đốt nó được, chứng minh cho biết nó chính là chúng sinh ác độc đầy tội khổ, thấy rõ trước mắt chẳng cần nói nhiều. Nếu mang nó về nhà tất bị tai họa, tánh mạng của ngài chắc chắn bị hại chết.

 

Người trong đời không thương yêu gì hơn thân mạng, Trưởng giả nghe có tai họa liền tránh xa ngay.Khi ấy, Thế Tôn bảo vua Ảnh Thắng:

 

- Đại vương nên nhận lấy đứa bé này.

 

Nhà vua vội vã đưa tay nhận lấy đứa bé, chăm chú nhìn khắp rồi thưa với Thế Tôn:

 

- Nên đặt tên đứa bé này là gì?

 

Phật bảo nhà vua:

 

- Đứa bé này sinh ra từ lửa, vậy đặt tên là Hỏa Sinh.

 

Sau đó, đức Phật tuỳ theo căn cơ sở thích mọi ngườithuyết pháp. Trong chúng có vô lượng vạn ức chúng sinh được hạnh thù thắng, hoặc đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, hoặc xuất gia đoạn trừ các hoặc chứng quả A-la-hán, hoặc đắc noãn đảnh nhẫn thiện căn, hoặc phát tâm thanh văn bồ đề, hoặc phát tâm độc giác bồ đề, hoặc phát tâm vô thượng bồ đề, hoặc quy y Tam bảo, hoặc thọ trì giới cấm, có lòng tin sâu xa. Vua Ảnh Thắng giao đứa bé cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng ... nói rộng như chỗ khác.Khi ấy, người cậu lớn của đồng tử Hoả Sinh trước đây đem tài vật mậu dịch ở phương khác, nghe em gái mình có thai, nên rất vui mừng, lại được nghe Thế Tôn dự báo sẽ sinh con trai, làm rạng rỡ cho gia tộc ... v.v ... cho đến ... chứng quả. Ông ta liền bán hàng hóa của mình, thu thập các vật khác rồi trở về thành Vương xá, nghe em gái đã chết nên suy nghĩ: "Thế Tôn thọ ký em ta sinh con trai sẽ được chứng quả, lẽ nào là dối trá không thật?". Ông ta tìm hỏi người lân cận:

 

- Em gái tôi mang thai được Phật thọ ký, nên vui mừng chưa lâu, nay nghe bị chết thật trái với hy vọng trước đây, không thể nào lời Thế Tôn không thật?

 

Người lân cận nói:

 

- Đúng vậy, lời nói của đức Phật đại sư không hư vọng, chỉ vì người chồng tin theo lời ngoại đạo, nên giết cô ấy chết oan uổng. Đứa con sinh ra có uy thần lớn, ở trong lửa cháy nhưng không sao cả, nay đang được nuôi dưỡng trong cung vua.

 

Người cậu nghe như vậy, đi đến gặp Trưởng giả Thiện Hiền, sau khi chào hỏi, nói:

 

- Này trưởng giả, người làm việc phi lý.

 

Đáp:

 

- Tôi đã làm gì?

 

- Người nghe lời ác kiến của kẻ ngoại đạo, em ta có thai, giết cho chết oan, đứa bé được sinh ra có uy thần lớn ở giữa lửa cháy vẫn không bị hại, hiện nay đang được nuôi dưỡng trong cung vua.Việc này đã như vậy, thôi không cần nói nữa, nếu mang đứa bé về đây, ta sẽ dung thứ. Nếu ngươi không làm như vậy, ta sẽ tập họp thân tộc làng xóm xua đuổi ngươi với số thẻ biểu quyết đồng ý mà ngươi không biết hết được, truyền rao tiếng xấu của ngươi khắp các nẻo đường: em ta không có lỗi bị Thiện Hiền giết chết oan uổng. Kẻ giết phụ nữ không được nói chuyện với ai cả, bị pháp luật xử tội hành hình.

 

Trưởng giả nghe vậy, rất đau khổ, suy nghĩ: "Theo lời vừa nói, chắc chắn ông ta không tha cho ta". Trưởng giả đến gặp vua Ảnh Thắng và tâu lên sự việc như vậy ... cho đến bị tội gia hình, cầu mong ngài ban ân cho đồng tử lại. Nhà vua nói:

 

- Ta không nhận đồng tử của ngươi, chính đức Phật Thế Tôn trực tiếp giao cho ta. Nếu ngươi cần nó thì hãy đến hỏi đức Phật.

 

Trưởng giả liền đến gặp đức Phật, lạy sát dưới chân, thưa:

 

- Bạch Thế Tôn! Con bị thân thuộc oán trách rất đau khổ ... nói rộng như việc ở trước ... cho đến bị tội gia hình, cầu Phật từ bi cho con xin đồng tử lại. Thế Tôn suy nghĩ: "Nếu trưởng giả này không nhận được đứa bé, tất trào máu nóng mà chết". Thế Tôn bảo cụ thọ A Nan:

 

- Ông hãy đi cùng trưởng giả đến gặp vua Ảnh Thắng, chuyển lời Ta chúc sức khỏe nhà vua, và nói xin đại vương trả đồng tử Hỏa Sinh lại cho Trưởng giả. Nếu Trưởng giả không nhận được đồng tử tất bị trào máu nóng mà chết.

 

Tôn giả A Nan Đà đến gặp nhà vua trình bày lại hết lời Phật dạy. Nhà vua nói:

 

- Tôn giả là bậc Trẫm tin ngưỡng mộ, kề cận Thế Tôn, con sẽ phụng hành lời Phật dạy.

 

Sau khi chúc sức khỏe nhà vua, Tôn giả A Nan Đà từ giã ra về. Nhà vua bảo Trưởng giả:

 

- Ta vâng lệnh Phật nuôi dưỡng đứa bé này, rất thương yêu nó, nên phải giao ước sau đó ta mới trả lại là cứ ba ngày phải mang lại gặp ta, được vậy thì mang đi tùy ý.

 

Trưởng giả đáp:

 

- Thần không dám trái lệnh.

 

Nhà vua ra lệnh cho mặc thượng y, trang sức đầy đủ với anh lạc, đặt lên voi lớn hộ tống em bé về nhà. Thông thường ở thế gian, khi cha còn sống, danh tiếng của con không rực rỡ, sau khi cha qua đời, đồng tử Hoả Sinh tự quản lý gia nghiệp, rất tín ngưỡng Tam bảo, ngay tại chỗ đất cha hại mẹ ngày trước, xây dựng chùa Tăng trang bị đầy đủ dụng cụ sinh hoạt, cúng dường cho tứ phương Tăng, gọi là Nhu Phúc Lâm. Thế nên trong kinh nói: "Phật ở thành Vương xá, vườn Nhu Phúc Lâm".Trước đây, Thiện Hiền trưởng giả từng sai thương nhân đi buôn bán ở phương khác. Họ nghe Trưởng giả đã qua đời, đồng tử Hỏa Sinh thay cha quản lýù gia nghiệp, có lòng kính tín rộng lớn với Tam bảo. Thương nhân được nhiều bát ngưu đầu chiên đàn thượng diệu, liền mang một bát đựng đầy trân bảo, sai sứ đến dâng cho Hỏa Sinh. Sau khi nhận được, Hỏa Sinh bố trí bát này trên phướn cao, thông báo khắp nơi:

 

- Người nào không dùng thang, bậc cấp, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn có uy lực lớn thần thông tự tại lấy được thì tôi tặng bát cho người ấy.

 

Bấy giờ, vào sáng sớm các ngoại đạo đi tắm rửa, thấy ngọn phướn cao nên nói với trưởng giả:

 

- Đấy là vật gì?

 

Trưởng giả liền trình bày hết sự việc. Ngoại đạo đáp:

 

- Trưởng giả xưa nay kính Thích ca tử, ông ta sẽ lấy được không?

 

Ngoại đạo nói xong bỏ đi. Có nhiều vị Bí-sô kỳ túc vào thành khất thực, thấy phướn cao này, đều hỏi trưởng giả:

 

- Đấy là vật gì?

 

Ông ta nói rõ. Bí-sô nói:

 

- Lẽ nào ta vì bát mà khoe tài mình hay sao ?

 

Như Phật dạy:

 

- Che dấu điều thiện phát lộ việc ác , là hạnh người xuất gia.

 

Nói xong, họ bỏ đi. Cụ thọ Thập lực Ca Nhiếp Ba đi ngang qua đó, cũng hỏi trưởng giả:

 

- Đâáy là vật gì?

 

Ông ta cũng nói rõ. Tôn giả suy nghĩ: "Ta sinh tử từ vô thỉ đến nay, đối với phiền não oan gia đã có nuôi dưỡng, ta đều chuyển đổi vứt bỏ không còn gì. Nay ta nên nhận lấy nhân duyên của trưởng giả đã thỉnh mời, làm cho ông ta mãn nguyện. Tôn giả liền đưa tay như vòi voi lớn đến trên ngọn phướn lấy cái bát chiên đàn, mang về trú xứ.Bí-sô thấy hỏi:

 

- Tôn giả được cái bát ngưu đầu chiên đàn thù thắng này ở đâu.

 

Tôn giả kể lại sự việc trên cho các Bí-sô nghe.Các Bí-sô nói:

 

- Chẳng lẽ Tôn giả vì cái bát gỗ này mà hiện thần thông?

 

Đáp:

 

- Đúng hay sai, tôi cũng đã làm rồi, nay biết làm sao?

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được hiện thần lực trước người thế tục. Ai vi phạm bị tội vượt pháp. Nhưng bát có bốn loại là làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Lại có bốn loại bát là bằng thâu thạch, đồng đỏ, đồng trắng, các loại gỗ. Bốn loại bát trước, nếu trước không có thì không được nhận; nếu đã có sẵn thì phải vứt bỏ. Bốn loại bát sau, nếu trước không có thì không được nhận ; nếu đã có sẵn thì tùy lúc nhận dùng làm tô đựng thuốc. Cần phải biết, bát xử dụng hợp pháp có hai loại là bằng sắt và bằng đất.

 

Về sau, nơi đồng tử Hỏa Sinh xuất hiện đầy đủ diệu tướng của thiên nhân. Từ thành Chiêm Ba đến thành Vương xá, ở giữa có trạm thu thuế. Người thuế quan qua đời sinh vào loài Dược xoa, ban đêm báo mộng với con mình:

 

- Sau khi cha qua đời sinh vào loài Dược xoa.

 

Ngay tại chỗ thu thuế, lập cho cha miếu thờ thần Dược xoa, trước cửa treo một cái chuông rung. Khi có những người nào mang vật đi ngang qua, mà không nộp thuế, chuông rung liền vang lên, thì gọi họ trở lại, lấy thuế rồi cho đi. Vào ngày nọ, người con nói với thân tộc về giấc mộng của mình, rồi cùng nhau xem xét chỗ cần thiết, an trí miếu thần, treo chuông rung bên ngoài. Tại thành Chiêm ba có vợ người Bà-la-môn. Bà ta suy nghĩ: "Bà-la-môn này nhờ vào sự hoạt động, có những tài vật thu thập được, ta thường lấy xử dụng, nay lại ăn không ngồi rồi không làm gì mưu sinh cả, việc này thật không nên". Nghĩ vậy, bà ta vào chợ mua sợi kiếp bối về làm thành sợi mịn, mang đến thợ dệt bảo họ dệt thật đẹp, được hai tấm vải giá trị ngàn đồng tiền vàng, rồi nói với chồng:

 

- Xấp vải này giá trị ngàn đồng tiền, chàng hãy mang ra chợ bán lấy tiền. Nếu có người mua thì tốt, bằng không ai hỏi, nên rao lên: - Trên chợ không người; để đi đến chỗ khác.

 

Người chồng mang xấp vải bán, rao giá ngàn tiền vàng nhưng không ai trả đến giá ấy, nên rao lên rằng chợ không có người. Sau đó, ông ta cuộn xấp vải ấy đặt trong cán lọng tre, rồi cùng đoàn buôn đi đến thành Vương xá. Họ đi dần đến nơi miếu thờ thần Dược xoa. Đợi mọi người đóng thuế xong, người ấy vừa muốn lên đường thì chuông lại rung vang lên. Thuế quan nghe tiếng chuông, bảo nhau:

 

- Chuông đã kêu lên, chắc còn vật chưa nộp thuế, hãy kiểm soát lại chớ cho thất thoát.

 

Họ giữ đoàn buôn lại và kiểm soát kỹ nhưng không có vật nào chưa đóng thuế cả, nên cho đoàn buôn lên đường. Chuông kêu vang nữa. Họ lại kiểm soát kỹ đến lần thứ ba. Đoàn buôn lấy làm lạ và sinh bất mãn tức giận , báo với thuế quan:

 

- Các người muốn chèn ép ta nên bày chuyện giữ lại.

 

Khi ấy, thuế quan phân đoàn buôn làm hai nhóm. Họ giải quyết cho nhóm không có người Bà-la-môn được lên đường thì chuông không kêu. Khi nhóm còn lại lên đường thì chuông lại kêu. Họ lại phân làm hai nhóm như trước để cho đi và giữ lại. Sau đó, đoàn thương nhân đi hết, chỉ còn lại người Bà-la-môn. Bị thuế quan giữ lại không cho lên đường, Bà-la-môn nói:

 

- Hãy xét kỹ bên người tôi có vật gì thì cứ lấy. Sau khi xét kỹ không có vật gì, nên ông ta được đi. Chuông lại kêu, ông ta bị giữ lại nữa. Họ bảo Bà-la-môn:

 

- Dù ông có tài vật, chúng tôi cũng không lấy nữa, hãy nói thật đi, đừng dối với thần linh. Ta muốn nêu cho biết thần minh là Thánh.

 

Bà la môn nói:

 

- Nếu người không dối trá, ta sẽ nói thật.

 

Ông ta lấy trong cán lọng ra hai tấm vải. Thấy vậy, thuế quan rất kinh ngạc, khen việc lạ:

 

- Lành thay thần minh báo việc không sai. Thuế quan lấy ra một tấm khoác lên cho thần. Bà-la-môn nói:

 

- Các ngài đã nói rõ là không lấy thuế , nay xem hình như muốn lấy hết của tôi.

 

Đáp:

 

- Đừng sợ, ta không lấy vật, chỉ muốn biểu dương lời nói của đại thần không hư vọng, nên tạm thời đem một tấm để báo ân thần rồi sẽ trả lại để người mang đi.

 

Sau khi nhận lại xấp vải, Bà-la-môn cuộn để vào cán lọng rồi lên đường, đến thành Vương xá, đi vào chợ, trương xấp vải lên đòi giá ngàn đồng tiền vàng, nhưng cuối cùng không có ai đến trả đúng giá, nên ở giữa chợ rao lên:

 

- Đây không có chợ.

 

Khi đồng tử Hỏa Sinh ra khỏi vương cung, cỡi voi vào phố chợ, muốn đi về nhà, nghe tiếng rao nên hỏi:

 

- Người ấy vì sao mà rao lên không có chợ, hãy gọi ông ta lại cho ta hỏi.

 

Bà-la-môn đến, Hỏa Sinh hỏi:

 

- Tại sao người nói trong thành không có chợ.

 

Đáp:

 

- Tôi có hai tấm vải, trị giá đến ngàn tiền vàng, nhưng không có ai trả giá.

 

- Hãy mang lại đây cho ta xem thử.

 

Ông ta mang đến trình ra. Hỏa Sinh bảo:

 

- Một tấm còn mới, một tấm đã mặc rồi, ta trả giá tấm đã mặc hai trăm năm mươi tiền vàng, tấm chưa mặc năm trăm tiền.

 

Người Bà la môn nói:

 

- Ý gì mà nói vậy, cả hai tấm đều chưa dùng.

 

Hỏa Sinh nói:

 

- Hãy cho người xem để nghiệm rõ hư thật, lấy tấm chưa dùng mở ra tung lên không trung thì nó trụ lại như cái lọng rơi xuống từ từ, còn cái đã dùng thì rơi ngay xuống đất.

 

Người chủ thấy vậy cho là việc ít có, nói:

 

- Trưởng giả, ngài có trí lớn thần tuệ siêu quần.

 

Hỏa Sinh lại bảo:

 

- Tấm chưa dùng để trên gai, mũi nhọn không xuyên qua được. Tấm đã dùng rồi tất bị mũi gai châm vào.

 

Sự thật đúng như lời nói. Người Bà la môn lại cho là hy hữu, nói:

 

- Trưởng giả thông minh trí thức, thật chưa từng có, theo giá đã trả, ngài hãy lấy xấp vải đem về.

 

Hỏa Sinh nói:

 

- Ngài là người khách buôn, xin trả hết cho không bớt giá làm gì.

 

Nhận đủ cả ngàn đồng tiền, Bà-la-môn vui mừng ra đi.

 

Khi ấy trưởng giả đưa xấp vải đã xử dụng cho gia nhân mặc, và dùng xấp chưa mặc là áo tắm.

 

Một hôm, vua Ảnh Thắng cùng các đại thần lên lầu cao. Y phục vừa giặt xong của Hỏa Sinh phơi ở góc lầu bị gió thổi bay đến trước mặt vua. Vua nói:

 

- Y phục này của chư Thiên dùng, ở đâu bay lại đây?

 

Đại thần tâu:

 

- Thần từng nghe, ngày xưa có vị vua tên Mạn đà la, trời mưa vàng vật báu trong bảy ngày. Nay, có y rơi xuống cho vua, chắc không lâu vàng sẽ đến.

 

Nhà vua nói:

 

- Ta nghe trưởng giả Hỏa Sinh được Phật thọ ký có đầy đủ diệu tướng của trời người. Y trời tốt đẹp này từ trên không trung rơi xuống. Chờ trưởng giả đến, ta sẽ tặng.

 

Khi Hỏa Sinh đến, vua bảo:

 

- Thế Tôn thọ ký khanh có tướng tốt của trời người. Y trời này từ không trung bay xuống, khanh hãy lấy mặc.

 

Sau khi đưa tay nhận lấy y của vua, Hỏa Sinh xem kỹ, biết là vật của mình, nên mỉm cười, tâu:

 

- Đại vương, ngài đã tiếp xúc với vật này chưa?

 

Đáp:

 

- Rồi.

 

- Ngài đã cầm y phục bẩn xin hãy rửa tay. Đây không phải là y phục của trời, mà là khăn tắm của hạ thần.

 

Vua hỏi:

 

- Làm sao biết được?

 

Đáp:

 

- Ngoài ra còn một tấm nữa cho gia nhân mặc giống như cái này, ngài có thể nghiệm được.

 

Nhà vua thấy vậy rất làm kỳ lạ, bảo với đồng tử:

 

- Hiện nay, diệu tướng của trời đã xuất hiện nơi khanh hay chưa?

 

Đáp:

 

- Đã xuất hiện.

 

- Như vậy, tại sao không mời ta đến nhà khanh?

 

Đáp:

 

- Nếu đại vương cho phép, hôm nay thần xin thỉnh ngài.

 

Vua nói:

 

- Khanh hãy về nhà chuẩn bị thức ăn uống.

 

- Đại vương, nếu người có tướng đẹp của trời xuất hiện thì họ tự nhiên không phải làm lụng lao nhọc, ngay bây giờ xin cung thỉnh ngài đến dự tiệc tại nhà.

 

Đến cổng nhà của trưởng giả, vừa thấy người tớ gái, nhà vua liền nhìn xuống đất. Trưởng giả thưa:

 

- Vì sao ngài nhìn xuống đất?

 

Vua đáp:

 

- Ta tránh vợ khanh.

 

Đáp:

 

- Đó là người giúp việc ở ngoài, không phải vợ của thần.

 

Vua nói:

 

- Thật hiếm có!

 

Sau đó lại thấy phụ nữ trong nhà, vua cũng nhìn xuống. Trưởng giả lại hỏi, vua đáp như trước.

 

- Đó cũng là người phục vụ, không phải vợ thần.

 

Nhà vua nghe nói lấy làm kỳ dị. Khi vào cửa trong, thấy nền đất lưu ly trong suốt như ao nước trong, ngay trên cửa có bố trí cá máy, bóng hiện trong đất, vua cho là ao nước, nên tháo giầy ra.

 

Hỏa Sinh thưa:

 

- Vì sao đại vương tháo giầy?

 

Vua đáp:

 

- Sắp đi qua nước, nên sợ ướt giầy.

 

Hỏa Sinh thưa:

 

- Đây là mặt đất lưu ly, không phải là nước.

 

Vua hỏi:

 

- Vì sao có cá bơi lội?

 

Đáp:

 

- Không phải cá thật, chỉ là bóng cá máy.

 

Vua không tin, liền tháo chiếc nhẫn ném xuống đất. Nhẫn chạm đất vang tiếng kêu và lăn sang một bên. Nhà vua lại trầm trồ mãi và lên tòa sư tử. Khi ấy, những người trong nhà đều ra bái yết vua. Chưa kịp đứng lên thì những người nữ đều chảy nước mắt. Vua hỏi Hỏa Sinh:

 

- Vì sao những người trong nhà thấy ta thì rơi nước mắt?

 

Đáp:

 

- Không phải họ khóc! Vì y phục của vua được xông ướp bằng khói hương chiên đàn trầm thủy, mùi khói này làm hại con ngươi họ làm cho chảy nước mắt.

 

Khi ấy, vua Ảnh Thắng hưởng thụ diệu lạc thù thắng khó tưởng được như cõi trời, nên thích thú không chán, chẳng chịu về cung, bỏ phế tất cả việc triều chính . Các đại thần tâu với thái tử Vị Sinh Oán:

 

- Đại vương nước ta vào nhà trưởng giả Hỏa Sinh, tham đắm dục lạc không chịu về triều. Cầu xin thái tử đến đó thỉnh đại vương trở về.

 

Vị Sinh Oán đến gặp nhà vua tâu:

 

- Đại vương, vì sao ngài ở đây không nhìn lại cơ đồ?

 

Nhà vua bảo thái tử:

 

- Chẳng lẽ khanh không thể đảm đương được việc nước trong một ngày hay sao?

 

Thái tử tâu:

 

- Đại vương nói chỉ có một ngày hay sao! Ngài xuất cung đến nay đã bảy ngày.

 

Nghe nói vậy, vua nhìn vào mặt Hoả Sinh, nói:

 

- Thật đã bảy ngày à!

 

Đáp:

 

- Tâu đại vương, đúng vậy.

 

Vua nói:

 

- Như vậy, làm sao phân biệt được ngày đêm?

 

Hỏa Sinh tâu:

 

- Đại vương, nhờ thấy hoa nở và khép, ngọc báu sáng và không sáng, chim có hót hay không nên biết đó là ngày hay đêm.

 

Vua nói:

 

- Nhưng ta vẫn chưa biết.

 

Đáp:

 

- Có loại hoa đêm nở ngày khép, loại đêm khép ngày nở. Có loại ngọc đêm tối ngày sáng, loại đêm sáng ngày tối. Có loại chim hót về đêm, loại hót về ban ngày.

 

Nhà vua nghe nói rất lấy làm kỳ dị, nói với đồng tử:

 

- Lời của Đại sư Thế Tôn thật không hư dối, đúng như những điều Ngài báo trước, nay khanh đều có hưởng thụ cả.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ NẠI DA TẠP SỰ.

 

Quyển thứ hai hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ ba

 

--- ooOoo ---

 

Thái tử Vị Sanh Oán đi vào nhà Trưởng giả Hỏa Sinh, thấy ngọc báu đẹp nên lén lấy đưa cho tùy tùng, khi vào trong nhà bảo họ:

 

- Hãy đưa châu báu lúc nãy cho ta.

 

Tùy tùng mở tay ra chỉ thấy tay không, nên đáp:

 

- Không biết châu báu đi đâu mất!

 

Thái tử giận đánh người tùy tùng. Hỏa Sinh nói:

 

- Họ bị giận đánh vì tội gì vậy?

 

Đáp:

 

- Ta là giặc nhỏ, nó là giặc lớn. Ta lén lấy bảo châu trong nhà khanh, bị kẻ tiểu nhân này trộm lại.

 

Hỏa Sinh nói:

 

- Không phải thái tử trộm cũng chẳng phải kẻ kia cắp. Sau khi thái tử lấy, vật ấy lại trở về chỗ cũ. Thưa thái tử! tài sản trong nhà thần là vật của thái tử, cần bao nhiêu tùy ý lấy mang đi, vì sao lén lấy?

 

Thái tử im lặng suy nghĩ: "Sau khi cha ta qua đời, ta sẽ lấy tất cả".

 

Khi Vị Sanh Oán bị bạn ác là Đề Bà Đạt Đa xúi giục, phản nghịch giết hại phụ vương, tự xưng là quán đảnh đại vương, làm chủ nước Ma kiệt đà, bảo với Hỏa Sinh:

 

- Khanh là em ta, hãy cùng nhau phân chia tài sản.

 

Hỏa Sinh suy nghĩ: "Kẻ giết người cha anh minh của mình để tự lên ngôi, lẽ nào lại dung thứ cho ta! Nay ác vương này muốn đoạt nhà cửa của ta, nên đồng ý trước". Suy nghĩ xong, Hỏa Sinh bảo:

 

- Đại vương, trước đây thần đã có ý dâng hết nhà cửa tài sản cho ngài, vậy còn phân làm gì, cầu xin đại vương đến ở trong nhà của thần, thần đi đến vương cung, mong ngài chấp nhận.

 

Vua phán:

 

- Lành thay! làm theo ý khanh.

 

Nhà vua chuyển Hoả Sinh vào vương cung, những vật tốt đẹp đều chuyển theo vào trong cung. Di chuyển qua lại như vậy đến bảy lần, vật tốt vẫn theo Hỏa Sinh, vật xấu theo sau nhà vua.

 

Bấy giờ, vua Vị Sanh Oán suy nghĩ: "Ta không thể lấy được vật báu của Hỏa Sinh, hãy làm thủ thuật khác để lấy cho được".

 

Nhà vua bảo kẻ trộm:

 

- Ngươi hãy vào nhà Hỏa Sinh lấy trộm bảo châu.

 

Người kia nghe lời, làm móc sắt trèo lên tường muốn vào nhà. Người nhà trông thấy, gọi lớn: "Có trộm có trộm." Hoả Sinh nghe nói, ý không muốn cho trộm đi, nên bảo:

 

- Hãy giữ trộm lại.

 

Tên trộm bị dính chặt trên đầu tường, không thể leo xuống được. Đến sáng, mọi người cùng lại xem, hỏi:

 

- Vì sao ngươi đến đây?

 

Đáp:

 

- Nhà vua sai tôi đến trộm vật báu của Hỏa Sinh.

 

Mọi người đều tức giận, cho rằng:

 

- Đấy chính là kẻ ác, đã giết oan vua pháp vô tội, nay còn sai trộm đến đoạt ngang tài sản của người. Tội lỗi này quá sâu, làm sao tha thứ được.

 

Nhà vua nghe sự việc như vậy, sai sứ giả đến gặp Hỏa Sinh nói:

 

- Hãy thả người ấy ra không được làm hại.

 

Khi Hỏa Sinh muốn thả nên bảo tên giặc hãy đi đi. Tên ấy liền được thoát. Hỏa Sinh suy nghĩ: "Kẻ kia có thể giết cha mình, thật không có chuyện không hại ta, lẽ nào vì tài sản mà bỏ mạng hay sao? Vã lại trước đây ta đã được Thế Tôn thọ ký xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ngài, đoạn trừ các hoặc, chứng quả A-la-hán. Vậy ta nên bỏ tục xuất gia, đem tất cả tài bảo trong nhà bố thí hết cho người cô độc đi xin, làm những người nghèo khổ đều được sung túc". Sau khi từ giã thân bằng quyến thuộc bạn bè xong, trưởng giả Hỏa Sinh đến gặp đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên chắp tay cung kính bạch:

 

- Thế Tôn, xin Ngài cho phép con được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết và thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô, tịnh tu phạm hạnh phụng sự Thế Tôn.

 

Phật thấy như vậy, bảo:

 

- Này Bí-sô hãy đến đây tu tập phạm hạnh.

 

Hỏa Sinh nghe như vậy xong, râu tóc tự rụng như đã cắt bỏ được bảy ngày, thân mặc pháp y, bình bát có nơi tay, uy nghi đầy đủ như Bí-sô một trăm tuổi hạ. Có bài tụng:

 

    Thế Tôn gọi con đến .

    Tóc rụng, mặc pháp y,

    Các căn được thanh tịnh.

    Theo Phật, ý thành tựu.

 

Được Thế Tôn tùy căn cơ dạy bảo, Tôn giả tinh tấn cần tu quán sát năm đường sinh tử luân hồi di chuyển không ngừng, các hành hữu vi đều không bền vững, là pháp đáng chán, thường bị phá hoại, hoan lạc tạm thời, chịu khổ lâu dài, tuy có quả báo cõi trời cuối cùng cũng tan rã, quán sát thấy rõ như vậy nên đoạn trừ các hoặc nghiệp, đắc quả A-la-hán ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát, biết rõ như thật:

 

- Ta sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn đời sau. Tâm không còn chướng ngại như tay quơ trong khoảng không, bị dao cắt không giận, được thoa hương không tham đắm, xem vàng và đất như nhau, không còn vương vấn danh lợi, Thích Phạm chư thiên đều cung kính.

 

Khi ấy, các Bí-sô đều sinh phân vân, nói với nhau:

 

- Chỉ có đức Phật Thế Tôn mới phá được lưới nghi ngờ, chúng ta hãy cùng hỏi.

 

Họ cùng đến gặp Phật thưa:

 

- Thế Tôn, trước đây trưởng giả Hỏa Sinh tạo nghiệp gì, do quả báo của nghiệp ấy được sinh vào nhà giàu có hưởng thụ đầy đủ; lại vì nghiệp gì mà bị lửa đốt với mẹ trong một lần; nhờ nghiệp gì mà sinh trong loài người lại được hưởng thụ diệu tướng cõi trời; lại do nghiệp nào được xuất gia tu tập trong Phật pháp, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán?

 

Thế Tôn dạy:

 

- Này các Bí-sô hãy lắng nghe, những nghiệp đồng tử Hỏa Sinh đã tạo, được hưởng thụ như nói rõ ở trên. Các thầy nên biết, về quá khứ cách đây 91 kiếp có Phật ra đời hiệu Tỳ Bát Thi Như Lai, Ưùng cúng, Chánh đẳng giác, đầy đ? mười hiệu, cùng đại chúng Bí-sô sáu mươi hai ngàn vị, lần lượt du hành đến một thành tên Thân Tuệ, vua hiệu Hữu Thân. Cách đó không xa có rừng Thân Tuệ, đức Phật và các Bí-sô trú ở đó.

 

Nhà vua có phước đức lớn, đất nước an ninh, nhân dân phồn thịnh không có chiến tranh, là vị đại pháp vương như trên đã nói.Trong thành có một Trưởng giả tên Thiên Phận rất giàu nhiều tài sản hưởng thụ sung túc có thể sánh với Tỳ sa môn thiên vương. Trưởng giả suy nghĩ: "Tuy ta thường thỉnh Phật Tỳ Bát Thi và các thánh chúng thọ trai phạn thơm ngon, nhưng chưa bao giờ cúng dường bốn vật dụng trong ba tháng an cư. Nay ta nên thỉnh Phật và Tăng, cúng dường tất cả những nhu cầu sinh hoạt cần thiết trong ba tháng an cư". Sau khi suy nghĩ, Trưởng giả đến gặp Phật lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Phật dùng các phương tiện giảng thuyết pháp yếu, chỉ dạy làm cho lợi ích hoan hỷ. Sau khi thuyết pháp, đức Phật yên lặng.

 

Khi ấy Thiên Phận rời khỏi chỗ ngồi, bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Cầu xin Ngài từ bi thương xót nhận cho con được cúng dường ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược trong ba tháng an cư.

 

Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh của ông ta.

 

Thấy Phật đã nhận lời, Trưởng giả lạy sát chân Phật từ giã. Quốc vương Hữu thân nghe đức Tỳ bát thi Như Lai cùng đại chúng đến nước mình đang ở trong rừng, nên suy nghĩ: "Ta tuy thường thỉnh Phật và tăng vào cung cúng dường, nhưng chưa cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư. Nay ta muốn thỉnh Phật và tăng cúng dường ba tháng". Nhà vua đến gặp đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Phật thuyết pháp vi diệu cho nhà vua, làm cho lợi ích hoan hỷ, sau đó im lặng. Nhà vua đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Phật:

 

- Con tuy thường thỉnh Phật và Tăng vào cung thọ trai, nhưng chưa cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư. Cầu mong Thế Tôn và các đại chúng thương xót nhận lời con được cúng dường đầy đủ tứ sự trong ba tháng.

 

Phật dạy:

 

- Đại vương! Ta đã nhận lời thỉnh cúng dường ba tháng của trưởng giả Thiên Phận.

 

Vua nói:

 

- Nếu Phật không nhận lời vì thọ sự cúng dường của Thiên Phận, con xin bàn bạc lại, chắc ông ta đồng ý.

 

Phật dạy:

 

- Nếu ông ta đồng ý, Ta sẽ thọ thỉnh.

 

Vua nghe Phật dạy, lạy sát chân từ giã. Sau khi về cung, nhà vua liền sai sứ giả đến triệu Trưởng giả Thiên Phận. Khi trưởng giả đến, nhà vua bảo:

 

- Trưởng giả! Ông biết không, ta muốn thỉnh Phật và Tăng để chính mình cúng dường trước, ông sẽ cúng lần sau; việc này cũng không muộn.

 

Đáp:

 

- Đại vương, thần đã thỉnh Phật và Tăng trước rồi, đã có ý này xin nguyện được phép không làm trái lại.

 

Vua nói:

 

- Trưởng giả, tuy là như vậy, nhưng ông là người trong nước của ta, đem lý ra cân nhắc thì nên nhường ta trước.

 

Trưởng giả tâu:

 

- Đại vương, tuy thần là người của vua, nhưng xét cạn lý thì thần thỉnh trước, nếu vua cố ép thì trái với đạo nghĩa.

 

Vua nói:

 

- Trưởng giả! Không do ham muốn nên được toại ý, nhưng trẫm cùng trưởng giả thiết cúng cách nhật, nếu người nào làm thức ăn ngon hơn thì họ tùy ý được thỉnh nữa.

 

Trưởng giả thưa:

 

- Xin vâng.

 

Ngay đêm ấy, trưởng giả liền chuẩn bị các món ăn uống thượng hạng thơm ngon đặc biệt.Vào buổi sáng, tại nơi thiết trai, Trưởng giả dùng bình lớn chứa nhiều nước sạch, sai người đến bạch Phật:

 

- Thức ăn đã dọn xong, xin Ngài biết thời gian.

 

Vào sáng sớm, đức Phật Tỳ Bát Thi mặc y mang bát cùng Tăng chúng tùy tùng đến nhà trưởng giả Thiên Phận, an tọa vào nơi dọn tiệc trai. Sau khi thấy đức Phật an tọa, Trưởng giả tự tay dâng các loại cúng dường lên Phật và chúng Tăng, ân cần tiếp đãi như vậy, khi biết mọi người đã no đủ, dâng tăm xỉa răng, nước súc miệng và thu xếp bát xong, đặt một chiếu nhỏ ngồi trước Phật để nghe pháp. Thế Tôn tùy theo căn cơ, thuyết pháp vi diệu làm cho Trưởng giả được lợi ích hoan hỷ, sau đó từ giã. Đến lượt nhà vua thiết cúng, cũng bày biện các món cúng dường như trước ... cho đến từ giã. Như vậy, họ luân phiên cúng dường không có ai hơn kém cả. Nhà vua thấy sự việc như vậy nên chống tay lên mặt buồn rầu. Thấy sắc diện vua ưu buồn, các đại thần tâu:

 

- Vì sao đại vương có sắc buồn như vậy?

 

Đáp:

 

- Hiện nay làm sao ta không buồn được, người khách trong nước của ta cúng dường Phật và Tăng mà ta không hơn được nên lo buồn.

 

Đại thần tâu:

 

- Nhà của Trưởng giả Thiên Phận không có củi, phải mua để nấu ăn. Vậy ta không cho người bán củi bán cho họ thì làm sao họ nấu thức ăn được.

 

Nhà vua ra lệnh:

 

- Những người trong nước không được bán củi cỏ. Ai vi phạm bị đưa ra khỏi nước.

 

Đến ngày cúng dường tìm không có củi để nấu thức ăn, Trưởng giả liền dùng gỗ thơm chiên đàn trong nhà để thổi lửa bếp, lại dùng dầu thơm thoa lên vải để nấu thức ăn, do đó, mùi thơm bay khắp cả thành.

 

Nhà vua lấy làm lạ hỏi:

 

- Vì sao hôm nay có mùi thơm tỏa khắp khác với ngày thường, từ đâu bay đến vậy?

 

Mọi người đem sự việc tâu lên vua.

 

Nhà vua nói:

 

- Ta không thể bỏ việc này .

 

Đại thần can gián:

 

- Đại vương vì sao phải làm như vậy, Trưởng giả không có con, sau khi qua đời tài vật đều thuộc về ngài, được như vậy tùy ý xử dụng. Nay nhà vua nên thu hồi lệnh cấm bán củi, cho phép họ bán lại.

 

Trưởng giả nghe nhà vua cho phép bán củi, nên tức giận nói ra lời ác:

 

- Theo số gỗ thơm hiện có trong nhà ta, khiến cho thiêu đốt vua cùng mẹ trong một chỗ.

 

Sau đó vào ngày khác, vua lại ưu sầu, quần thần thưa hỏi, vua đáp như trước.Quần thần tâu:

 

- Xin chớ lo buồn, thần sẽ có cách làm cho Trưởng giả cúng dường không bằng đại vương.

 

Vào ngày vua tổ chức cúng dường, trong nội thành, các đại thần liền dọn sạch gạch đá, quét dọn các nẻo đường, rưới nước thơm, xông hương thơm, treo tràng phan cờ lọng khắp nơi, rãi các loại hoa đẹp trên đất, trang trí rất hài lòng như ở vườn Hoan hỷ, thứ đến làm nhà ăn to lớn tráng lệ, bố trí chỗ ngồi ăn với nghi vệ quý báu trang nghiêm, treo tua vải rực rỡ che trên chỗ ngồi, thoa dầu thơm bột thơm vào chỗ đã lau chùi, dọn thức ăn mềm mại như cam lộ cõi trời, các loại mỹ vị thơm ngon hơn cả trân tu ở thế gian, để cung kính dâng lên cúng Phật và tăng. Khi ấy, các đại thần cùng tâu lên vua:

 

- Chúng thần cùng nhau hết sức trang hoàng thành phố, dọn thức ăn thịnh soạn như vậy, đại vương nên phát tâm vui mừng.

 

Sau khi đích thân xem xét, vua cho là rất hiếm có, liền sai sứ đến gặp Thế Tôn, bạch:

 

- Bữa ăn đã dọn xong, xin Phật định liệu.

 

Đức Phật và các Tỳ kheo mặc y mang bát đi đến vương cung, vào chỗ trai diên an tọa. Nhà vua ra lệnh cho voi lớn quán đảnh cầm lọng có trăm nan che trên đức Phật Thế Tôn. Ngoài ra, các voi khác đều cầm từng lọng che trên Bí-sô. Đại phu nhân của nước cầm quạt báu quạt mát cho Phật. Những người trong cung quạt cho các Bí-sô. Đích thân vua và đại thần bưng các thứ cúng dường dâng lên Phật và Tăng ... như nói ở trên. Khi ấy, Trưởng giả Thiên Phận sai gia nhân:

 

- Ngươi hãy đến chỗ nhà vua thiết cúng, lén xem thức ăn uống ngon dỡ thế nào.

 

Sứ giả đến thấy sự thịnh soạn của bữa tiệc nên quên cả về. Sứ giả thứ hai, thứ ba cũng vậy.Bấy giờ, Trưởng giả đích thân đến xem, thấy sự thịnh soạn của bữa tiệc nên lấy làm hy hữu, suy nghĩ: "những thức cúng dường thơm ngon này, sức ta có thể làm được, nhưng voi và cung nhân thì ta làm sao có được!" Sau khi suy nghĩ, Trưởng giả về nhà, bảo người giữ cửa:

 

- Nếu thấy người ăn xin nào đến, cần gì thì giúp nhưng không cho vào nhà. Trưởng giả vào phòng, ưu sầu buồn bã. Khi ấy, Thiên Đế Thích thường dùng thiên nhãn quán sát thế gian, thấy Trưởng giả Thiên Phận đang ưu sầu ở trong phòng, xét biết tâm niệm ông ta nên suy nghĩ: "Đức Phật là ruộng phước số một trong thế gian, Thiên Phận là đại thí chủ đứng đầu, ta nên tương trợ cho ông ấy". Đế Thích hóa ra một vị Bà-la-môn, đến nhà Trưởng giả, bảo người giữ cửa:

 

- Ngươi hãy đi báo với Trưởng giả, có đại Bà-la-môn giòng Kiều Thi Ca đang ở ngoài cửa cần gặp trưởng giả.

 

Người giữ cửa bảo:

 

- Trưởng giả bảo tôi canh giữ cửa này, thấy người đến xin, cần gì thì cho nhưng không cho vào; cần gì tôi sẽ cho, tùy ý mang đi, phiền gì phải gặp cho được trưởng giả?

 

Người kia đáp:

 

- Tôi không xin gì cả nhưng có chuyện cần phải gặp Trưởng giả.

 

Sứ giả vào thưa:

 

- Bên ngoài có đại Bà-la-môn giòng Kiều Thi Ca nói, không xin gì cả chỉ cần gặp Trưởng giả.

 

Trưởng giả nói:

 

- Hãy bảo người ấy muốn gì thì tùy ý cho mang đi, cần gì phải cố gặp ta?

 

Thưa:

 

- Đúng như lời ngài đã dạy, con đã bảo họ rồi, nhưng họ nói có việc cần thiết muốn gặp Trưởng giả.

 

- Nếu vậy, hãy cho họ vào.

 

Sau khi được người giữ cửa đưa vào, Bà-la-môn thấy Trưởng giả ưu sầu nên hỏi:

 

- Vì sao ngài chống tay lên má dáng điệu ưu sầu như vậy?

 

Trưởng giả nghe hỏi, nói kệ đáp:

 

    Ai giải tỏa được buồn,

    Mới nói chuyện với họ

    Họ không xóa hết buồn

    Nói với họ làm gì?

 

Thiên Đế Thích hỏi:

 

- Trưởng giả có việc gì buồn, tôi có phương pháp giải buồn được.

 

Trưởng giả liền kể lại sự việc xảy ra, Thiên Đế Thích hiện lại nguyên hình, bảo Trưởng giả:

 

- Ta sai Xảo Diệu Thiên ở trên đến đây giúp đỡ.

 

Nói xong,Thiên Đế Thích biến mất. Về đến thiên cung, Thiên đế bảo Xảo Diệu Thiên:

 

- Ông hãy đến Thiệm Bộ Châu, giúp đỡ cho Trưởng giả Thiên Phận.

 

Đáp:

 

- Lành thay!

 

Vào sáng sớm, Xảo Diệu Thiên đến thành ấy, tùy ý biến hóa trang hoàng đường sá với sự kỳ lạ siêu tuyệt, các loại trang sức hơn cả của vua, nhà ăn tọa cụ khéo léo đẹp như cõi trời, thức ăn uống đều nấu từ bếp trời, sai voi lớn cầm lọng có trăm nan che hầu đức Phật Tỳ Bát Thi, các voi khác cầm lọng hầu các Bí-sô, trong nhà thiên nữ cầm quạt mát đức Phật, các thiên nữ khác cầm quạt hầu chúng Bí-sô. Nhà vua cũng sai sứ giả lén đến quan sát, xem Trưởng giả cúng dường như thế nào. Sứ giả đến thấy sự việc kỳ lạ đặc biệt như vậy nên quên cả về. Vua sai đại thần, rồi cũng như vậy. Đến lượt thái tử cũng không trở về. Nhà vua quái lạ việc này nên tự đến cửa nhà Trưởng giả. Thế Tôn thấy vua đến, bảo với Trưởng giả:

 

- Đây là vị vua đã thấy chân đế, ông đã nói lời thô ác với vị ấy. Vua đang ở ngoài cửa, ông hãy ra xin lỗi.

 

Trưởng giả liền ra ngoài xin lỗi vua, tâu:

 

- Đại vương, xin thỉnh ngài tạm vào nhà, tự tay cúng dường.

 

Vua vào nhà, thấy bếp trời nấu món thượng diệu nên rất lấy làm hy hữu, bảo với Trưởng giả:

 

- Từ nay ngài có thể cúng Phật và Tăng hằng ngày, chẳng phải là việc mong cầu của trẫm.

 

Sau khi cúng dường Phật và Tăng với các thức ăn thịnh soạn như vậy, Trưởng giả đảnh lễ sát chân Phậtphát nguyện:

 

- Con cúng dường phước điền tối thượng, nguyện nhờ thắng duyên này, trong đời tương lai con thường được sinh vào nhà đại phú quý, tài sản sung túc hưởng thụ diệu tướng cõi trời, nhận được pháp thù thắng, thoát khỏi triền cái. Con sẽ thừa sự bậc Đại sư Như thị, tâm không nhàm chán.

 

- Này các Bí-sô chớ có ý hoang mang, trưởng giả Thiên Phận thời ấy, nay chính là Hỏa Sinh. Do nói lời thô ác với nhà vua kia: "Đem lửa chiên đàn đốt cả mẹ con", với sức nghiệp này nên bị đốt chung với mẹ trong năm trăm đời. Nhờ thiện nghiệp cúng dường lên Phật Tỳ Bát Thi và phát nguyện nên thường được sinh trong nhà đại phúù quý, tài sản vô số, các diệu tướng cõi trời tự nhiên xuất hiện, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ta, đoạn trừ hết phiền não, chứng quả A-la-hán.

 

- Này các Bí-sô, thần thông đạo lực của Ta cùng với Phật Tỳ-Bát-Thi bình đẳng nhau. Ai đối với Ta cúng dường thừa sự với tâm ân cần, tất đạt được kết quả thù thắng. Như vậy nên biết rằng, nếu gây nghiệp hoàn toàn đen thì bị quả báo thuần đen ... rộng như nói ở trên.

 

Các Bí-sô nghe lời Phật dạy, tín thọ phụng hành.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ ba trong biệt môn thứ nhất:

 

    Chuyết bát súc tư cụ

    Đao tử cập châm đồng

    Tinh y trinh hữu tam

    Thị đại tiên khai hứa.

 

* Một thời Phật ở thành Thất La Phiệt. Bát bị nứt, Bí-sô đem đến thợ thiết, bảo:

 

- Hiền thủ, bát tôi bị nứt, xin vá lại cho tôi.

 

Người thợ thiết suy nghĩ: "Những đệ tử của Thích Ca đều ở không, chẳng trả tiền chỉ muốn sai làm giùm. Nếu ta làm, thì họ lại tiếp tục đến nữa, làm cho họ mãi, tất công việc của ta bị bỏ bê, chẳng biết lúc nào xong,vậy ta hãy kéo dài thời gian". Nghĩ vậy, người thợ nói:

 

- Thánh giả, tôi đang bận, ngày mai hãy đến.

 

Ngày mai Bí-sô đến, thợ lại bảo ngày sau, hoặc sáng hoặc chiều ... ngày nào cũng như vậy, cố ý dối trá để kéo dài thời gian làm cho Bí-sô mệt nhọc. Có Bí-sô bạn thấy vậy hỏi:

 

- Cụ thọ, hằng ngày thấy thầy đến nhà này, có phải họ là môn đồ hay quen thân với thầy không?

 

Đáp:

 

- Đại đức! Nhà này không phải là môn đồ hay là người quen thân của tôi. Tôi có bát nứt nhờ họ sửa chữa, họ tìm cách gạt tôi, nên phải thường đến đây.

 

Đáp:

 

- Cụ thọ, thầy không nghe lời tục nói hay sao,thợ trẻ giỏi khéo, khó nói lời thật. Nhưng tôi biết làm, nếu Phật cho phép tôi sẽ vá lại cho ngài.

 

Họ đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nào biết làm, nên vá bát vị ấy ở chỗ khuất, nếu có người thấy cũng không sinh hiềm khích.

 

Khi Bí-sô ấy được Phật cho phép liền tìm đến gặp Bí-sô biết làm kia, nói:

 

- Đại đức, Thế Tôn đã cho phép được tự vá bát, xin thầy hãy làm cho tôi.

 

Vị kia đáp:

 

- Cụ thọ, chẳng lẽ dùng ngón tay tôi vá bát hay sao, hãy chờ tôi làm dụng cụ rồi mới vá. Họ đem sự việc bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Vì việc này, từ nay Ta cho phép tăng già được chứa sắt để làm dụng cụ. Ai cần, có thể mượn lấy dùng, làm xong trả lại.

 

* Duyên khởi ở thành Thất La Phiệt. Các Bí-sô muốn may ba y, dùng tay xé nên vải may y bị hư, họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên dùng tay xé vải, hãy cắt bằng dao nhỏ. Sau khi Phật cho phép, có những Bí-sô muốn cắt y, đến nhà thế tục bảo cư sĩ:

 

- Tôi cần dao nhỏ để cắt y.

 

Đáp:

 

- Xin mang đi. Sau khi dùng xong, Bí-sô trả lại chủ cũ.

 

Họ bảo:

 

- Vật này đã cúng cho ngài.

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép nhận.

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta cho phép Bí-sô được nhận cất dao nhỏ.

 

Thấy Phật đã cho phép, lục chúng Bí-sô liền dùng vàng bạc lưu ly pha lê các báu vật với nhiều màu sắc, nhiều loại trân kỳ để trang sức cán dao. Những người thế tục thấy vậy hỏi:

 

- Thánh giả, đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn cho giữ dao nhỏ.

 

Họ nói:

 

- Quý vị còn có sự tham muốn trói buộc tâm hay sao?

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được dùng vàng bạc pha lê các báu vật nhiều màu sắc, những loại trân kỳ để trang sức cán dao. Ai cần dao nhỏ chỉ được dùng cán sắt.

 

Họ liền làm dao dài lớn. Người tục lại hỏi:

 

- Đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Đây là dao nhỏ, Thế Tôn cho phép dùng.

 

- Thánh giả, đây là dao lớn, không phải dao nhỏ.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được giữ dao dài.

 

Họ lại làm dao quá nhỏ không thể cắt được vật. Phật dạy:

 

- Các ông nên biết, có ba loại dao là lớn trung nhỏ. Loại lớn dài sáu ngón tay; loại nhỏ dài bốn ngón, loại trung giữa hai loại trên. Hình dáng có hai:

 

    Một: Cong như lông quạ;

    Hai: Như lông cánh gà, không nên làm mũi nhọn.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Khi các Bí-sô may ba y, dùng trúc hay cuống lông chim để xỏ, nên y bị hư rách. Phật dạy:

 

- Nên dùng kim. Lục chúng dùng vàng bạc lưu ly pha lê các loại quý báu để làm kim. Người thế tục thấy vậy hỏi:

 

- Đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Phật cho phép giữ kim. Họ nói: "Sa môn Thích tử bị tham muốn trói tâm". Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên dùng vàng ... để làm kim. Kim có bốn loại là đồng, sắt, thâu thạch và đồng đỏ. Bí-sô dùng kim tùy theo chỗ để, bị sét.

 

Phật dạy:

 

- Nên dùng ống đựng kim. Bí-sô không hiểu phải dùng ống như thế nào. Phật dạy:

 

- Có hai loại ống kim. Một là ống rút ra được; Hai là ống trúc. Ở đây cho phép dùng ống, đối với hai loại dao trên nếu sợ sét thì đặt vào ống cũng được.

 

* Duyên xứ ở thành Thất La Phiệt, Phật cho phép Bí-sô làm Tăng-già-chi. Các Bí-sô trải nhiều vải trên đất, phần nhiều bị thức ăn của côn trùng làm dơ bẩn; đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên để trên đất, hãy làm trụ phơi y.

 

Bí-sô không biết làm trụ như thế nào, bạch Phật. Phật dạy:

 

- Có hai loại trụ là gỗ hay tre, giăng y ở trên.

 

Kéo qua lại, tre làm rách y. Phật dạy:

 

- Trước hết khoan lỗ, sau đó xỏ dây cột giăng vào bên trên. Như Phật dạy có ba loại y là: Thượng, trung, hạ. Y thượng đặt vừa trên trụ cao, hai y trung hạ không tương xứng. Phật dạy:

 

- Nên làm ba loại trụ, lớn nhỏ tùy theo y.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ tư trong biệt môn thứ nhất:

 

    Chiếu cảnh tinh giám thủy

    Bất ưng dụng sơ loát

    Đảnh thượng lưu trường phát

    Dục thất lật cô tỳ.

 

* Tại thành Thất La Phiệt. Sáng sớm, Lục chúng Bí-sô mặc y mang bát vào thành khất thực. Những người thế tục đang bày những vật để trang điểm trong rương ra. Thấy vậy, Lục chúng liền lấy gương để soi mặt. Nan-đà, Ô Ba Nan Đà bảo nhau: "Ta thật đẹp trai". Người thế tục thấy vậy, không vừa ý, nói:

 

- Thánh giả trên đầu không tóc dưới nách lông dài, vậy đẹp ở chỗ nào?

 

Họ đành im lặng, Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên soi gương. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật dạy không nên soi gương, họ soi vào nước, cũng bị chê cười. Phật dạy:

 

- Không nên dùng nước để soi mặt.

 

Khi Bí-sô xem trùng trong nước, thấy mặt mình nên có tâm xấu hổ. Phật dạy:

 

- Xem xét nước thấy mặt không phạm, chớ nghi ngại. Nếu xem mụt ghẻ, hay xem hình dáng già trẻ so với trước đây, soi gương không có lỗi.

 

* Duyên xứ như trước, Lục chúng khất thực, thấy dụng cụ trang sức trong nhà thế tục, liền lấy lược chải tóc trên đầu, hỏi nhau có đẹp không. Người thế tục thấy vậy, chê cười như trước. Họ đành im lặng; đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên chải đầu, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Bí-sô dùng bàn chải cũng bị lỗi như trước. Phật dạy:

 

- Ai dùng bị tội vượt pháp.

 

Bí-sô dùng cả lược và bàn chải. Phật dạy:

 

- Bị tội như trước.

 

* Duyên xứ như trước. Sau khi trải vàng để mua rừng Thệ-đa dâng lên Phật và Tăng, một hôm Trưởng giả Cấp Cô Độc sai thợ cạo đến chùa cạo tóc cho chư Tăng. Thấy người ấy đến, Lục chúng hỏi:

 

- Ngươi có thể cạo tóc nhưng chừa lại một phần trên đầu không?

 

Đáp:

 

- Đó là nghề của con.

 

Lục chúng bảo để lại phần tóc lớn, lại bảo cạo bớt một phần, rồi hai, ba, bốn, năm, cho đến tám phần, sau đó lại nói:

 

- Này kẻ ngu si, chẳng hiểu gì cả, hãy cạo sạch hết đi, rồi cho ngươi về.

 

Chiều tối, thấy người ấy mới về, Trưởng giả hỏi:

 

- Ngươi cạo tóc được bao nhiêu người?

 

Đáp:

 

- Không có rảnh để cạo, Ô Ba Nan Đà bảo làm vòng tóc trên đầu.v.v ... mãi đến chiều tối mới cho về.

 

Trưởng giả nghe vậy, không vừa ý chê trách.Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên mang vòng tóc trên đầu. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước, cụ thọ Ngưu Ngọa ở trong hang Trư Khảm, vườn vua Xuất Quang, núi Thủy Lâm, nước Kiêu-Thiểm Tỳ. Sau đó, trong tháng mùa xuân, rừng cây tươi tốt, các loại chim như ngỗng, nhạn, uyên ương, oanh vũ, xá lị, công ... hót hay vang lừng trong các vườn rừng, nên vua Xuất Quang ra lệnh người giữ vườn:

 

- Ngươi hãy sửa sang cây cỏ trong núi Thủy Lâm, dọn dẹp gạch ngói, bố trí nhiều nước sạch,cắt người hộ vệ, ta muốn đến rừng du ngoạn một lúc.

 

Người kia tuân theo lệnh vua, làm hết các việc, sau đó trở lại tâu lên cho vua:

 

- Thần đã làm hoàn tất theo lệnh của đại vương, xin ngài biết thời gian.

 

Nhà vua liền đưa những người trong cung làm tùy tùng, đi đến rừng du ngoạn đến lúc mệt nhọc, nằm ngủ. Những người trong cung tính ưa thích hoa quả, nên đi tìm khắp nơi trong rừng. Khi ấy, Bí-sô Ngưu Ngọa râu tóc quá dài, y trên rách nát, y dưới dơ bẩn, đang ngồi kiết già dưới gốc cây. Vừa thấy Tôn giả, các cung nhân đều kinh hoàng. kêu lớn: "Có quỷ! có quỷ!". Nghe vậy, Bí-sô liền vào trong hang. Nghe tiếng kêu, nhà vua giật mình thức dậy, rút kiếm chạy tới, hỏi cung nhân:

 

- Quỷ ở đâu?

 

Đáp:

 

- Đã chạy vào hang Trư Khảm .

 

Nghe xong nhà vua đi đến hang, cầm kiếm, hỏi:

 

- Ngươi là vật gì?

 

Đáp:

 

- Tôi là Sa-môn.

 

Vua hỏi:

 

- Là Sa-môn gì?

 

Đáp:

 

- Đệ tử đức Thích Ca.

 

Hỏi:

 

- Người đã chứng A-la-hán phải không?

 

Đáp:

 

- Chưa đắc.

 

- Người đắc Bất-hoàn, Nhất-lai, Dự lưu quả phải không?

 

Đáp:

 

- Không đắc.

 

- Hãy gác việc ấy lại. Người đã đắc định thứ nhất đến định thứ tư?

 

Đáp:

 

- Chưa đắc.

 

Nghe xong, nhà vua rất tức giận, bảo với đại thần:

 

- Đây là kẻ phàm tục xâm phạm cung nữ của ta. Hãy đem kiến bỏ đầy hang để chúng cắn thân hắn.

 

Khi ấy, có Thiên thần cựu trú ở gần hang, nghe vậy, nên suy nghĩ: "Đây là thiện Sa-môn đến đây nhờ ta, ngài không vi phạm gì cả, chỉ sống thiểu dục, vua ác phi pháp muốn gây hại một cách oan uổng. Ta hãy tạo điều kiện giúp đỡ". Thiên thần liền biến thành một con heo lớn, từ trong hang chạy ra. Thấy heo, nhà vua bảo đại thần:

 

- Hãy dắt ngựa và mang cung tên lại đây.

 

Đại thần vâng lệnh giao cho vua.

 

Khi con heo chạy nhanh ra ngoài khu vườn, nhà vua vội chạy theo sau. Bấy giờ, có cung nữ kia bảo Bí-sô:

 

- Thánh giả hãy đi đi, nhà vua rất bạo ác, có thể hại ngài.

 

Bí-sô ấy vội mang y bát đi nhanh đến thành Thất La Phạt. Khi các Bí-sô khác trông thấy, chào hỏi:

 

- Kính chào cụ thọ, lâu đã không gặp, ngài từ đâu đến?

 

Đáp:

 

- Tôi trú ở Kiêu Thiểm Tỳ đến đây.

 

- Ngài sống có an lạc không?

 

Đáp:

 

- Nào có an lạc gì, sắp bị quốc vương giết hại.

 

Hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Vị này kể lại sự việc vừa rồi. Các Bí-sô đem sự việc bạch phật. Phật bảo một Bí-sô:

 

- Thầy hãy đến gặp Bí-sô Ngưu Ngọa và bảo: - Thế Tôn gọi thầy.

 

Vâng lệnh Phật, vị này đến gặp Ngưu Ngọa, truyền lệnh Phật. Nghe lệnh, vị này đến gặp Phật, sau khi lễ kính đứng qua một bên. Thế Tôn bảo:

 

- Này Bí-sô có phải thầy đã làm hình dáng xấu xa phi pháp như vậy phải không?

 

Đáp:

 

- Bạch Đại đức, đúng vậy.

 

- Ngươi thật là người ngu nên bị tâm tham luyến yêu thích trói buộc vào chỗ hang kia.

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Để tóc dài có những lỗi như vậy, nên các ông không được để tóc dài, ai không cắt tóc bị tội vượt pháp.

 

Như lời Phật dạy Bí-sô không được để tóc dài, có Bí-sô sống ở A Lan Nhã không có người cắt tóc, nên vứt bỏ hết ngọa cụ, đến sống gần tụ lạc. Đức Phật biết vậy nên hỏi A-Nan-Đà:

 

- Vì sao lan nhã Bí-sô bỏ trú xứ kia để đến sống gần tụ lạc?

 

A Nan Đà bạch Phật:

 

- Như Phật chế định, Bí-sô không nên để tóc dài.

 

Phật dạy:

 

- Nay Ta khai cho, lan nhã Bí-sô được để tóc dài bằng hai lóng tay; người sống ở làng xóm thì để tóc ngắn hơn.

 

* Duyên xứ như trước, có Bí-sô bị bệnh, đến gặp y sĩ, nói:

 

- Hiền thủ, tôi có bệnh xin ngài điều trị.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, nên làm phòng tắm, tắm rửa thân hình sạch sẽ thì bình phục.

 

- Này hiền thủ, lẽ nào tôi lại hưởng thụ dục lạc như thế tục hay sao?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, ngoài cách này ra, không thuốc nào chữa được.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu y sĩ bảo cần làm phòng tắm để trừ bệnh ấy, không còn cách khác, thì Ta khai cho phép vào phòng tắm.

 

Phật cho phép làm phòng tắm, Bí-sô trở lại nói với y sĩ:

 

- Phòng tắm trừ bệnh có hình thức thế nào?

 

Y sĩ đáp:

 

- Tôi từng đọc phương thuốc của Luân vương, trong ấy dạy phòng tắm có thể trừ được bệnh ấy, tôi không biết hình thức nó thế nào. Nhưng Đại sư của thầy đủ Nhất thiết trí, hãy đến hỏi Ngài và làm theo.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên làm như phòng tắm.

 

Họ làm phòng tắm trong chật ngoài rộng. Phật dạy:

 

- Không được làm như vậy, cách làm phòng tắm là trong rộng ngoài hẹp, hình như trái bầu.

 

Bên trong bị khói mịt mù không thoát được. Phật dạy:

 

- Nên làm cửa sổ để khói thoát ra.

 

Họ làm cửa sổ quá thấp gần, nên khói vẫn không thoát ra. Phật dạy:

 

- Không nên làm quá thấp.

 

Họ lại làm quá cao nên ít ánh sáng. Phật dạy:

 

- Không nên làm quá cao hay quá thấp, nên làm vừa ở giữa.

 

Có chim, quạ tu hú, bồ câu bay vào phòng. Phật dạy:

 

- Nên làm song ngăn cách, khi bị gió mưa tạt vào nên làm cánh cửa. Gió thổi bật cửa, nên làm chốt cửa. Nếu khó mở đóng, nên làm cây chống như móng chân dê để đóng mở.

 

Phòng không có cửa, Phật dạy:

 

- Nên lắp cửa, làm chốt ngang và khóa.

 

Trong phòng tắm, bình nước để dưới đất làm nước bị lạnh không thể dùng được, Phật dạy:

 

- Trong phòng tắm, hai bên nên bố trí kệ, đặt bình nước lên trên, không quá cao không quá thấp, vừa bằng đến gối.

 

Đốt lửa trên đất làm tổn hại đất, Phật dạy:

 

- Không nên đốt trên đất, nên lót gạch đá trên đất.

 

Khi lửa đang cháy rực, Bí-sô vào phòng, bị ngất, Phật dạy:

 

- Khi lửa đang cháy rực, không nên vào, đợi lửa bớt cháy rồi hãy vào tùy ý.

 

Họ phân tán lửa ra, làm lửa mau tắt, Phật dạy:

 

- Nên gom lại một chỗ.

 

Họ không biết lấy vật gì gom lửa lại, Phật dạy:

 

- Nên dùng xẻng sắt.

 

Khi Bí-sô trúng lửa bị ngất, nên dùng ít dầu man thanh tử trộn lương khô bỏ vào lửa, thì tỉnh dậy. Có mùi hôi, Phật dạy:

 

- Nên đốt hương.

 

Bị chảy nước mắt, Phật dạy:

 

- Dùng cục lương khô chặm. Vẫn không hết, dùng vụn dư cam tử thấm ướt làm viên nhỏ để chặm nước mắt.

 

Trong phòng không có phản để ngồi, mỗi người tự mang lại bị dầu làm nhơ bẩn, Phật dạy:

 

- Dùng cỏ lót vào.

 

Chân đi trên đất bị bùn làm dơ nhớp, Phật dạy:

 

- Nên trải cỏ.

 

Họ dùng cỏ khô nên bị cháy, Phật dạy:

 

- Nên trải cỏ xanh.

 

Cỏ xanh khó tìm, Phật dạy:

 

- Nên nhúng cỏ khô cho ướt.

 

Bí-sô thoa dầu toàn thân nên bị lác, dùng gạch đá móng tay gải làm trầy da, Phật dạy:

 

- Bị lác không được dùng móng tay cào, nên dùng đá nổi.

 

Họ dùng đá nổi bén nên bị lỗi như trước, Phật dạy:

 

- Nên mài mất chỗ bén, sau đó mới dùng.

 

Họ dùng rồi vứt bừa bãi nên bị thất lạc, Phật dạy:

 

- Không được vứt bừa bãi làm mất, nên dùng dây treo móc lên ngà voi hay trên cọc .

 

Đá nổi dính mồ hôi dầu nhớp nên phải thường tẩy bằng nước. Phật dạy:

 

- Không nên tẩy bằng nước, nên bỏ vào lửa.

 

Nhiều người ra vào làm cho phòng bị trống lạnh, Phật dạy:

 

- Ra vào phải đóng cửa, nên sai một Bí-sô giữ cửa.

 

Các Bí-sô nói chuyện phiếm trong nhà tắm, Phật dạy:

 

- Không nên nói chuyện phiếm trong nhà tắm. Khi tắm giặt có hai nghi thức: Một nói đúng pháp; Hai im lặng như bậc Thánh.

 

Bí-sô tắm giặt trong phòng làm đọng bùn ẩm thấp, Phật dạy:

 

- Không nên dùng nước tắm giặt trong phòng, nên làm phòng tắm giặt riêng.

 

Trong phòng tắm lại có bùn,  Phật dạy:

 

- Dùng vật lát lên.

 

(Đây là chế độ phòng tắm ở phương Tây, dùng gạch xếp thành, hình dạng như chất lương thực, trên hẹp dưới rộng, chính giữa cao chừng một trượng, bên dưới rộng bảy tám thước Tàu, có mở cánh cửa một bên, trét tro bùn trong ngoài dày kín. Mặt sau bố trí một khám nhỏ, trong khám để tượng đá hay tượng đồng, sau khi tắm tượng xong, bưng để nơi khác. Sau đó người khác vào chí tâm cúng dường phát nguyện việc thường làm; sở phí không nhiều được phước vô cùng. Giữa để lò đất sâu chừng một thước. Khi tắm, đốt than hay củi trong lò này, xem lạnh ấm cho hợp thời tiết. Trong phòng đốt đèn, khói thông cửa sổ ra ngoài. Theo phép phương Tây đều tắm trước khi ăn, không giống ở phương này đói rửa, no tắm. Khi muốn tắm thì mặc quần tắm, vào phòng ngồi xổm một bên. Một lúc ra mồ hôi, lấy dầu thoa khắp thân, bảo người lau kỳ cọ, có thể trừ được các bệnh nặng cảm cúm bệnh lạnh bệnh gió, không cần dùng thuốc khác, chứ không phải chỉ dùng nước nóng để tắm cho sạch cáu bẩn thôi đâu. Sau đó, đi vào phòng riêng, dùng nước thuốc để tắm thân thể, đây là phép tắm theo Đế Thích. Phật dạy Bí-sô việc lạ chưa biết, sợ người xem không hiểu nên nhân đây chú thích ra, nếu không bệnh nên bỏ bớt, tùy lúc mà làm. Nhưng ở Trung Thiên Trúc nóng nên ít làm như vậy, những xứ lạnh ở phương Bắc đều làm.)

 

Bí-sô không biết dùng vật gì để lát, Phật dạy:

 

- Nên dùng gạch lát, hoặc rãi bằng cát.

 

Bị đọng nước. Phật dạy:

 

- Nên làm mương thoát nước.

 

Khi rót nước vào, người rót nước ở dưới, người tắm ở trên, nước văng làm bẩn y, Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, nên bảo người tắm ở dưới, người rót nước ở trên, khi tắm giặt nên dùng xỉ-mộc và tháo-đậu, phân bò, đất vụn.

 

Họ lấy ở nơi khác, Phật dạy:

 

- Nên dự trữ các vật này trong nhà tắm, không nên đi xa lấy.

 

Sau khi tắm rửa, thân thể bị suy nhược, Phật dạy:

 

- Nên ăn chút ít.

 

Tay dính dầu mồ hôi khó rửa sạch liền, nếu kéo dài thời gian rửa, sợ bị lỗi, Phật dạy:

 

- Nên dùng muỗng để ăn. Gặp cháo nóng cũng nên dùng muỗng.

 

Khi ăn cần muối, không có lá để nhận, Phật dạy:

 

- Nên chứa mâm đựng muối.

 

Phật bảo làm phòng tắm, không biết sai người nào làm; Phật dạy:

 

- Nên sai đệ tử môn nhân cùng làm, nếu có thí chủ cũng nên nhờ làm.

 

Khi tắm rửa,lau chùi thân thể cho nhau, Phật dạy:

 

- Khi vào phòng tắm nên đưa đệ tử vào, bảo họ lau chùi thân.

 

(Mâm đựng muối, phép ăn ở phương Tây, trước đưa muối dưới có gừng lát. Đây là Thánh giáo và phương này không giống nhau. Mâm vốn là để muối, hoặc để xem nước, nguyên vì không muốn ăn thịt chúng sinh (trùng). Luật dạy: - Ăn xong không đòi hỏi nữa.

 

Tăng tự cho rằng phải dùng mâm để lưu lại một phần lớn thức ăn, đem thí chúng sinh, giúp đỡ cho khỏi đói. Đây chỉ do sự sai lầm của người truyền)

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ.

 

Quyển thứ ba hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ tư

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo nhiếp tụng thứ tư trong biệt môn thứ nhất)

 

* Một thời, đức Phật ở thành Quảng Nghiêm.Trong thành này có Lật Cô Tỳ Tử (Licchavi) tên Thiện-Hiền, tánh tình chân thật, hành động chất trực, hằng ngày đều đến kính lễ Thế Tôn. Vào một lúc nọ, ông ta đang đi đến gặp Phật. Trong lúc giữa Bí-sô Thật Lực Tử và hai Bí-sô Hữu và Địa thường có oán đối nhiều đời. Hai Bí-sô Hữu và Địa du lịch trong nhân gian đi đến thành Quảng Nghiêm, trên đường bổng gặp Hiền Thiện, hỏi:

 

- Này Hiền Thiện, người đi đâu vậy?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, tôi muốn đến lễ Phật.

 

Hai người kia nói:

 

- Đến gặp Thế Tôn, phải nói lời cúng dường. Vậy người có lời nói thắng diệu nào để dâng lên Ngài không?

 

Đáp:

 

- Tôi chưa có.

 

- Này Thiện Hiền, người đến gặp đức Phật nên nói thế này: "Bí-sô Thật Lực Tử không biết xấu hổ, hành động phi pháp, hành dâm cùng vợ của con, làm việc bất tịnh hạnh phạm Ba-la-thị-ca". Thế Tôn nghe như vậy chắc chắn rất hoan hỷ.

 

Thiện Hiền nghe nói xong, đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, đứng qua một bên, bạch:

 

- Thế Tôn, Bí-sô Thật Lực Tử không có tàm quý, hành động phi pháp, cùng với vợ của con hành động dâm dục, làm việc phi tịnh hạnh, phạm Ba-la-thị-ca.

 

Sau khi nói như vậy, Thiện Hiền từ giã. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Lật-cô-tỳ-tử kia nói lời phỉ báng dối trá, hãy làm yết ma phú bát cho ông ta. Nếu có những trường hợp như vậy, cũng làm theo trình tự: - Trải tòa, đánh kiền chùy tuyên cáo, sau đó đại chúng tập họp, sai một Bí-sô tác pháp yết ma đơn bạch: "Đại đức Tăng già lắng nghe, Lật-cô-tỳ-tử Thiện-Hiền, dùng pháp Ba La Thị Ca không căn cứ vu báng Bí-sô thanh tịnh Thật Lực Tử. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng tác yết ma phú bát cho Thiện Hiền". Đây là lời tác bạch. Tăng tác yết ma phú bát xong, Bí-sô không được đến nhà người ấy, nếu có đến cũng không được ngồi vào chỗ, không được ăn uống, không được thuyết pháp cho họ.

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Thầy hãy đến chỗ ở của Thiện Hiền, bảo rằng Tăng già đã tác yết ma phú bát cho ông ấy.

 

Tôn giả A Nan Đà vâng lệnh Phật đến chỗ Thiện Hiền, gặp lúc không có ông ta ở nhà, nên hỏi người vợ:

 

- Ông Thiện Hiền đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Ông ấy có việc đi ra ngoài. Ngài cần gặp Thiện Hiền có việc gì?

 

- Nên biết rằng Tăng già đã tác yết ma phú bát cho gia đình bà.

 

Hỏi:

 

- Đại đức, yết ma phú bát là gì?

 

Đáp:

 

- Nếu gia đình người nào bị Tăng già tác yết ma phú bát thì các Bí-sô không được đến nhà người ấy, nếu có đến cũng không được ngồi, không được nhận thức ăn uống không được thuyết pháp.

 

Người phụ nữ nói:

 

- Đại đức! Căn cứ theo đây thì các Thánh chúng phát thẻ lập quy chế không được đi lại với chúng con. Con có lỗi gì mà bị phú bát?

 

Đáp:

 

- Đến gặp Phật, Thiện Hiền chồng bà đã nói: Bí-sô Thật Lực Tử không có xấu hổ, hành động phi pháp, cùng với vợ con hành động dâm dục, làm việc bất tịnh hạnh phạm Ba-la-thi-ca.

 

Người vợ nghe xong liền trở vào phòng, Tôn giả trở về.Sau khi xong việc, Thiện Hiền trở về nhà. Người vợ nói:

 

- Chàng có biết không, Thánh chúng đã tác yết ma phú bát cho chàng.

 

Đáp:

 

- Lành thay phú bát! Rất tốt phú bát!.

 

Người vợ hỏi:

 

- Chàng có biết phú bát là gì không?

 

Đáp:

 

- Không hiểu.

 

Người vợ nói:

 

- Ai bị Thánh chúng phú bát thì các Bí-sô không đến nhà người ấy, nếu đến cũng không được ngồi, không được ăn uống, không được nói pháp. Có phải chàng đã từng thấy Bí-sô Thật Lực Tử cùng với em làm việc phi pháp ở chỗ khuất phải không?

 

Đáp:

 

- Không thấy.

 

- Chàng hãy đến sám hối với Đại sư. Nếu bậc Đại từ tôn dung thứ cho thì tốt, như không dung thứ thì đừng bước vào nhà nữa.

 

Nghe xong, Thiện Hiền xấu hổ sợ hãi, đi ngay đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, chắp tay rạp sát đất bạch:

 

- Thế Tôn! Theo thường nguyện của con mỗi buổi sáng sau khi tắm rửa, đi đến lễ Đại sư, giữa đường con gặp hai Bí-sô Hữu và Địa. Họ hỏi con: - Ông đi đâu vậy? Con đáp: -Muốn đến gặp Phật để lễ kính. Họ hỏi con đến gặp Phật có lời tốt đẹp nào dâng lên Phật không, con đáp không có. Họ dạy con đến gặp Phật nên nói như thế này:- Thế Tôn, Bí-sô Thật Lực Tử không biết xấu hổ, có hành động phi pháp cùng vợ của con hành động dâm dục, làm việc phi phạm hạnh, phạm Ba-la-thị-ca. Lời nói ấy do hai vị kia dạy con nói, chẳng phải lỗi do con.

 

Khi ấy, Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Thiện Hiền phỉ báng nhưng vốn không phải do ý mình, vậy nên tác pháp ngưỡng bát yết ma cho ông ta. Nếu có trường hợp như vậy, nên tiến hành:- Trải tòa, đánh kiền chùy, báo cho cả chúng biết. Sau khi tăng tập họp, bảo Thiện Hiền đến trước Thượng tọa, ngồi xổm chắp tay thưa như sau: "Đại đức Tăng già lắng nghe, con là Thiện Hiền bị ác tri thức làm cho sai lầm nên đem việc không thật vu báng cho Thật Lực Tử .Vì vậy, Tăng già đã tác yết ma phú bát cho con. Nay con cầu xin Tăng già tác yết ma ngưỡng bát . Cầu xin đại đức Tăng già cho con pháp ngưỡng bát, xin từ mẫn con". (nói ba lần như vậy).

 

Sau đó đưa Thiện Hiền đến chỗ thấy nhưng không nghe chắp tay đứng, và sai một Bí-sô tác pháp đơn bạch yết ma: "Đại đức tăng già lắng nghe. Lật Cô Tỳ Tử Thiện Hiền kia bị ác tri thức làm cho sai lầm nên đem việc không thật vu báng cho cụ thọ Thật Lực Tử. Tăng già đã tác yết ma phú bát cho ông ta. Nay Thiện Hiền ấy cầu xin Tăng già tác yết ma ngưỡng bát". Đây là lời tác bạch.

 

Nếu Tăng già đã tác yết ma ngưỡng bát rồi, khi các Bí-sô đến nhà họ, được phép ngồi, nhận thức ăn và thuyết pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ năm trong biệt môn thứ nhất.

 

    Sinh chi diện như cảnh

    Bất vi ca vũ nhạc

    Hứa tác ca vịnh thanh

    Dụng bát hữu tứ chủng.

 

* Duyên xứ ở thành Thất La Phạt, có một Bí-sô chuyên tu tịch định nhưng khi đang ngồi kiết già sinh chi vẫn cương lên. Vào lúc khác,vị này theo thứ lớp khất thực, sau khi thọ trai thu xếp y bát, rửa sạch chân, dưới một gốc cây ngồi thẳng tư duy, đặt niệm trước mặt thì sinh chi cương lên. Bị dục làm phiền não nên vị này nổi sân, lấy sinh chi của mình đặt trên đá, rồi dùng đá đập nát. Quá đau đớn không thể chịu đựng được, vị này suy nghĩ: "Ta bị khổ não thiêu đốt tâm ý, Thế Tôn từ bi sao không thương tưởng đến? ".Khi ấy, từ xa biết rõ sự khổ não này, đi đến bên cạnh, đấng Chánh Biến Giác hỏi:

 

- Này Bí-sô thầy đã làm gì?

 

Vị này thưa lại đầy đủ. Phật dạy:

 

- Thầy há không nghe Ta dạy, khi Bí-sô sinh ý dục nhiễm nên quán bất tịnh thì ngăn chận dâm tình, vì sao thầy lại làm kẻ ngu si, cần đánh đập cái này lại đánh cái khác.

 

Bí-sô nghe như vậy, tàm quý im lặng. Nhân việc này, Phật dạy các Bí-sô:

 

- Chẳng phải trước đây Ta đã không dạy cho các thầy, khi tâm dục nhiễm phát sinh thì tu quán bất tịnh, khi tâm sân hận phát sinh thì tu quán từ bi, khi tâm ngu si phát sinh thì tu quán mười hai nhân duyên. Ai không tu tập pháp phải tu tập, không đánh điều cần phải đánh mà lại đánh đập điều khác thì bị tội vượt pháp.

 

Trong thành này có một Trưởng giả, cưới vợ chưa bao lâu, sinh được một con trai hình dung tuấn tú mọi người đều yêu mến, nuôi dưỡng thương yêu dần dần trưởng thành, xuất gia trong pháp luật của Phật. Vị này có duyên sự nên đi khỏi rừng Thệ Đa du hành trong nhân gian. Chẳng may trên mặt mọc mụt ghẻ, đi chữa trị gặp phải thầy thuốc không lành nghề dùng kim châm nên miệng vị này bị méo lệch. Khi du hành xong, trở về vườn Cấp cô độc, không được các vị quen biết cũ chào đón thăm hỏi, nên vị này hỏi:

 

- Đại đức, không biết tôi hay sao?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ, tôi không nhớ có quen, thầy là ai?

 

Vị kia kể lại các việc trước kia, tôi tên là ... Người kia kinh ngạc nói:

 

- Ngày trước mặt mày Thầy đoan chính, nay vì sao bị méo lệch.

 

Vị kia trình bày lại sự việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên giữ mặt như giữ gương sáng, không nên vô ý để thầy thuốc không giỏi châm chích. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật dạy:

 

- Không được để cho thầy thuốc dở trị bệnh, có Bí-sô đầu mặt bị nóng sốt, muốn chích bớt máu nóng trên trán nhưng không thể tìm được thầy thuốc bậc thượng.

 

Phật dạy:

 

- Nếu không có thầy thuốc bậc thượng thì nhờ thầy thuốc bậc trung lể máu ra.

 

Trong thành này có hai nhóm người kết bạn nhau, một nhóm thuộc hạng giao dịch, một nhóm là Bà-la-môn. Nhóm giao dịch giỏi ca múa hơn nhóm Bà-la-môn nhưng thua về chiến đấu.Vào một lúc nọ, nhóm Bà-la-môn bảo nhau:

 

- Nhóm giao dịch ca múa hay hơn chúng ta nhưng về chiến đấu ta hơn bọn ấy, bằng cách nào để chúng ta ca múa hơn bọn họ?

 

Có người bàn bạc:

 

- Nếu muốn thắng họ, chúng ta nên tập ca múa.

 

Họ lại bàn tiếp:

 

- Việc này thật hay, nhưng chúng ta nên học ca múa với ai?

 

Lại có người bàn:

 

- Nhóm Thánh giả sáu vị giỏi âm nhạc, về ca múa lại vượt hơn người khác. Chúng ta nên đến đó học nghề với họ, các vị ấy tham lam, tánh thích tài sản, nên cần gì thì chúng ta cung cấp.

 

Sau khi bàn luận, họ cùng nhau đến gặp Lục chúng, đảnh lễ sát chân thưa:

 

- Đại đức xin rũ lòng từ bi, dạy chúng tôi ca múa.

 

Lục chúng đáp:

 

- Nếu có cung cấp bánh trái thì ta sẽ dạy ngươi.

 

Họ nghe nói vậy nên thường cung cấp bánh, được Lục chúng dạy ca múa. Sau khi học giỏi, trong lúc hội hè, họ chiến đấu thắng nhóm kia. Nhóm giao dịch trổ tài ca múa cũng bị họ thắng luôn, nên nói:

 

- Xưa nay chúng ta ca múa hơn các vị, các vị chiến đấu thắng bọn ta, vì sao hôm nay các vị mạnh cả hai; việc này như thế nào?

 

Đáp:

 

- Vì chúng ta cố công học tập ca múa.

 

Hỏi:

 

- Ai dạy cho các vị?

 

Đáp:

 

- Thánh giả Lục chúng từ bi dạy cho chúng tôi.

 

Những người Bà-la-môn nghe vậy đều sinh tâm bất mãn khinh khi:

 

- Sa-môn Thích tử hành pháp trạo cử, ca múa đùa giỡn còn dạy cho người đời.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Do ca múa có những lỗi như vậy, cho nên Bí-sô không được học tập ca múa. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Khi Thế Tôn đã không cho phép học tập ca múa, có Bà-la-môn bị quên âm nhạc của họ, đến gặp Lục chúng cầu xin ôn lại cho họ. Lục chúng đáp:

 

- Thế Tôn chế giới không được ca múa.

 

Bà la môn bạch:

 

- Nếu như vậy, có thể lược bớt.

 

Lục chúng đáp:

 

- Ta sẽ lược bớt cho ngươi.

 

Đến chỗ những Bà-la-môn, họ lại dạy thay đổi lược bớt những phần có dụng cụ ca múa . Sau đó, khi hội họp phần trình diễn ca múa của Bà-la-môn không bằng bạn họ. Các Bà-la-môn đều sinh bất mãn chê bai:

 

- Sa-môn Thích tử ngầm gây sự tổn hại làm cho chúng ta bị thua.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được thay thế giảm bớt dụng cụ ca múa của người khác. Ai thay thế, bị tội vượt pháp.

 

Vào lúc khác, Bà-la-môn đến gặp Lục chúng, thưa:

 

- Xin dạy tôi nhạc hài hước.

 

Lục chúng không dạy. Họ thưa:

 

- Thánh giả! Nếu không thể dạy, chỉ xin ngài tạm có mặt nơi đó thì chúng tôi được thắng.

 

Đến nơi, khi Lục chúng xuất hiện, những người trình diễn quen họ trông thấy liền xấu hổ không thể chơi nhạc được, nên bất mãn chê trách:

 

- Sa-môn Thích tử lại tới lui có mặt nơi ca múa.

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô không được cố ý đến xuất hiện ở những nơi ca múa. Bí-sô nào tự mình ca múa, ngâm vịnh, dạy cho người, hoặc giúp đỡ hoặc tự mình xuất hiện đều bị tội vượt pháp.

 

(Sau đây là nhân duyên của Tôn Giả Thiện Hòa)

 

* Tại Kiêu Thiểm Tỳ có một trưởng giả tên là Đại Thiện, bẩm tánh nhu hòa, vợ đang có thai. Tôn giả Xá Lợi Phất biết sau này bào thai kia sẽ được hóa độ chứng quả thắng thượng, nên Ngài đến nhà. Khi ấy, Trưởng giả vốn có tín tâm, cầu quy y thọ giới. Từ đó, Tôn giả thường đến nhà ấy. Một hôm, Ngài đi một mình không có thị giả đến nhà Trưởng giả. Hỏi:

 

- Đại đức! Vì sao đi một mình không có thị giả?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Làm sao tôi ở trong rừng cỏ mà tìm có thị giả, nơi chỗ quý vị mới có được người làm thị giả.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Nếu như vậy, vợ con đang có thai nếu sinh con trai sẽ cho làm thị giả của Ngài.

 

Tôn giả từ giã, sau khi chú nguyện:

 

- Hiền thủ, nguyện cho đứa bé khỏe mạnh.

 

Sau tám, chín tháng, vợ Trưởng giả sinh hạ một bé trai, thân hình gầy nhỏ, âm thanh hòa nhã. Sau 21 ngày, Trưởng giả mời thân thuộc tập họp lại, làm lễ chúc mừng. Người cha bồng con xin mọi người đặt tên. Mọi người bàn bạc:

 

- Bé này thân hình gầy nhỏ, âm thanh hòa nhã, là con của Trưởng giả Đại Thiện, nên đặt tên cho cháu là Thiện Hòa.

 

Ngày tháng dần qua, Thiện Hòa đã đến tuổi khôn lớn. Vào buổi sáng nọ, Tôn giả Xá Lợi Tử mặc y mang bát vào thành Kiêu Thiểm Tỳ, thứ lớp khất thực đến nhà Đại Thiện. Trưởng giả trông thấy vội mừng rỡ chào đón, chắp tay đảnh lễ sát đất và thỉnh lấy bát, đặt đầy đủ bánh trái vật thực rồi dâng lên Tôn giả.Khi đồng tử Thiện Hòa ra xem mặt Thánh giả. Tôn giả hiện tướng làm cho Trưởng giả nhớ lại chuyện cũ. Trưởng giả liền bảo con mình:

 

- Khi con còn trong bụng mẹ, ta đã cho con làm đệ tử của Tôn giả. Vậy nay con hãy đi theo Tôn giả.

 

Đồng tử là người mang thân tối hậu nên rất dễ lìa bỏ thế tục, liền theo Tôn giả trở về trú xứ. Tôn giả cho cậu ta xuất gia và sau đó thọ giới cụ túc, như pháp khai hóa. Vị này siêng năng tinh tấn không lười biếng, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán. Bấy giờ, Bí-sô Thiện Hòa ngâm vịnh tán tụng kinh pháp, âm thanh trong suốt vang tận Phạm thiên. Có vô số chúng sinh nghe âm thanh này đều được gieo trồng căn lành giải thoát, cho đến các loại bàng sinh có tình thức nghe đến tiếng ấy đều lắng tai nghe diệu âm này. Bấy giờ, Thế Tôn nhân đại chúng tập họp, bảo mọi người:

 

- Này các Bí-sô, trong giáo pháp của ta, trong số đệ tử thanh vănâm thanh vi diệu, Bí-sô Thiện Hòa đứng số một.

 

Do vị ấy diễn xướng âm thanh hòa nhã làm cho người nghe phát tâm hoan hỷ. Bí-sô chưa ly dục đều bỏ phế việc của mình, hằng ngày chỉ lắng nghe âm thanh tán tụng.

 

Một hôm, khi đêm gần tàn, đại vương Thắng Quang của Kiều Tát La cỡi voi Bạch Liên Hoa cùng tùy tùng, có việc ra khỏi thành, cần đi đến nơi kia. Trong rừng Thệ Đa, Bí-sô Thiện Hòa đang cao giọng tụng kinh. Khi voi của vua nghe âm thanh ưa thích này nên vểnh tai lắng nghe, không chịu đi tới. Quản tượng dùng móc câu đập vào chân nhưng voi vẫn đứng yên. Vua bảo quản tượng:

 

- Hãy làm cho voi đi!

 

Đáp:

 

- Đại vương! Thần đã tận lực thúc đẩy tiến tới nhưng nó vẫn không bước chân,chẳng biết ý nó muốn gì?

 

Vua bảo:

 

- Hãy thả ra để tùy ý nó đi.

 

Quản tượng thả móc câu, voi liền đi đến vườn Cấp-cô, đứng ngay cửa chùa vểnh tai nghe âm thanh. Tụng kinh xong, Bí-sô Thiện Hòa đọc bốn bài kệ phát nguyện:

 

    Chư thiên, A-tu-la, Dược xoa

    Ai đến nghe pháp phải chí tâm

    Ủng hộ Phật pháp cho trường tồn

    Luôn luôn thực hành lời Phật dạy

    Những vị nghe pháp nên đến đây

    Ở trên mặt đất hoặc không trung

    Thường hành tâm từ với loài người

    Ngày đêm chính mình sống đúng pháp

    Nguyện các thế giới thường an ổn

    Đem nhiều phước, trí lợi chúng sinh

    Có bao nghiệp tội đều tiêu trừ

    Xa lìa các khổ về tịch tịnh.

    Thường xoa thân thể bằng hương giới

    Dùng áo thiền định mặc kín thân

    Trang điểm khắp bằng hoa tuệ giác

    Sống ở nơi nào cũng an lạc.

 

Nghe kệ này xong, voi của vua biết đã hết thời kinh nên vẩy tai, bước chân đi, nhanh chậm tùy theo móc câu điều khiển. Vua hỏi quản tượng:

 

- Nay vì sao voi này đi theo ý khanh?

 

Đáp:

 

- Chưa biết vị thánh giả nào trong chùa đọc tụng kinh điển với âm thanh mỹ diệu, voi nghe ưa thích nên không chịu đi nữa.

 

Vua nói:

 

- Nếu như vậy, hãy quay voi lại đến thăm hỏi vị Tôn giả kia, ta nguyện dâng cúng thượng y cho ngài, để ngày mai sẽ đến thành kia.

 

Quản tượng vâng lệnh quay voi trở lại. Khi chưa đến chỗ cũ, Phu nhân Thắng Man ngạc nhiên vì sao vua vội trở lại, nên hỏi lý do. Vua kể lại đầy đủ sự việc trên, và bảo rằng:

 

- Phu nhân hãy đưa tấm vải tối thượng, ta muốn tự mình dâng lên vị kinh sư kia.

 

Sau khi suy nghĩ: "Hay là thánh giả Thiện Hòa dùng âm thanh mỹ diệu đọc tụng kinh điển, nhưng Tôn giả ấy hình dáng xấu xí, tánh của đại vương ta thích người tuấn tú, như gặp vị ấy sẽ không vừa ý lại sinh khinh mạn hối tiếc sự kính trọng trước đây. Ta hãy tìm cách làm cho vua không tự đến gặp", phu nhân Thắng-Man tâu:

 

- Thưa đại vương! Ngài cứ đến thành kia, thiếp sẽ mang vải đến dâng lên Tôn giả.

 

Đáp:

 

- Phu nhân nên lấy tấm khác, lẽ nào do vật này mà nước Kiều Tát La của ta trở nên nghèo thiếu hay sao?

 

Phu nhân im lặng. Nhà vua liền mang tấm vải tốt nhất đến rừng Thệ Đa. Khi ấy, cụ thọ A Nan Đà đang đi kinh hành trước cửa chùa. Vừa thấy, vua xuống voi, lạy sát chân Tôn giả, thưa:

 

- Đại đức, sáng sớm hôm nay vị Tôn giả nào đọc tụng kinh pháp?

 

Đáp:

 

- Đại vương cần gì mà hỏi như vậy?

 

- Đại đức! Con muốn chính mình đem y này dâng cúng vị ấy.

 

Tôn giả nghĩ: "Cụ thọ Thiện Hòa có âm thanh mỹ diệu, phúng tụng kinh pháp âm vận hòa nhã siêu quần, nhưng hình dáng vị ấy xấu xí quá, mà vị vua này tánh thích người xinh đẹp nho nhã. Nếu vua thấy vị này, sẽ sinh khinh khi, tâm không cung kính, vậy ta nên bày cách không cho ông ta gặp"; nên thưa:

 

- Đại vương, hãy đưa y cho tôi, tôi sẽ dâng vị ấy.

 

Đáp:

 

- Đại đức! Thế Tôn tán thán việc tự tay mình dâng cúng là tối thượng nhất, nên nay con muốn tự tay mình dâng.

 

Khi ấy, tại chỗ ở ban ngày, Tôn giả Thiện Hòa đang ngồi kiết già dưới gốc cây. Tôn giả A Nan đưa nhà vua đến nơi vị ấy, nói với vua:

 

- Đại vương, người ngồi dưới gốc câyTôn giảâm thanh vi diệu.

 

Vua tiến tới, nhìn xuống thấy vị ấy hình dáng xấu xí, sinh khinh thường không còn tín tâm nữa, quay đầu lại nhăn mày, để tấm y xuống rồi bỏ đi.

 

Thấy hành động nhà vua như vậy, Thiện Hòa nói kệ:

 

    Ai dùng sắc thấy ta

    Dùng âm thanh cầu ta

    Ái nhiễm loạn tâm họ

    Không thể thấy được ta.

 

    Ai chỉ biết bên trong

    Mà không thấy bên ngoài

    Theo trong mà cầu quả

    Là bị mê vì tiếng.

 

    Ai chỉ biết bên ngoài

    Mà không thấy ở trong

    Theo bên ngoài cầu quả

    Cũng bị mê vì tiếng.

 

    Ai không biết bên trong

    Cũng không thấy bên ngoài

    Phàm phu đều bị chướng

    Cũng bị mê vì tiếng.

 

    Ai biết rõ bên trong

    Lại khéo thấy bên ngoài

    Bậc trí sẽ xuất ly

    Không bị tiếng làm mê.

 

Bấy giờ các Bí-sô đều sinh nghi ngờ, bạch Thế Tôn:

 

- Vì nhân duyên gì, Bí-sô Thiện Hòa thân hình xấu xíâm thanh hòa nhã, được xuất gia tu tập trong Phật pháp, trừ hết các lậu chứng quả A-la-hán.

 

Thế Tôn bảo họ:

 

- Bí-sô Thiện Hòa phải tự nhận lấy nghiệp đã tạo ... nói rộng cho đến như bài kệ:

 

    Dù trãi qua trăm kiếp

    Nghiệp đã làm không mất

    Khi nhân duyên gặp nhau

    Nhận trở lại kết quả.

 

Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy hãy lắng nghe, thời quá khứ trong hiền kiếp này, khi loài người sống đến bốn vạn tuổi, có đức Phật Câu-Lưu Tôn đầy đủ mười hiệu ra đời.

 

Sau khi làm các Phật sự viên mãn, đức Phật Thế Tôn kia nhập vô dư y Niết bàn. Bấy giờ, quốc vương kia tên Vô Ưu cúng dường xá-lị của Phật ấy nên xây tháp chu vi một do-thiện-na, cao nữa do-thiện-na, sai người quản thủ lần lượt xây dựng. Người này có tín tâm, ý thích hiền thiện, siêng năng làm việc không thấy mệt nhọc. Có người làm công nọ thấy tháp quá cao lớn, nên sinh hiềm hận nói với bạn:

 

- Nay vua xây tháp lớn này, hao phí nhiều công sức người, biết ngày nào mới xong!

 

Người quản thủ nói:

 

- Người không thể làm nữa thì tùy ý đi nơi khác, vì sao lại nói ra lời hiềm hận như vậy.

 

Người kia im lặng không thể nói lại. Người quản thủ muốn đuổi kẻ kia, nhưng anh ta xin lỗi và đến làm lại như cũ. Khi tháp vẫn chưa xong, anh ta lại sinh hiềm hận. Người quản thủ dùng gậy đuổi đi, anh ta lại xin tạ tội và làm lại như cũ . Đến khi tháp hoàn tất, mọi người ngắm xem quên cả mệt nhọc. Trăm ngàn chúng sinh đều hoan hỷ. Người hiềm hận trước đây thấy vậy sinh hối hận: "Trước đây ta đã làm việc bất thiện, thấy tháp cao lớn nên nói lời khinh mạn. Nay ta nên sắm sửa vật cúng dường". Anh ta liền dùng số tiền đang có gần đây, làm cái linh đẹp bằng vàng đem treo trên tháp. - Này các Bí-sô nên biết, kẻ làm thuê kia nay là Thiện-Hòa, do có tâm hiềm hận với tháp nên nay làm thân người với hình dáng xấu xí, do cúng dường linh bằng vàng nên tiếng nói hòa nhã, làm cho người nghe đều rất hoan hỷ.

 

Khi ấy, các Bí-sô còn có ý nghi, thưa lại với Thế Tôn:

 

- Đại đức Bí-sô Thiện Hòa trước đây tạo nghiệp gì mà do sức nghiệp ấy đọc tụng kinh pháp âm thanh vang tận Phạm thiên.

 

Thế Tôn bảo:

 

- Này các Bí-sô hãy lắng nghe sự việc ấy. Thời quá khứ, khi loài người thọ hai vạn tuổi, có đức Phật Ca Nhiếp Ba đầy đ? mười hiệu xuất hiện trong thế gian. Giữa thành phố và rừng Thi Lộc, tiên nhân đọa xứ, nước Ba La Ny Tư có cây hương-quả. Có con chim hót hay sống nơi cây này. Một hôm, vào sáng sớm đức Phật Ca-Nhiếp Ba mặc y mang bát vào thành khất thực. Khi con chim ấy thấy đức Phật tướng mạo đoan nghiêm như núi bằng vàng, liền cất tiếng hót vang với âm thanh vi diệu, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi bay trở vào núi. Hằng ngày cứ như vậy, khi thấy đức Phật đi qua, chim này nhiễu quanh và hót vang, rồi bay vào lùm cây sống hoan hỷ. Vào một ngày khác, bị chim ưng bắt được, sau khi qua đời chim kia sinh vào nhà đại Bà-la-môn, rồi từ đó về sau không bị thác sinh vào loại hạ tiện ác độc, cho đến ngày nay sinh loài người vẫn cảm ứng giọng nói hay vọng tận Phạm thiên, làm người khác ưa thích. Này các Bí-sô nên biết, chim hót hay kia nay là Thiện-Hòa.

 

Các Bí-sô lại có nghi khác, thưa thỉnh Thế Tôn:

 

- Đại đức Bí-sô Thiện Hòa đã từng làm nghiệp gì, do sức nghiệp này nên có âm thanh mỹ diệu số một trong hàng đệ tử của Phật?

 

Thế Tôn bảo:

 

- Bí-sô Thiện Hòa do phát nguyện lực nên cảm ứng được quả báo này. Đó là nghiệp gì?

 

- Vào thời Phật Ca-Nhiếp Ba, Thiện Hòa xuất gia, Bổn sư cuả vị ấy đứng đầu về việc hướng dẫn phúng tụng trong các đệ tử Phật Ca Nhiếp Ba. Nhưng thời ấy, Thiện Hòa từ khi xuất gia cho đến khi già cả, tuy tu tập phạm hạnh nhưng cuối đời không chứng được gì, khi lâm chung phát nguyện:

 

- Ta xuất gia tu tập trong thánh giáo của đức Phật Ca Nhiếp Ba, cuối đời không chứng được gì, nguyện ta nhờ thắng nhân này theo như sự thọ ký của Phật Ca Nhiếp Ba là trong đời vị lai khi loài người thọ một trăm tuổi, có Phật ra đời hiệu Thích Ca Mâu Ny Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, ta được xuất gia tu tập trong giáo pháp của Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng A-la-hán. Như thân giáo sư của ta trong Phật pháp là bậc đệ tử tán tụng số một, ta cũng như vậy, gặp Phật xuất gia, là bậc số một trong những vị hướng dẫn xướng tụng.

 

Do sức nguyện ấy, Thiện Hòa xuất gia tu tập theo giáo pháp của Ta, trong các đệ tử là vị thầy hướng dẫn xướng tụng số một. Bí-sô nên biết, nghiệp đã tạo nếu thuần đen thì có quả báo thuần đen, nếu thuần trắng thì có quả báo thuần trắng, nếu tạp nghiệp thì có quả báo xen tạp.

 

Các thầy nên vứt bỏ nghiệp thuần đen và xen tạp, tu tập nghiệp thuần trắng, như nói rộng ở chỗ khác.

 

* Duyên xứ như trước, khi các Bí-sô tụng kinh, không thông thạo âm vận tùy theo câu mà đọc, cũng như tiếng trút trái táo vào chậu khác. Trong khi các ngoại đạo kia đọc tụng kinh với âm thanh ngâm vịnh. Hằng ngày, Trưởng giả Cấp Cô Độc thường đến thân cận lễ bái Th? Tôn, nghe bên đường có tiếng các ngoại đạo tụng kinh, nên suy nghĩ: "Những ngoại đạo này xuất gia trong pháp luật không tốt, đọc tụng ngâm vịnh kinh điển với âm thanh ngôn từ dễ nghe. Các thánh giả của ta không thông thạo âm vận phải tùy câu tùy chữ, nên tụng kinh cũng như tiếng trút táo sang chậu khác. Đây là việc ta nên bạch với Đại sư".

 

Sau khi gặp Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, Trưởng giả bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Các ngoại kia xuất gia trong pháp luật xấu, mà đọc tụng nhâm vịnh kinh điển với âm thanh ngôn từ dễ ưa. Các thánh giả của con không rành âm vận phải theo chữ theo câu, tụng kinh cũng như tiếng trút táo vào chậu khác. Nếu Phật Thế Tôn từ bi đồng ý thì cho phép các thánh chúng dùng âm thanh ngâm vịnh để tụng kinh điển.

 

Thế Tôn cho phép bằng cách im lặng. Trưởng giả thấy Phật im lặng cho phép nên làm lễ từ giã. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Từ nay về sau Ta cho phép các thầy dùng âm thanh ngâm vịnh để đọc tụng kinh pháp.

 

Sau khi Phật cho phép, các chúng Bí-sô dùng cách ngâm vịnh để đọc tụng kinh, việc cung thỉnh, dạy bảo, tác bạch cũng làm như vậy. Nhân khi Trưởng giả Cấp Cô Độc vào chùa thấy âm thanh của chư Tăng huyên náo cả chùa, nên thưa:

 

- Thánh giả! Già-lam này trước đây là nơi Pháp vũ nay trở nên thành Càn Thát Bà.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên dùng âm thanh ngâm vịnh đọc tụng kinh pháp, kể cả đọc kinh thỉnh dạy, tác bạch đều không nên làm vậy. Nhưng có hai việc dùng tiếng ngâm vịnh, một là tán thán ân đức của đức Đại sư, hai là tụng kinh Vô Thường (Tam khải), ngoài ra không nên làm.

 

Phật cho phép dùng tiếng ngâm vịnh trong hai việc là tán thán đức của Phật và tụng kinh Vô Thường (Tam khải), có một Bí-sô nhỏ tuổi, làm hai việc này nhưng không biết ngâm vịnh, chỉ biết đọc thẳng như tiếng trút táo.Các Bí-sô nói:

 

- Làm hai việc này, Phật cho phép ngâm vịnh, tại sao không làm?

 

Đáp:

 

- Con không biết.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên học cho biết.

 

Khi Phật bảo học, Bí-sô tùy nơi trong phòng, hành lang, bên cửa, chánh điện ... đều học tập tiếng ngâm vịnh. Trưởng giả vào chùa thấy vậy, cũng hiềm hận như trước, bạch:

 

- Thánh giả, chưa thể bỏ được thành Càn Thát Bà.

 

Lại bạch Phật, Phật dạy:

 

- Nên học tập ngâm vịnh nơi chỗ khuất, không nên ở nơi đầu đường, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Có một Bí-sô đứng kéo bát ra khỏi túi đựng bát. Bí-sô khác nói:

 

- Cụ thọ! Chớ nên đứng rút bát ra.

 

Hỏi:

 

- Có lỗi gì?

 

Đáp:

 

- Rơi xuống đất bị vỡ chẳng phải là lỗi hay sao?

 

Người kia im lặng. Đem sự việc bạch Phật, Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên đứng lấy bát của mình, bát ở trong túi cũng không được đứng để rửa hay phơi khô. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Nhiếp tụng thứ sáu trong biệt môn thứ nhất.

 

    Đạp y tinh chư đại

    Nhục cập ư tọa cụ

    Hữu duyên ly tam y

    Lục chủng tâm niệm pháp.

 

* Một thời, Phật ở trong rừng Thi Lộc, vùng Khủng Úy, núi Giang Trư. Vương tử Bồ-đề thỉnh Phật và Tăng thiết lễ cúng dường nơi lầu Diệu Hoa. Trên lầu này, khắp nơi đều có trải vải gấm đỏ hồng như bình minh hay ráng chiều. Đến nơi, thấy nơi nào có vải phủ thì Ngài không bước lên. Các Bí-sô cũng không dám đặt chân lên. Vương tử Bồ đề bạch:

 

- Thế Tôn! Cầu xin Thế Tôn từ bi đi qua.

 

Đức Phật cũng không bước lên. Vương tử thấy vậy, thu xếp tấm vải, Phật mới bước tới. Ngoại đạo nghe như vậy, nói:

 

- Sa-môn Kiều Đáp Ma chưa kham nỗi sự cúng dường, nên không dám bước lên vải gấm của vương tử trải.

 

Đức Phật biết việc này, bảo các Bí-sô:

 

- Nếu có Bà-la-môn cư sĩ Trưởng giảtín tâm trải vải quý giá ngay trên đường đi, thỉnh các Bí-sô:

 

- Nguyện quý ngài mở lòng từ bi bước đi lên. Vì muốn chiến thắng tâm ngã mạn của ngoại đạo, các thầy nên quán tưởng các hành vô thường để đi lên, chớ nghi ngại.

 

* Duyên xứ như trước, có Bí-sô đang bưng bát đi trên đường, bị vấp chân nên bát bị rơi vỡ. Nhân việc thiếu sót này nên đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên bưng bát bằng tay, nên dùng góc y bọc bát ôm đi.

 

Lại bị lỗi như trước, Phật dạy:

 

- Nên làm túi đựng bát để mang đi, nên làm dây mang lên vai, ôm đi. Ai làm trái lại, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước, có Bí-sô làm bạn với đoàn buôn đi du hành trong nhân gian. Trong những người cùng đi, có Bà-la-môn thình lình bị bệnh nên đến gặp y sĩ:

 

- Tôi có bệnh như vậy, mong ngài điều trị.

 

Đáp:

 

- Bệnh này nên dùng Ha-lê-lặc thì hết bệnh.

 

Nói:

 

- Trên đường đi không tìm chỗ nào được.

 

Y sĩ nói:

 

- Sa-môn Thích tử biết rành các loại thuốc, theo họ xin chắc sẽ được cho.

 

Người ấy đến gặp Bí-sô hỏi:

 

- Thánh giả! Ngài có Ha-lê-lặc không?

 

Đáp:

 

- Tôi có, ông dùng thứ ấy làm gì?

 

Nói:

 

- Tôi có bệnh, y sĩ bảo phải dùng nó, xin ngài cho tôi.

 

Trước người ấy, Bí-sô mở túi ra tìm Ha-lê-lặc, trước tiên lấy ra dao bén, rồi đến tấm da, và các thứ tạp dược nhơ sạch xen lẫn. Bà-la-môn thấy các vật tạp uế nên nói:

 

- Thánh giả, Bí-sô quý vị thường làm việc không thanh khiết như vậy, tôi thà chết chứ không chịu uống thuốc nhơ bẩn này.

 

Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nên sắm ba loại túi, một là túi đựng bát, hai là túi đựng thuốc, ba là túi đựng tạp vật.

 

Các Bí-sô dùng đai mang ba túi này ngang nhau dưới nách, bị hở y bày túi ra ngoài. Người bất tín thấy vậy chê cười, nói:

 

- Thánh giả! Chả lẽ ngài mang cái trống dưới nách đi.

 

Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được dùng mang đai bằng nhau, nên làm theo thứ lớp dài ngắn mang cho tương xứng.

 

Họ lại mang bằng đai nhỏ làm tổn hại thân thể. Phật dạy:

 

- Nên làm bản lớn, bên trong độn bằng vải và dùng tơ cột lại, đừng cho thiếu lớp. Ai làm khác đi, bị tội vượt pháp.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ tư hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ năm

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo nhiếp tụng thứ sáu trong biệt môn một}.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có Bí-sô được nhiều vải nỉ dày, nên suy nghĩ: "Như Thế Tôn dạy nên thọ trì y cắt rọc" nên mang tấm nỉ và dao đến dưới một gốc cây để cắt rọc.

 

Nhân Thế Tôn đến nơi ấy, hỏi:

 

- Thầy làm gì vậy?

 

- Bạch Thế Tôn! Như Ngài dạy Bí-sô nên mặc ba y cắt rọc. Con có nhiều nỉ dày nên muốn cắt làm ba y.

 

Bấy giờ, Thế Tôn tán thán người trì giới và chê bai kẻ phá giới, bảo các Bí-sô:

 

- Có vật không nên cắt rọc là tất cả loại khăn choàng, thảm lông dài, thảm lông ngắn, các vải nỉ dày và vật đã cắt nhỏ. Nếu ai cắt rọc chúng bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Bí-sô khách nọ có việc phải đi gấp nên không mang theo tọa cụ, đến chùa thì trời sắp tối. Vị tri sự bảo:

 

- Cụ thọ hãy nhận lấy ngọa cụ.

 

Vị kia đáp:

 

- Tôi không có tọa cụ thì lấy gì để lót trên nệm.

 

- Nếu vậy, thì nên nhận giường không nệm.

 

Nhận lấy giường ấy, gặp phải trời rét, vị này bị lạnh suốt đêm đến sáng, nên phát bệnh. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không mang theo tọa cụ, không được đi ra ngoài. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật có dạy: "Bí-sô không được đi ra ngoài nếu khôngtọa cụ. Các Bí-sô muốn đi tạm thời đến thôn khác cùng một thành, hoặc đến chùa khác, hoặc đi kinh hành, trở về trong ngày ấy cũng mang theo tọa cụ.

 

Có các Bí-sô già bệnh yếu ớt, khi đi không đủ sức mang theo phu cụ, nên mệt nhọc phiền não. Họ bảo với các Bí-sô:

 

- Tôi có việc ra đi và về ngay, Đại sư lại không cho đi mà không mang theo phu cụ, việc này phải làm sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu Bí-sô, đi đến nơi nào đó trong ngày, tạm thời đến chùa khác, đi kinh hành trong chùa, đến thôn xóm gần bên rồi trở về ngay, thì không cần phải mang theo tọa cụ.

 

Lại có Bí-sô gặp việc tạm ra ngoài dự định trở về ngay nên không đem tọa cụ theo. Đến nơi gặp phải duyên sự kéo dài đến chiều tối, vì không mang theo tọa cụ, vị này phải đi về trong đêm nên bị độc trùng, sói, giặc làm hại. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu có ý muốn trở lại ngay, nhưng gặp phải việc khác nên không kịp về, phải ở lại đên chỗ ấy, không được đi đêm, nên mượn của vị đồng phạm hạnh khác để lót dùng, được thì tốt, nếu không được thì lấy y bảy điều xếp làm bốn dùng lót trên tấm nệm, thức nhiều ngủ ít cho đến khi trời sáng.

 

Có Bí-sô lấy vật của người khác gửi bọc ngọa cụ, bị bất tịnh làm bẩn, rồi đem vật này trả lại, Bí-sô kia không chịu nhận. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Phải giặt sạch rồi mới trả.

 

Bí-sô giặt sạch đem trả nhưng vị kia vẫn không nhận, bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trả lại theo giá trị, hoặc xin lỗi đừng cho hiềm hận.

 

(Nên biết trong văn nói ngọa cụ tức loại có chiều dài theo thân, nguyên là vật bọc nệm nằm, không cho dùng trải trên đất để lễ bái. Nếu dùng trải trên đất để lễ bái thật sai với phép tắc ban đầu).

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô không được rời ba y đi ra ngoài (cương giới) .

 

Có các Bí-sô muốn đi đến thôn xóm trong thành một lúc ngắn, hoặc đến chùa khác, hoặc ra ngoài kinh hành,dự định xong việc trở về trong ngày nhưng đều phải mang theo ba y.

 

Lại có những Bí-sô già bệnh ốm yếu, khi đi không đủ sức mang theo ba y, nên thân tâm mệt nhọc, nói:

 

- Có việc đi tạm thời dự định trở lại, không mang theo ba y thì Đại-sư không cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nào đi đâu trong ngày, hoặc tạm thời đến chùa khác, hoặc đi kinh hành trong chùa, hoặc đến thôn xóm gần bên và tính trở về thì được phép không mang theo ba y.

 

Có Bí-sô ra ngoài tạm thời nên không mang theo ba y, đến nơi kia thì chiều tối, vì sợ phạm ngủ lìa y nên đi về trong đêm ấy, bị trùng, giặc làm hại. Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu đã có ý muốn trở về ngay, nhưng bận việc không về kịp, thì nghỉ lại nơi ấy không nên đi đêm, có thể mượn tạm ba y khác nơi bạn đồng phạm hạnh, thủ trì sử dụng.

 

Bí-sô không hiểu phải thủ trì như thế nào. Phật dạy:

 

- Trước hết cầm lấy y mới, tâm niệm xả y cũ và thủ trì y mới. Bí-sô nên biết có sáu pháp tâm niệm:

 

    Một là trưởng tịnh,

    Hai là tùy-ý,

    Ba là thủ trì y,

    Bốn là xả ba y,

    Năm là phân biệt y dư,

    Sáu là xả biệt thỉnh.

 

Bí-sô được y không rảnh để cắt giặt nhuộm. Phật dạy:

 

- Nếu không đủ điều kiện để may giặt nhuộm, xét giá trị của bạch điệp hay vải chưa nhuộm, quy ra đủ chi phí đem sắm ba y, cho đến có thể thủ trì y vật mượn của người thế tục để dùng, cũng không phạm, chớ nghi ngại.

 

Có các Bí-sô đi ngủ nơi khác không mang theo tọa cụ, cho rằng phạm lìa y. Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta chế định Bí-sô không được ngủ lìa ba y chứ không phải tọa cụ, nhưng các Bí-sô không nên cố ý không mang theo; người bị quên không phạm.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ bảy trong biệt môn thứ nhất:

 

    Thủy la hữu ngũ chủng

    Khí cộng nhất xứ thực

    Lộ hình hám ẩm thực

    Tẩy dục sự ưng tri.

 

* Duyên ở thành Thất La Phiệt. Phương Nam có hai Bí-sô muốn đến thành Thất La Phiệt lễ bái Thế Tôn nhưng đều không có lưới lược nước. Trên đường đi, không có nước uống, đang quá nóng khát, họ đến một ao nước. Một người nói:

 

- Cụ thọ, hãy mau xem xét nước, tôi muốn uống cho hết khát.

 

Họ xem thấy nước có trùng, xem đến ba nơi đều có trùng, nên bàn nhau:

 

- Nước có trùng, uống thì hại mạng chúng sinh, nay quá khát nước vậy phải làm sao?

 

Vị Bí-sô nhỏ nói kệ:

 

    Trăm ngàn Cu-đê kiếp

    Khó được gặp Thế Tôn

    Nay ta nên uống nước

    Mong lễ bậc Đại-sư.

 

Vị Bí-sô lớn nói kệ:

 

    Như Lai đại từ thương chúng sinh

    Diệt hết ái nhiễm với ba cõi

    Thọ trì giới cấm trong pháp này

    Ta thà chịu chết không sát sinh.

 

Bấy giờ, Bí-sô nhỏ không nhịn khát được, nên uống nước có trùng và lên đường. Vị lớn vì hộ trì trùng nên cương quyết không uống, cố gắng đến ngồi thẳng dưới bóng cây, trong lúc chưa kiệt quệ hết sức, tâm vẫn niệm đến việc thiện, cho đến khi hết sức mà qua đời. Do sức phước này, vị này sinh đến nơi tốt nhất ở cõi trời Ba mươi ba. Thường khi người vừa sinh thiên, dù nam hay nữ đều phát sinh ba ý nghĩ: - Ta chết từ nơi nào, đang sinh đến nơi nào, do làm nghiệp gì.

 

Vị ấy nhớ lại tiền thânloài người, nay sinh đến cõi trời Ba-mươi-ba, nhờ hết sức tôn trọng lời Phật dạy.Vị thiên tử kia nghĩ: "Nếu ta không đến lễ bái Thế Tôn là điều không đúng, vì bất kính". Sau khi suy nghĩ, vị Thiên này trang nghiêm thân thể bằng anh lạc cõi thiên với ánh sáng đặc biệt, rồi dùng vạt y đựng đầy các hoa đẹp, hoa Ôn Bát La, hoa Bát Đầu Ma, hoa Câu Vật Đầu, hoa Phân Đà Lợi Ca, hoa Mạn Đà La, qua khỏi đầu đêm đến gặp đức Phật, tự thân tung hoa trời cúng dường, lạy sát hai chân Phật rồi ngồi lui về một bên, lắng nghe diệu pháp. Hào quang của vị trời này rất rực rỡ, chiếu sáng cả vườn Thệ-đa. Thế Tôn tùy theo sở thíchcăn tính của vị trời này mà thuyết pháp, làm cho hiểu rõ lý bốn Thánh-đế.

 

Bấy giờ, vị trời này dùng trí tuệ như chày kim cương phá tan núi hai mươi ngã kiến, chứng quả Dự-lưu. Sau khi được kiến-đế, vị này ba lần bạch Phật:

 

- Đại đức, nhờ Phật Thế Tôn làm cho con chứng đắc quả giải thoát, đây không phải do cha mẹ, vua người, thiên chúng, Sa môn, Bà-la-môn thân hữu, quyến thuộc có thể làm được. Con gặp được Thế Tôn là bậc thiện tri thức cứu giúp con thoát khỏi địa ngục, bàng-sinh, ngạ-quỷ, đem đến nơi cõi trời Thắng diệu, sẽ hết sinh tử chứng đắc Niết bàn, vượt khỏi núi xương, làm cạn biển máu, dùng trí tuệ như chày Kim cương phá nát ngã kiến tích tụ từ vô thủy, chứng quả Dự lưu. Nay con xin quy y Tam bảo thọ trì năm học xứ, kể từ hôm nay cho đến trọn đời không sát sinh cho đến không uống rượu, cầu xin Thế Tôn chứng tri cho con làm người cận sự nam.

 

Ngay trước Thế Tôn, vị trời chắp tay cung kính nói kệ:

 

    Con nhờ vào sức Phật

    Đóng hẳn ba đường ác

    Sinh cõi trời thắng diệu

    Hướng về cõi Niết bàn.

 

    Con nhờ vào Thế Tôn

    Nên được mắt thanh tịnh

    Thấy rõ lý chân-đế

    Sẽ vượt qua biển khổ.

 

    Phật vượt trên trời người

    Thoát sinh già bệnh chết

    Khó gặp trong biển hữu

    Con gặp, được chứng quả.

 

    Con với thân trang nghiêm

    Tâm tịnh lễ chân Phật

    Nhiễu bên phải trừ oán

    Xin trở về thiên cung.

 

Sau khi nói lên ý nguyện của mình, như người chủ buôn được nhiều tài lợi, cũng như nông phu được mùa thu nhiều lương thực, như người hùng mạnh chiến thắng kẻ oán thù, như người thoát khỏi cơn bệnh nặng, vị trời ấy từ giã đức Phật xong, trở về thiên đường. Vị Bí-sô nhỏ kia đi dần đến thành Thất La Phiệt vào rừng Thệ Đa, an trí y bát, rửa chân xong, đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Ngài rồi đứng qua một bên.

 

Như thường pháp, Thế Tôn thấy Bí-sô khách đến thì an ủi thăm hỏi:

 

- Lành thay chào Bí-sô, từ đâu đến đây, hạ này an cư ở thành, nước nào?

 

Khi ấy, Thế Tôn cũng hỏi Bí-sô này:

 

- Thầy từ đâu đến đây?

 

- Bạch Thế Tôn! Con từ phương Nam đến đây.

 

Hỏi:

 

- Hạ này an cư ở đâu?

 

Đáp:

 

- Cũng tại phương Nam.

 

Phật hỏi:

 

- Thầy đi đường xa vậy có bạn không?

 

Thưa:

 

- Dạ có.

 

Phật hỏi:

 

- Người ấy đi đâu?

 

Vị này liền kể lại sự việc.

 

Thế Tôn nói kệ:

 

    Ai xem thường giới Ta

    Gắng gặp Ta làm gì?

    Giả sử có gặp Ta

    Như chẳng thấy, chẳng cúng.

 

    Bí-sô kia thấy Ta

    Vì giữ gìn tịnh giới

    Ngươi ngu si không trí

    Không phải thật thấy Ta.

 

Khi ấy, Thế Tôn liền vẹt thượng y ra cho vị kia thấy ngực, lại nói kệ:

 

    Ngươi hãy xem thân Ta

    Thể xác cha mẹ sinh

    Màu cũng như vàng ròng

    Đều do nghiệp đã làm.

 

    Ai không kính pháp-thân

    Họ không thấy chư Phật

    Ai thành tựu pháp thân

    Được thấy Đại Mâu-ny

 

    Pháp thân Ta thứ nhất

    Sắc thân đứng thứ hai

    Bậc trí thấy biết rõ

    Nên giữ gìn giới luật.

 

    Thời Phật Ca-nhiếp-ba

    Có Bí-sô phạm giới

    Vì phá lá y-la

    Đang đọa vào loài rồng.

 

Sau khi suy nghĩ: "Vì các Bí-sô không mang lưới lược nước nên có lỗi như vậy", Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Nên có lưới lược nước.

 

Như Thế Tôn dạy: "Phải sắm lưới lược nước", Bí-sô không biết có bao nhiêu loại lưới lược nước. Phật dạy:

 

- Có năm loại lưới lược nước:

 

    Một là lưới vuông (Loại xử dụng thông thường thì dùng chừng ba, hai hay một thước lụa sống. Tăng sĩ nên dùng hai lớp, lớn nhỏ tùy lúc. Lụa dùng làm lưới phải mịn và dày, trùng không lọt qua mới được; nếu thưa mỏng thì không được dùng. Có người dùng vải nhớp hay the thưa, vải gai vì không cố ý bảo vệ trùng).

 

    Hai là pháp bình (bình âm dương).

 

    Ba là quân trì (dùng lụa bịt miệng bình, cột vào cổ bằng dây nhỏ, nhúng vào trong nước cho nổi lên nữa miệng, nếu chúc chìm miệng thì nước không vào, chờ đầy mới lấy ra nhưng phải xem kỹ trùng. Nếu không phải quân trì mà gặp loại bình ống rộng miệng, dù lớn hay nhỏ đều lấy lụa bịt miệng, dùng dây nhỏ cột chặt tùy lúc lấy nước. Việc này rất đơn giản lại không cần chậu để phóng sinh, rất là cần thiế)t.

 

    Bốn là chước thủy la (Loại này ở Đông-hạ không thấy nói đến, nơi khác có chỉ là túi lưới nhỏ, tuy nội dung giống nhau nhưng hình thức không đúng hẳn như chính nó).

 

    Năm là y giác la (dùng lụa dày vuông chừng một khuỷu tay, hoặc cột vào miệng bình lấy nước xử dụng, hoặc để trên miệng chén dùng lược nước khi cần, chẳng phải góc ca-sa. Loại này dày nhưng thông nước nên dùng để lược; chỉ vì từ lâu đã không hiểu biết phương pháp, ai sẽ hướng dẫn. Các loại lưới lược này đều thấy sử dụng ở phương Tây . Đại sưthương xót muốn cứu giúp chúng sinh, ăn thịt còn tổn lòng đại bi huống chi sát sinh thì làm sao thành Phật. Giả như có việc tạm thời ra khỏi chùa nên mang theo lưới lược và dây nhỏ cùng vật dụng để phóng sinh. Người không mang theo chẳng phải chính là biểu hiện thái độ khinh lời Phật dạy và lấy gì để dạy bảo môn đồ. Hành giả hãy suy nghĩ việc này, cần phải bảo tồn vì lợi ích cho mình và người vậy).

 

* Duyên xứ tại thành Thất La Phiệt. Hai Bí-sô đã có hiềm khích, cùng làm bạn đi du hành trong nhân gian. Một người có lưới lược nước, người kia thì không. Người có lưới, dùng lược nước uống. Người không có lưới, bảo:

 

- Cụ thọ hãy cho tôi mượn lưới lược.

 

Người kia không cho mượn nên bị lỡ việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Đã có hiềm khích, không được cùng nhau đi du hành nhân gian. Giả như gặp việc phải đi chung, nên tạ lỗi nhau, rồi mới đi chung.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có hai Bí-sô cùng du hành nhân gian. Một người có lưới lược nước, một người không có. Người không có hỏi vị kia:

 

- Cụ thọ! Thầy có lưới lược nước không?

 

Đáp:

 

- Có.

 

Nhưng vị kia không hỏi có thể mượn dùng được không. Sau đó, vị có lưới, lược nước để uống. Vị không có lưới, theo mượn, vị kia không cho mượn nên sinh hiềm hận. Vị có lưới bảo:

 

- Thầy chỉ hỏi có hay không chứ nào nói mượn dùng, nay lại hỏi mượn, thật là bất kính nên ta chẳng cho mượn.

 

Vị kia bị lỡ việc. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi các Bí-sô muốn đi đâu, nếu không có lưới lược phải hỏi đồng bạn:- Thầy có lưới lược không. Nếu họ nói có, nên hỏi thêm:- Tôi dùng chung được không?. Họ đồng ý mới được đi chung, không cho thì không nên đi.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có hai Bí-sô cùng du hành nhân gian, một người có lưới lược nước, người kia không có. Người không có lưới hỏi:

 

- Thầy có lưới lược nước không?

 

Đáp:

 

- Tôi có.

 

Hỏi:

 

- Cho tôi dùng chung được không?

 

Đáp:

 

- Được.

 

Họ cùng đi với nhau, trên đường gặp đoàn buôn. Người có lưới lược có việc cần phải trở về. Người không lưới bảo:

 

- Trước đây, thầy hứa cho dùng chung lưới lược, vậy hãy đưa cho tôi.

 

Đáp:

 

- Tôi hứa dùng lưới lược nước chung, chứ không phải để lại cho thầy dùng.

 

Người ở lại không có lưới lược nên bị lỡ việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không có lưới hỏi người có: - Thầy có lưới không. Nếu họ nói có, nên hỏi lại: - Nếu thầy trở lại có thể cho tôi mượn lưới được không? Họ đồng ý thì tốt, nếu không đồng ý thì không nên đi.

 

Cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:

 

- Đại đức! Nếu không có lưới lược nước, được phép đi đến làng khác hay chùa khác không?

 

Phật dạy:

 

- Không được, nếu biết nơi ấy có thể tìm được lưới lược, không làm cho lỡ công việc, không phạm.

 

- Bạch Đại đức! Hai người có một lưới lược, được phép du hành không?

 

Đáp:

 

- Nếu không làm cho lỡ công việc thì được.

 

- Bạch Đại đức! Nhiều người cho đến cả chúng chỉ có một lưới lược, được phép du hành không?

 

- Được, nếu có thể sử dụng đầy đủ.

 

- Bạch Đại đức! Nếu không có lưới lược, được phép đi lại trên bờ sông không?

 

- Này Ô Ba Ly! Nếu nước chảy mạnh, không có sông khác chảy vào thì cách năm dặm xem một lần. Nếu có dòng nước khác chảy vào, khi dùng phải xem kỹ. Nếu sông không chảy mạnh cũng tuỳ chỗ xem kỹ.

 

- Đại đức! Khi xem xét nước, được trong phạm vi rộng bao nhiêu?

 

Phật dạy:

 

- Chu vi chừng một tầm.

 

- Bạch Đại đức! Nếu nước không xem xét, không lược, có thể dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Không được, dùng bị tội.

 

- Bạch Đại-đức! Nước đã lược xong, không xem xét được phép dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Không được.

 

- Bạch Đại đức! Nước không lược, có xem xét được phép dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Quán sát thấy không có trùng, được tùy ý dùng.

 

- Bạch Đại-đức! Nước có lược và xem xét, được phép dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Không trùng được dùng.

 

Phật bảo Ô Ba Ly có năm loại nước sạch (tịnh thủy):

 

    Một là Tăng-già tịnh,

    Hai là Biệt nhân tịnh,

    Ba là Lự la tịnh,

    Bốn là Dũng tuyền tịnh,

    Năm là Tỉnh thủy tịnh.

 

- Tăng già tịnh là đại chúng sai một Bí-sô làm việc xem xét lược nước. Vị ấy xem xét đúng pháp. Có Bí-sô khác đến cho rằng Tăng đã làm sạch, nên uống dùng, không phạm.

 

- Biệt nhân tịnh là biết Bí-sô kia đều thanh tịnh về giới, kiến, uy nghi, chánh mạng, nên dùng nước của vị ấy không phạm.

 

- Lự la tịnh là từng dùng lưới lược này, chưa bị trùng lọt qua, nên không xem xét không phạm.

 

- Dũng tuyền tịnh là ngay mạch nước không có trùng.

 

- Tỉnh thủy tịnh là vào sáng sớm lấy nước thấy trong sạch không có trùng, trong buổi sáng đến lấy tùy ý dùng.

 

Bí-sô dùng mắt chăm chú xem nước liên tục, nên bị loạn thị. Phật dạy:

 

- Không nên xem lâu, nên bằng khoảng thời gian xe sáu bò chở tre quay lại,lại xem xét trong thời gian tâm vừa yên tịnh thì không phạm.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có những tịnh tín cư sĩ Bà-la-môn, mang các dụng cụ đựng thức ăn dâng lên Bí-sô. Khi ấy các Bí-sô không nhận. Họ đều thưa:

 

- Thánh giả! Khi Thế Tôn chưa ra đời, chúng con lấy ngoại đạo làm ruộng phước tốt nhất. Nay đức Phật xuất hiện trong thế gian, chúng con cho các ngài là hơn hết. Các ngài không nhận những vật chúng con dâng, chẳng lẽ làm cho chúng con không mang được tư lương sang đời sau hay sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vì đại chúng nên nhận vật đựng.

 

Theo lời Phật dạy nên nhận vật dụng ấy cho Tăng, Bí-sô nhận vật cất vào kho, khi ăn vẫn dùng bát để ăn. Thí chủ ấy thấy vậy hỏi:

 

- Chúng con dâng vật ấy đến quý ngài, vì sao không thấy dùng?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Cất chúng trong kho.

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Chẳng lẽ trong nhà con không có kho hay sao? Khi dâng cúng với ý muốn quý ngài sử dụng để chúng con được hưởng phước thọ dụng. Các ngài nhận rồi lại cất vào kho, làm cho chúng con chỉ hưởng phước bố thí chứ không có phước thọ dụng.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vật của họ dâng cúng nên đem ra dùng.

 

Bí-sô theo lời Phật dạy nên đem ra sử dụng. Sau đó, có thí chủ khác, tâm thích to rộng nên dâng mâm đồng lớn. Có Bí-sô già được phân mâm này, cố lau chùi nên sinh lao khổ.

 

Phật dạy:

 

- Nên sai người quản lý mâm vật đựng, xem xét việc lau chùi.

 

Bí-sô không biết chọn lựa người để sai việc xem xét vật dụng nên làm cho bị hư hoại. Phật dạy:

 

- Người có đủ năm pháp, chưa sai không nên sai, đã sai thì không cho làm. Năm pháp là gì? Đó là có Ái, Nhuế, Bố, Si, không ghi nhớ đã làm hay không làm. Ai có đủ năm pháp thì chưa sai nên sai, đã sai thì bảo làm. Thế nào là năm?

 

- Nghĩa là không Ái, không Nhuế, không Bố, không Si, ghi nhớ rõ đã làm hay không làm. Nên sai theo trình tự:- Trải tòa, đánh kiền chùy, bạch với tất cả, đại chúng tập họp hết. Trước hết hỏi:- Thầy tên ... có thể làm việc về mâm, vật dụng cho Tăng già không? Nếu biết có thể thì đáp:- Tôi có thể.Thứ đến một Bí-sô tác bạch yết -ma:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Bí-sô ... này vui vẻ làm việc về vật dụng cho Tăng. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng sai Bí-sô ... là người làm việc về vật dụng, sẽ làm việc về vật dụng cho tăng. Đây là lời tác bạch. (Yết Ma làm theo văn bạch).

 

Khi các Bí-sô nhận được vật dụng, sau khi ăn đem vật dụng nhơ bẩn giao cho người làm về vật dụng. Phật dạy:

 

- Vật đã sử dụng nhơ bẩn nên sai đệ tử môn nhân lau chùi.

 

Có Bí-sô không có đệ tử nên tự lau chùi. Phật dạy:

 

- Vị này đem vật dụng giao cho người làm về việc này để họ lau chùi. Nếu đệ tử môn nhân không biết cách lau chùi, cũng nên giao vật dụng cho người làm về việc này.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Lục chúng Bí-sô cùng ăn chung trong một bát. Cùng đưa tay vào trong bát rồi đồng thời giở tay, bát bị kéo cao lên, họ nói với nhau:

 

- Hãy xem bát đen này đang hiện thần thông.

 

Sáu người đều rút tay, bát bị rơi vỡ, nên cùng nhau cười lớn. Bí-sô khác thấy vậy nói:

 

- Cụ thọ, cùng nhau làm việc xấu ác như vậy, lẽ ra phải xấu hổ, ngược lại còn cười lớn.

 

Đáp:

 

- Ta làm việc gì, đang uống rượu hay ăn hành tỏi?

 

Bí-sô đáp:

 

- Chẳng bao lâu sẽ thấy các vị làm việc ấy.

 

Lục chúng đáp:

 

- Tuy bát ta vỡ, chẳng lẽ thợ gốm cũng chết, đất sét không còn, ta sẽ làm lại nào có lỗi gì?

 

Bấy giờ, các Bí-sô xấu hổ nên không trả lời, đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Vì các Bí-sô ăn chung một chỗ nên có lỗi như vậy". Ngài chế định: "Ai làm như vậy bị tội vượt pháp".

 

Như Phật chế, Bí-sô không được ăn chung trong một vật đựng. Có các Bí-sô đi theo đoàn buôn. Bấy giờ, đoàn buôn cùng ăn chung một chỗ, Bí-sô cũng ăn nhưng ít vật đựng nên không dám ăn chung, chờ xong mới ăn, bị trễ giờ không theo kịp bạn, phải đi sau nên bị giặc cướp đoạt. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Đang đi trên đường, không tìm được vật đựng, tuy nhiều người nhưng có thể ăn chung một vật đựng, người này đưa tay lên, người kia mới đưa tay xuống, không được đồng thời đưa lên hay xuống.

 

Phật cho phép ăn chung, có những cầu-tịch không dám cùng ăn chung với Bí-sô nên sinh ra lỗi như trên. Phật dạy:

 

- Bí-sô trước phải nhận vật thực bằng cách dùng tay cầm vật đựng, rồi cùng nhau ăn một chỗ.

 

Gặp lúc cùng đi với tịnh nhân, hay cầu-tịch xảy ra việc như trước. Phật dạy:

 

- Vắt cơm thành từng nắm chuyền nhau ăn.

 

Có Bí-sô trở về sinh quán, thân tộc nói:

 

- Xa cách đã lâu, nay mới gặp nhau, nên ngồi ăn chung mâm.

 

Đáp:

 

- Ông là người tục, tôi là người xuất gia, không nên ăn chung mâm.

 

Họ nghe vậy nên đứng buồn bã khóc lóc. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Biết họ ân cần mời, có thể ăn chung nơi chỗ khuất để không gây hiềm nghị. Trước tiên thọ vật thực của họ bằng cách lấy tay nhận lấy mâm, cùng ngồi ăn không lỗi.

 

* Duyên xứ tại thành Thất La Phạt. Lục chúng Bí-sô chỉ mặc y nội ngồi ăn. Người tục thấy vậy nói với nhau:

 

- Ai đang ăn vậy?

 

Một người đáp:

 

- Đấy là Sa-môn Thích tử.

 

Họ đều bất mãn xấu hổ nói:

 

- Giáo chủ của họ rất giữ sự tàm quý, vì sao đệ tử làm việc không biết xấu hổ như vậy.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Ngồi ăn mà chỉ mặc y nội nên có lỗi như vậy". Ngài chế:

 

- Bí-sô không được chỉ mặc y nội mà ngồi ăn, ai làm vậy bị tội vượt pháp.

 

Phật dạy: "Không nên chỉ mặc y nội mà ngồi ăn".

 

Có Bí-sô già bệnh ốm yếu, khi ăn không thể mang thêm y. Phật dạy:

 

- Khi ăn nên mặc y lót mồ hôi Tăng Khước Kỳ, không phạm.

 

Lại có Bí-sô bệnh cũng không thể mặc y Tăng Khước Kỳ. Phật dạy:

 

- Nếu người bệnh nặng, nên ở chỗ khuất, chớ cho người ngoài thấy, thì được tùy ý chỉ mặc quần mà ăn.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Lục chúng Bí-sô tắm trần truồng nơi sông A Thị La. Người thế tục thấy vậy hỏi nhau:

 

- Ai vậy?

 

Có người nói:

 

- Đó là ngoại đạo lõa hình đang tắm dưới sông.

 

Có người nói:

 

- Đấy là Thích-ca tử.

 

Họ đều chê bai nói:

 

- Giáo chủ của họ rất biết tàm quý, tại sao đệ tử lại vô sỉ như vậy ... cho đến Phật suy nghĩ: "Các Bí-sô lõa hình tắm có những lỗi như vậy". Ngài chế:

 

- Các Bí-sô không được tắm truồng, ai vi phạm bị tội vượt pháp; nhưng các Bí-sô nên sắm quần tắm.

 

Khi Phật cho phép sắm y để tắm, Bí-sô may y tắm hai lớp. Phật dạy:

 

- Sợ có trùng chui vào nên không được dùng. Nếu ai chỉ có y tắm kép không có loại đơn thì xem kỹ nước không trùng mới tắm.

 

Có người chỉ dùng ba y, sợ trái pháp nên không dùng y tắm. Phật dạy:

 

- Nên thủ trì rồi giữ để dùng.

 

Lại có người nghèo nên không có y này. Phật dạy:

 

- Nếu không thể nào có, dùng dây buộc lá che trước và sau lại, tắm nơi khuất không để cho người khác thấy, thì không phạm.

 

Bí-sô tắm xong sợ y có trùng nên không vắt y cho ráo nước. Phật dạy:

 

- Y một lớp chắc trùng không bám, nhưng khi vắt nước tìm cách giũ ra, đừng cho trùng bám.

 

 

 

Nhiếp tụng tám trong biệt môn thứ nhất.

 

    Đậu sinh bất tịnh địa

    Thổ địa chỉ thọ sách

    Đồng khí bất ưng vi

    Thạnh diêm đẳng tùy xúc.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có cụ thọ Bí-sô Hiệt Ly Bạt Đểâ đối với việc gì cũng nghi ngờ, nên người đương thời gọi là Hiệt Ly Bạt Để đa nghi. Vào lúc nọ trong nhà xí, vị này thấy hạt đậu mọc lá nên tự nghĩ:

 

- Ta làm tổn hại hạt sống.

 

Vào lúc khác, trong Tăng làm nhiều bánh ngọt bằng đậu xanh, vị ấy không dám ăn. Các đệ tử hỏi:

 

- Thưa Ô Ba Đà Da, trong Tăng làm nhiều bánh ngọt đậu xanh, vì sao thầy không ăn?

 

Đáp:

 

- Chẳng lẽ ta làm tổn hại hạt sống hay sao?

 

Đệ tử hỏi:

 

- Việc này như thế nào?

 

Vị này kể lại sự việc đã thấy khi trước. Bấy giờ, đệ tử cũng không dám ăn. Những người quen của họ hỏi:

 

- Vì sao thầy không ăn?

 

Họ kể lại lời thầy đã nói. Bấy giờ, Hiệt Ly Bạt Để có nhiều môn đồ nên họ truyền rộng ra, cho đến cả chúng đều không ăn. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trong các loại đậu có hạt không chín dù nấu đã lâu, sau khi ăn nó mọc lại. Loại này đã nấu qua, ăn không có lỗi.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Cụ thọ Ô Ba Ly thưa với Thế Tôn:

 

- Nơi đất không sạch có mọc cây ăn trái, trái rơi nơi đất sạch, được phép ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Không nên ăn.

 

- Cây ăn trái mọc nơi đất không sạch, trái rụng nơi đất sạch, được phép ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Được ăn.

 

- Cây ăn trái mọc nơi đất sạch, trái rụng nơi đất không sạch được phép ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Nếu không để cách đêm thì được ăn.

 

- Đại đức! Cây mọc nơi đất sạch rụng trái nơi đất sạch, được ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Được ăn.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có Bà-la-môn đứng đầu về dạy học, được một bò đực, sau được bò đực, sau đó lại có thêm con đực, số bò cứ phát triễn như vậy và trở thành bầy. Người Bà-la-môn cho rằng con bò đực đầu tiên là may mắn nên không giết nó và thả tự do. Lúc bò này già yếu, một hôm khát nên xuống sông uống nước, bị lún xuống bùn không thể lên được. Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Phất đi ngang qua, thấy bò bị lún trong bùn nên quán sátthiện căn không, thấy có nó duyên với mình nên kéo ra khỏi bùn lấy nước rửa sạch và cho ăn cỏ uống nước. Tôn giả nói ba câu pháp với nó:

 

- Hiền thủ! Các hành vô thường, các pháp vô ngã, tịch diệt là vui; hãy sinh lòng tin với ta và sinh lòng nhàm chán thân súc sinh.

 

Sau khi nói xong, Tôn giả bỏ đi. Đêm ấy, khi bị chó sói ăn thịt, con bò này nghĩ: "Nếu có Thầy ta ở bên cạnh, chắc chắn ta không bị những khổ này", nên chú tâm tôn trọng ngài Xá Lợi Phất. Ngay lúc ấy nó qua đời và sinh vào nhà Bà-la-môn. Sau khi suy nghĩ: "Ta hãy xem lại con bò già kia", Tôn giả Xá Lợi Phất tác ý quán sát biết nó đã qua đời, đang thọ sinh ở đâu, Tôn giả thấy nó sinh vào nhà Bà-la-môn. Bấy giờ, Xá Lợi Phấthóa duyên nên đến nhà Bà-la-môn, thường đến nhà kia, vợ chồng đều thọ tam quy ngũ giới. Sau đó, một hôm Tôn giả đi một mình đến nhà kia. Trưởng giả hỏi:

 

- Vì sao Tôn giả đi một mình không có thị giả? ... như nói rõ ở trên.

 

Sau đó tám, chín tháng, họ sinh một bé trai mặt giống như bò. Vào ngày đầy tháng, bà con tụ họp, đứa bé được bồng ra để xin mọi người đặt tên. Mọi người bàn nhau:

 

- Bé trai này diện mạo giống bò chúa, nên đặt tên là Ngưu Chủ ... nói rộng như nhân duyên của Tôn giả Thiện Hòa ... xuất gia thọ Cận-viên, chứng A-la-hán. Do nghiệp lực đời trước nên trong cổ Tôn giả có hai cuống họng, một mửa vật sống ra, một nuốt vật chín. Khi Phật chưa chế giới ăn phi thời thì Tôn giả ở chỗ vắng ói ra rồi ăn lại. Sau khi Phật chế giới thì vị này ói luôn ra ngoài.Đã không ăn được nên thân hình vị ấy tiều tụy. Thế Tôn thấy vậy, biết mà cố hỏi cụ thọ A Nan Đà:

 

- Vì sao Bí-sô Ngưu Chủ thân hình quá gầy ốm tiều tụy vậy?

 

A Nan Đà đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ai do túc nghiệp nên có hai cuống họng, khi thức ăn ói ra nên nhả ra ngoài ba lần, sau đó súc sạch miệng, rồi tùy ý nuốt, thì không phạm.

 

Có những Bí-sô đã ăn no xong, trong cổ họng lại trào thức ăn ra nên sinh ý nghi: "Ta có phạm giới ăn phi thời hay không?". Phật dạy:

 

- Nếu gặp trường hợp như vậy nên súc sạch miệng, thì không phạm.

 

Sau khi Bí-sô Ngưu Chủ xuất gia, nhiều người thế tục cùng sinh chê bai, nói:

 

- Sa-môn Thích tử cùng nhau làm việc phi pháp nên cho xuất gia những người hình dáng xấu xí như Ngưu Chủ.

 

Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

" Thánh đệ tử của Ta, đức độ như núi Diệu cao, dễ làm cho mọi người sinh đố kỵ. Do việc này, Bí-sô Ngưu Chủ không nên ở nơi thành phố đông người". Thế Tôn bảo Ngưu Chủ:

 

- Từ nay về sau, thầy không nên ở nơi thành phố trung tâm, nên ra chỗ biên phương.

 

Nghe Phật dạy xong, Tôn giả bạch Phật:

 

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.

 

Sau đó vị này rời khỏi rừng Thệ Đa, đến sống an ổn nơi cung Thế Lị Sa. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Trong các đệ tử sống nơi biên phương của Ta, Ngưu-Chủ là tối thượng.

 

Khi ấy, các Bí-sô đều có nghi ngờ, thưa với Thế Tôn:

 

- Cụ thọ Ngưu Chủ từng làm việc gì, mà do nghiệp ấy tuy sinh làm người lại có hình dáng trâu, được xuất gia tu hành trong Phật pháp, chứng quả A-la-hán?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Bí-sô Ngưu Chủ do nghiệp trước đây đã làm tăng trưởng thuần thục, tự thọ trở lại rộng như đã nói ở trên. Các thầy hãy lắng nghe, vào thời quá khứ, trong Hiền-kiếp này khi loài người thọ hai vạn tuổi, có Phật Ca Nhiếp Ba xuất hiện trong đời, đầy đủ mười hiệu. Ngưu Chủ từng xuất gia tu tập trong giáo pháp của Phật ấy. Thân giáo sư của vị ấy là bậc A-la-hán làm thượng thủ trong chúng, tuồi tác già nua, thân hình ốm yếu không tự ăn được. Bấy giờ Ngưu Chủ thường phục vụ thầy ăn, sau khi thu dọn bát, rửa sạch rồi cùng các Bí-sô khác ở một nơi tụng tập.Sau đó, vì thầy ăn chậm nên rửa bát hơi trễ, bạn đồng học hỏi:

 

- Vì sao đến muộn vậy?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Thầy tôi mới vừa ăn xong.

 

Vào hôm khác, đệ tử đã ăn xong, sau khi rửa bát đến chổ vị thầy, thấy ăn chưa xong nên nổi sân:

 

- Vì sao ăn chậm như bò già vậy!

 

Vị thầy suy nghĩ: "Nó đang giận dữ, nếu ta nói ra tất cơn giận nó bùng ra, chờ khi hết giận mới nói cho biết". Khi đệ tử hết giận, vị thầy mới hỏi:

 

- Cụ thọ, ngươi nói gì vậy?

 

Đáp:

 

- Con nói thầy ăn chậm chạp như con bò già.

 

Thầy nói:

 

- Này cụ thọ, không biết ta là hạng người nào hay sao?

 

Đáp:

 

- Con biết thầy là người xuất gia trong giáo pháp đức Phật Ca Nhiếp Ba, con cũng xuất gia trong pháp luật này. Thầy bảo:

 

- Thánh tử! Việc này đúng như vậy. Việc phải làm của người xuất gia ta đã làm xong, ta đã thoát các triền phược, người còn đủ triền phược. Người nói với ta bằng lời thô ác, nên ân cần chí tâm sám hối tội lỗi, như vậy mới trừ diệt được ác nghiệp. Đệ tử nghe xong, chí tâm sám hối. Các Bí-sô biết không, do thời quá khứ vị ấy tạo ra nghiệp xấu vì nói thô ác với vị A-la-hán, bị thọ thân bò trong năm trăm đời, cho đến ngày nay vì nghiệp dư tàn chưa hết nên còn mang hình dáng loài bò. Do vị ấy siêng năng làm việc tụng tập nên được xuất gia trong giáo pháp của Ta, đoạn trừ các nghiệp phiền não chứng A-la-hán.

 

Các Bí-sô lại thưa với Phật:

 

- Do làm nghiệp gì mà Bí-sô Ngưu Chủ được Thế Tôn cho ở biên phương và khen là đệ nhất.

 

Phật dạy:

 

- Do phát nguyện lực.

 

- Từng phát nguyện gì?

 

- Vào thời Phật kia vị ấy xuất gia tu tập cho đến trọn đời nhưng đối với môn thắng diệu không chứng đắc gì cả.Trong các đệ tử của Phật Ca Nhiếp Ba, thầy của vị ấy là người trú ở biên phương thọ dụng y thực được tôn xung là số một. Thấy như vậy, vị ấy phát nguyện:

 

- Ta xuất tu tập với đức Phật kia, đến trọn đời cũng chưa chứng được gì trong Thắng Diệu môn, ta nguyện đem công đức siêng năng tu tập này, theo như đức Phật thọ ký cho Ma Nạp Bà, trong đời vị lai khi loài người sống 100 tuổi có Phật Thích Ca Mâu Ny xuất hiện trong thế gian, ta sẽ xuất gia trong giáo pháp của đức Phật ấy, đoạn trừ các phiền não chứng quả A-la-hán. Trong những đệ tử của Phật, bổn sư của ta là vị trú ở biên phương, thọ dụng y thực được khen là đ? nhất. Trong hàng đệ tử của Phật tương lai, ta nguyện thọ dụng y thực ở biên phương cũng như vậy. Do nguyện lực kia, nên vị ấy thọ kết quả này. Các thầy nên biết, do nghiệp thuần đen ... như nói rộng ở trên.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Lục chúng Bí-sô chỉ thị đòi thức ăn, hãy đưa ta vật này, đưa ta vật kia ... làm cho người phục vụ mất cả trật tự. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên chỉ thị đòi thức ăn, ai cố vi phạm bị tội vượt pháp. Nếu không có lửa, đòi vật chín không phạm; nếu lửa quá mạnh, lấy vật sống không lỗi.

 

* Duyên xứ như trước. Cụ thọ Ô Ba Nan Đà đến nhà thợ đồng, hỏi:

 

- Hiền thủ! Có thể làm bát bằng đồng không?

 

Đáp:

 

- Đây là nghề của con, có gì không làm được; không biết ngài cần bát lớn hay nhỏ?

 

Đáp:

 

- Làm lớn cở ...

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Bát lớn như vậy, ngài dùng làm gì?

 

Đáp:

 

- Này người ngu si! Chẳng lẽ ngươi chẳng lấy tiền, làm không cho ta hay sao.

 

Sau khi suy nghĩ: "Làm lớn theo ý họ, ta có hại gì". Người thợ làm bát lớn. Lục chúng thấy bát, nói:

 

- Hãy làm bát nhỏ hơn đặt vừa trong bát này.

 

Cứ lần lượt như vậy cho đến bảy cái. Sau khi làm xong, họ sai đệ tử lau chùi cho sạch bóng, dùng chỉ ngũ sắc đan lưới đựng bát, đan chồng nhiều lớp đặt bát vào trong, sai cầu-tịch đội trên đầu mà đi. Khi có nơi thỉnh thì họ đem đi trước, đến nhà thí chủ, sau khi an tọa bày bát này ở trước. Cư sĩ Bà-la-môn thấy vậy hỏi:

 

- Chẳng lẽ các vị mở hàng bán đồ đồng hay sao?

 

Đáp:

 

- Này kẻ ngu! Ngươi không biết gì cả, cái thứ nhất đựng cơm, thứ hai trữ mì, thứ ba để bánh, thứ tư đặt đồ kho, thứ năm nhận canh rau, thứ sáu chứa sữa và lạc, thứ bảy thêm vật gia vị.

 

Người tục nói:

 

- Nếu vậy, phải cần thêm vật chứa nữa, để đựng thức ăn uống nhiều hơn thế nầy. Họ nghe chê như vậy, im lặng không biết nói gì.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

- Vì các Bí-sô chứa bát đồng nên có lỗi như vậy, nên Ngài chế Bí-sô không được chứa bát bằng đồng, ai vi phạm bị tội vượt pháp. Ai chứa muỗng đồng, mâm đựng muối, chén uống nước bằng đồng, không phạm. Nếu là vật khác, sử dụng không phạm.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ năm hết.

 

--- o0o ---

 

 

Quyển thứ sáu

 

--- ooOoo ---

 

Nhiếp tụng chín trong biệt môn một:

 

    Ưng vi tẩy túc xứ

    Cập dĩ trạc túc bồn

    Nhiệt thời tu phiến thính

    Văn trùng khai ngũ phất.

 

* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô rửa chân bừa bãi ở khắp nơi trên đất, làm cho nhiều ruồi bu lại những chỗ ấy. Có những Bà-la-môn cư sĩ đến chùa thấy những nơi rửa chân ấy, hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao những nơi này ruồi trùng bay lượn lu bù vậy?

 

Đáp:

 

- Đó là nơi chúng tôi rửa chân.

 

Họ nghe nói vậy nên bất mãn chê bai:

 

- Sa-môn Thích tử sống nhơ bẩn, tùy tiện rửa chân khắp nơi.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được rửa chân bừa bãi khắp nơi, nên chọn góc Đông Nam chùa làm nơi rửa chân.

 

Như Phật dạy xếp đặt chỗ rửa chân, Bí-sô không biết nên làm thế nào? Phật dạy:

 

- Nên làm như hình mai rùa.

 

Bí-sô làm xong nhưng quá trơn nên không thể chà chân, Phật dạy:

 

- Nên làm cho nhám. (Nơi rửa chân này cũng có thể tắm rửa, Chùa và gia đình ở phương Tây đều có, lớn nhỏ không chừng, làm nơi đất trống, hoặc lớn như cái giường, hoặc nhỏ như nữa chiếc chiếu, bốn bên xây gạch cao chừng một thước, giữa lát gạch, xây hình lưng rùa; dùng đá than bùn cho nước rửa không thấm qua, làm ống thoát bên cạnh cho nước chảy ra ngoài, cần thiết cho việc rửa chân và thân.)

 

Có Bí-sô già thân thể suy nhược không thể đi đến nơi rửa chân. Phật dạy:

 

- Nên nuôi người chấp sự để họ rửa chân và nên làm bồn rửa chân.

 

Lục chúng Bí-sô nghe Phật cho phép, liền dùng vàng bạc lưu ly làm bồn rửa chân. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn cho phép làm bồn rửa chân. Chính là vật này.

 

Họ nói:

 

- Thánh giả! Ngài tuy cạo tóc nhưng tham dục không giảm.

 

Đáp:

 

- Đạp vào cổ ngươi, ta có lỗi gì! Ngươi chẳng phải là Thầy ta, việc gì lại chê trách?

 

Người tục sinh bất mãn chê bai. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vật để rửa chân không nên dùng bằng vật quý, nên làm bằng đất .

 

Bí-sô làm như hình con lạc đà. Phật dạy:

 

- Không được! Nên làm như dấu chân voi in trên đất, bên trong hơi cao để vừa chân, hoặc bên trong làm hình gương sen, nên chà sạch chỗ nhám.

 

Bí-sô dùng vật rửa chân xong, vứt bỏ bừa bãi. Phật dạy:

 

- Không nên, nếu là vật của Tăng thì cất chỗ kín khuất, nếu vật của cá nhân thì để sau cửa.

 

* Duyên xứ như trước. Vào tiết mùa xuân, Bí-sô bị bệnh nhiệt, thân thể vàng ốm gầy yếu không chịu nổi. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao thân thể vàng ốm gầy yếu không có sức lực vậy?

 

Đáp:

 

- Thời tiết mùa xuân chúng tôi khổ vì nóng .

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao không dùng quạt.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Thế Tôn không cho phép.

 

Nói:

 

- Đại sư của quý vị có lòng từ bi, nếu biết các vị khổ vì nóng chắc chắn cho dùng quạt.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép Bí-sô dùng quạt.

 

Lục chúng Bí-sô nghe Phật cho phép dùng quạt, liền dùng vàng bạc lưu ly, đá đỏ tía chạm vào, các loại màu sắc để trang trí cán quạt. Người tục thấy vậy nên bất mãn chê bai. Lục chúng vẫn ngạo mạn như trước ... cho đến Phật dạy:

 

- Không nên dùng vật quý làm cán quạt, nên biết quạt có hai loại, một làm bằng tre, hai dùng bằng lá.

 

Khi ấy có những người tục với nhiều tín tâm đem nhiều loại quạt vẽ màu sắc, đến dâng cho Bí-sô. Bí-sô không nhận; Phật dạy:

 

- Nếu nhận cho Tăng, không phạm.

 

* Duyên xứ, tại giảng đường Cao Các, bên ao Di Hầu, thành Quảng Nghiêm. Bí-sô bị trùng muỗi cắn, thân thể sinh ghẻ nên gãi không ngừng. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao như vậy?

 

Họ kể lại sự việc.

 

- Thhánh giả vì sao không dùng phất đuổi muỗi?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép ... nói đầy đủ như trước, cho đến đem sự việc bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Ta cho phép các Bí-sô sắm vật đuổi muỗi.Nghe Phật cho phép sắm phất đuổi muỗi, Lục chúng Bí-sô liền làm cán phất bằng vật quý, dùng đuôi trâu mao làm phất. Người tục thấy vậy ... như trước, cho đến Phật nói:

 

- Có năm loại phất đuổi muỗi, một làm bằng lông dê mượt, hai làm bằng sợi gai, ba làm bằng vải bố xé mịn, bốn làm bằng vật cũ phá ra, năm làm bằng nhánh đọt cây. Nếu dùng vật báu bị tội tác ác.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ mười trong biệt môn thứ nhất:.

 

    Kiết hạ quần bất cao

    Bất trì ư trọng đảm

    Nhược bệnh hứa trượng lạc

    Phục toán đẳng tùy thính.

 

* Duyên xứ như trước. Như lời Phật dạy:

 

- Bí-sô nên hỗ trợ người làm việc của Tăng.

 

Có việc cần làm, Bí-sô nọ leo lên thang, những người ở dưới nhìn lên thấy hình thể vị kia, nói:

 

- Thánh giả! Đến nay tôi mới biết ngài là đàn ông vì có đủ nam căn.

 

Vị đang ở trên thang xấu hổ nên im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Bí-sô leo thang không túm hạ y nên có lỗi như vậy". Ngài dạy các Bí-sô:

 

- Nếu người làm việc cần phải leo thang, nên túm hạ y rồi mới leo lên cao.

 

Lại có Bí-sô khi làm việc túm hạ y quá cao, kẻ thế tục không tín tâm thấy vậy chê cười, hỏi:

 

- Thánh giả muốn đánh lộn phải không?

 

Đáp:

 

- Ta đang có việc cần làm.

 

Họ nghe nói im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu cần leo thang nên túm hạ y, làm trên mặt đất thì không cần. (Nói túm hạ y là giữ biên dưới của y túm ra sau, buộc chặt giữa eo trước)

 

Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô tự vác vật nặng. Người bất tín thấy vậy hỏi:

 

- Tôi vì sợ cha mẹ vợ con không đủ sống nên phải đem thân gánh vác nặng nề, các ngài vì sao cũng ra sức chịu khổ nhọc vậy?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Chúng tôi có nhiều việc, một là cúng dường Thế Tôn. Hai là việc ăn uống của Tăng. Ba sử dụng cần thiết khi bệnh hoạn. Vì lý do này nên phải vác nặng.

 

Họ im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không gánh vác vật nặng. Ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên tại núi Thứu Phong, thành Vương Xá, có Bí-sô già đi lên xuống núi, bị vấp chân té ngã. Phật dạy:

 

- Nên sắm gậy.

 

Nghe Phật cho sắm gậy, Lục chúng Bí-sô dùng vàng bạc ... và các vật nhiều màu chạm vẽ trên gậy. Người tục thấy vậy cùng nhau bất mãn chê bai. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Này Bí-sô! Có hai trường hợp sắm gậy, một già yếu không có sức, hai bị bệnh nặng.

 

Có Bí-sô giả vờ già bệnh nên sắm gậy chống, Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ai thật già bệnh nên xin với Tăng già yết ma súc trượng. Nếu Tăng già cho phép, nên tiến hành theo trình tự: Trải tòa, đánh kiền chùy, thưa với tất cả, đại chúng tập họp lại xong, khi ấy Bí-sô già, bệnh ngồi xổm trước thượng tọa, chắp tay thưa:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Tôi Bí-sô tên ... già bệnh suy nhược, hoặc bệnh, không có gậy thì không thể nương vào đâu, nay cầu xin Tăng già cho yết ma súc trượng. Nguyện đại đức Tăng cho tôi là Bí-sô ... yết ma súc trượng. Tôi là người đáng từ mẫn, nguyện xin từ mẫn (thưa ba lần).

 

Thứ đến sai một Bí-sô tác bạch yết ma:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Bí-sô ... này già bệnh suy nhược, hoặc bị bệnh, nếu không có gậy thì không thể nương vào đâu, nay cầu xin Tăng già cho yết ma súc trượng. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng già cho Bí-sô ... vì già yếu hoặc bị bệnh, yết ma súc trượng. Đây là lời tác bạch (yết ma làm theo văn tác bạch). Ai được Tăng già cho yết ma súc trượng rồi, chống gậy không phạm.

 

* Duyên tại thành Vương Xá. Có những Bí-sô già yếu, lại thêm bệnh phong, khi lên xuống núi Linh Thứu trượt chân ngã ra đất, bình rửa bình lược nước đều bị vỡ. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nên sử dụng lưới bọc.

 

Lục chúng nghe vậy, dùng tơ ngũ sắc làm lưới bọc, bị người tục bất mãn chê bai.. hỏi đáp như ở phần sắm gậy. Nếu ai cần cả gậy và lưới bọc, cùng làm yết ma một lần không có lỗi. Sau khi được cho phép, sử dụng không phạm.Duyên tại thành Thất La Phạt. Có Bí-sô sau khi ăn tỏi, đến gặp đức Phật, làm lễ sát hai chân, đứng qua một bên. Phật dạy:

 

- Này Bí-sô! Hãy ngồi xuống nhất tâm nghe Ta thuyết pháp.

 

Nghe Phật bảo, Bí-sô lạy Phật lần nữa và ngồi qua một bên. Trong lúc nghe Phật thuyết pháp, vị này thường quay mặt qua chỗ khác vì sợ mùi hôi xúc phạm Thế Tôn. Như vậy đến ba lần, Thế Tôn đều bảo:

 

- Bí-sô thầy hãy nhất tâm nghe lời Ta dạy.

 

Bí-sô vẫn cứ quay mặt qua chỗ khác đến lần thứ ba, rồi lạy sát chân Phật, từ giã ra đi. Thế Tôn biết nhưng vẫn hỏi:

 

- Này A Nan Đà, vì sao Bí-sô kia khi nghe Ta thuyết pháp thường quay mặt chỗ khác.

 

A Nan Đà thưa:

 

- Vì vị ấy ăn tỏi, sợ mùi hôi xúc phạm đến tôn nghi nên thường quay mặt nơi khác.

 

Phật hỏi A Nan Đà:

 

- Các Bí-sô có ăn tỏi à?

 

Đáp:

 

- Có.

 

Phật nói:

 

- Do vị ấy ăn tỏi nên bị trở ngại việc đi vào Thánh đạo, vừa rồi nếu không ăn tỏi, nghe Ta thuyết pháp dùng trí tuệ như chày kim cương phá tan núi lớn hai mươi lăm thân kiến, đắc quả Dự lưu. Thế nên, này A Nan Đà, từ nay về sau chế định các Bí-sô không nên ăn các loại hành tỏi. Ai ăn bị tội vượt pháp.

 

Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất đang ngồi trong chúng, suy nghĩ: nay Bí-sô này không được kiến đế, ngày mai có được không? Tôn giả quán sát biết ngày mai vị ấy cũng không có duyên thấy được đế lý, liền nhập vào tịnh-lự thứ tư, quán sát về sau này cũng không thấy ngày vị ấy chứng thánh, nên xuất định và nói kệ:

 

    Vì trong thời gian ngắn

    Tán tâm, không chánh niệm

    Nên vị ấy đời sau

    Không thấy chân-đế-lý.

 

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của Xá Lợi Phất nên bảo:

 

- Này Xá Lợi Tử! Ông không nên suy lường về cảnh giới của Phật, nó vượt trên tất cả cảnh giới của Thanh vănBích chi Phật. Trong tương lai có Phật ra đời hiệu là Nhất Thiết Tôn.

 

Người này xuất gia tu tập trong Phật pháp ấy, đoạn trừ hết các lậu chứng quả A-la-hán. Đức Phật suy nghĩ:

 

- Ăn tỏi nên Bí-sô kia bị trở ngại việc thấy chân lý, vì vậy Bí-sô không nên ăn tỏi. Ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

Có Bí-sô bị bệnh nặng, đến gặp thầy thuốc, nói:

 

- Hiền thủ! Tôi bị bệnh như vậy, mong ngài chữa trị cho.

 

Đáp:

 

- Thánh giả hãy ăn tỏi thì hết bệnh.

 

Bí-sô:

 

- Hiền thủ! Thế Tôn không cho ăn.

 

Thầy thuốc:

 

- Bệnh này thuốc khác không trị được.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Phải dùng thuốc này mới hết bệnh, dùng không phạm.

 

Bí-sô nghe dạy, bị bệnh dùng tỏi nên khi ở trong chùa, thọ dụng phòng nhà giường chỏng nệm chiếu chỗ đi đại tiểu, ra vào trong chúng, nhiễu bái tháp, lễ hương đài, đến thuyết pháp cho người thế tục, đến nhà thí chủ thọ thỉnh, đến nơi vườn cây, miếu thiên thần, vào giữa đám đông người, đến đâu mọi người đều nghe mùi hôi tỏi, nên sinh chê bai, nói:

 

- Sa-môn Thích tử tuy đã xuất gia mà vẫn dùng tỏi bay mùi hôi khắp, khác gì chúng ta!

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô có bệnh muốn ăn tỏi, Ta sẽ dạy cho cách làm. Các Bí-sô bệnh muốn dùng tỏi, nên ở phòng bên cạnh chùa, không được dùng ngoạ cụ của Tăng và phòng đi đại tiểu, không được vào giữa chúng, không được thuyết pháp cho người thế tục, không đi nhiễu tháp, không lễ bái hương đài, không đến nhà thế tục, không nên đến vườn cây miếu thờ trời chỗ đông người, nên dùng ở chỗ khuất; giả như có người thấy không sinh chê bai. Khi dùng xong, ở tại chỗ cũ trong bảy ngày, dùng hành thì ba ngày, dùng hẹ thì một ngày, sau đó tắm rửa thân thểy phục sạch, xông mùi thơm, không còn hôi rồi mới được vào chùa. Ai không làm theo sự chế định ở trên, bị tội vượt pháp.

 

(Hết phần biệt môn thứ nhất).

 

 

 

Tụng tổng nhiếp biệt môn thứ hai:

 

    Ngưu mao tinh suất cái

    Phi thiêm Thắng man duyên

    Xuất gia dược thang bình

    Môn phiến chùy cân phủ.

 

Tụng thứ nhất trong biệt môn hai:

 

    Ngưu mao cập ẩn xứ

    Đồng sàng bất độc phi

    Nhược đắc bạch sắc y

    Nhiễm phú phương ưng dụng.

 

* Duyên xứ như trước. Sau khi dâng rừng Thệ Đa cho tứ phương Tăng, một hôm Trưởng giả Cấp Cô Độc sai người cạo tóc vào chùa cạo râu tóc ... như trước. Ô Ba Nan Đà hỏi người cạo tóc:

 

- Ngươi có biết cắt kiểu lông bò không?

 

Đáp:

 

- Đây là tài nghệ của con, sao lại không biết?

 

Người thợ dùng dao kéo hớt kiểu lông bò, giữ tóc còn lại hai phần gọi là cắt kiểu lông bò. Ô Ba Đà Di lại bảo:

 

- Hớt ngắn đi một phần.

 

Cứ như vậy, cuối cùng bảo:

 

- Người là kẻ ngu không biết cắt tóc, hãy cắt sạch tóc rồi cho ngươi về nhà ... nói rộng như trước cho đến Phật dạy:

 

- Bí-sô không cắt tóc kiểu lông bò, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Thế Tôn dạy:

 

- Không cho Bí-sô cắt tóc hình lông bò, có Bí-sô bị mọc mụt trên đầu, khi dùng dao cạo tóc thì rất đau khổ.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên dùng kéo cắt tóc chỗ có mụt, phần còn lại cạo như thường.

 

* Duyên xứ như trước. Trưởng giả sai người cạo tóc cho Tăng như trên ... Ô Ba Nan Đà thấy vậy bảo:

 

- Ngươi có thể làm sạch lông chỗ kín cho ta không?

 

Đáp:

 

- Đó nghề của tôi.

 

Cũng như trước, Ô Ba sai họ làm mãi đến chiều mới cho về, nên người thế tục chê bai. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được cạo lông ở ba chỗ kín, ai cạo bị tôi vượt pháp.

 

Có Bí-sô bị mụt chỗ kín, hoặc khi có trùng đau đớn khó chịu, phế bỏ việc tu tập. Phật dạy:

 

- Người có bệnh nên thưa với Bí-sô kỳ túc, sau đó giúp nhau cạo sạch lông chỗ vết thương, không nên nghi ngờ.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô nằm chung một giường, cùng nhau xô đẩy lôi kéo cười giỡn. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Cùng ngủ chung giường có những lỗi như vậy. Ai ngủ chung giường bị tội vượt pháp".

 

Có nhiều Bí-sô du hành trong nhân gian, đến một làng nọ, mượn giường của người khác, chủ nhân cho mượn một cái. Nói:

 

- Xin mượn thêm.

 

Đáp:

 

- Nhà tôi nhiều người ngủ chung một giường, tại sao Bí-sô lại đòi hỏi riêng, nhiều người nằm chung theo lý có hại gì?

 

Bí-sô đáp:

 

- Thế Tôn không cho.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu các Bí-sô có tâm tàm quý, giới hạnh đầy đủ thì trải vật lót thân, nằm chánh niệm tỉnh giác, giữa đặt túi đựng y hay đựng bát để cách ly nhau. Giường phải như vậy thì chiếu nệm khác căn cứ theo đây để biết.

 

* Duyên xứ như trước. Nhiều Bí-sô du hành nhân gian, đến một thôn nọ vào nhà trưởng giả xin chỗ nằm.Trời lạnh nên họ tìm vật lót nằm. Người trong nhà sinh tâm thương xót các Bí-sô nên đem vật lót nằm của mình cho các Bí-sô mượn. Ai mượn được trước thì dùng nằm một mình, người sau không có phải chịu nằm lạnh suốt đêm. Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên mượn được trước dùng nằm riêng, nên dùng chung và tùy theo vị già cả.

 

Sau đó, Ô Ba Nan Đà nhờ vị lớn tuổi nên được vật để nằm, liền dùng đắp đi kinh hành một mình, gặp đêm lạnh người khác phải chịu khổ . Vị nhỏ nói:

 

- Tôi chịu khổ lạnh, còn ngài kinh hành.

 

Ô Ba Nan Đà nói:

 

- Ai ngăn không cho các ngươi kinh hành.

 

Các Bí-sô ấy phải chịu lạnh suốt đêm. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi mọi người cùng được vật để nằm nên dùng đắp chung, nếu cần kinh hành thì dùng vật riêng của mình. Ai dùng vật của chung, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Vào tháng mùa đông, Bí-sô bị lạnh, co ro nằm nghiêng một bên. Khi trưởng giả Cấp Cô Độc vào chùa, thấy các Bí-sô co ro nằm nghiêng một bên, hỏi:

 

- Thánh giả! Giáo pháp của Bậc Đại Sư chú trọng ở tinh cần, tại sao quý vị mãi co ro nằm để ngày trôi qua trống rỗng, không tu thiện pháp?

 

Bí-sô đáp:

 

- Tâm có hỷ lạc mới có thể tu thiện pháp, đang bị lạnh cóng, làm sao tinh tấn được, tôi đang bị lạnh cóng nào ai biết được.

 

Trưởng giả từ giã, về đến nhà lấy năm trăm xấp vải choàng bằng bạch điệp dày gửi cúng chư Tăng. Bấy giờ, các Bí-sô lấy mặc và ra ngoài du hành. Người thế tục bất tín thấy vậy có ý bất mãn chê bai, hỏi:

 

- Thánh giả! Chả lẽ các ngài đều hoàn tục hết hay sao?

 

Đáp:

 

- Các người không nên nói như vậy, chúng ta vì lạnh nên mặc y phục thế tục này.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được mặc y phục thế tục, nếu có việc cần dùng, lấy vật hoại sắc phủ trên y phục thế tục rồi mới được mặc. Nếu áo choàng của tăng, phải dùng vật hoại sắc lót phủ bên trong và bên ngoài, sau đó mới được mặc, làm khác vậy, bị tội.

 

 

 

Nhiếp tụng hai trong biệt môn thứ hai:

 

    Suất cái vô hậu thế

    Ca thanh bất phóng hỏa

    Du hành mích y chỉ

    Mao thiêm bất phiên phi.

 

* Duyên xứ như trước. Trong thành này có một cư sĩ thường buôn bán y vật để sinh sống. Sau đó ông ta thu nhập nhiều của cải, nghĩ rằng: "Có phương pháptu phước nghiệp để được nhiều lợi ích". Cư sĩ này vốn có tín tâm nên suy nghĩ: "Ta nên thỉnh Phật và Tăng, trải tấm vải đẹp lên tòa, dọn các món ăn thơm ngon, cúng dường y phục thực phẩmphước điền lớn, nhờ nhân duyên cúng dường này ta được nhiều lợi ích". Sau khi suy nghĩ, ông ta đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài rồi đứng qua một bên, bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Ngưỡng mong Phật và Tăng vào sáng mai đến nhà con nhận cúng dường vật mọn, nguyện Ngài từ bi nhận lời thỉnh cầu.

 

Đức Phật im lặng nhận lời. Biết như vậy, trưởng giả lễ Phật từ giã.Về nhà, ông ta dọn các món ăn uống thơm ngon nhất, xếp đặt tòa ngồi tốt đẹp trải bằng tấm vải tối thượng và sai sứ giả đến bạch với Phật:

 

- Bữa ăn đã dọn xong xin Phật biết tùy thời.

 

Bấy giờ đại chúng đều đến nhà ấy, chỉ có đức Phật và người tri sự ở lại chùa. Chư Phật Thế Tôn có năm nhân duyên giữ vị tri sự lại để lấy thức ăn cho Phật. Thế nào là năm?

 

    Một: Muốn yên tịnh xa lánh nơi ồn ào.

    Hai : Muốn giảng pháp yếu cho chư Thiên.

    Ba : Muốn xem xét người bệnh.

    Bốn: Muốn xem xét ngọa cu.

    Năm: Muốn chế học xứ cho các đệ tử.

 

Hiện nay, Thế Tôn muốn chế học xứ. Trong khi các Bí-sô đang trên đường đi đến nhà thí chủ, gặp phải mưa lớn nên y phục đều ướt. Đến nhà, họ ngồi vào tòa làm cho ố bẩn tấm vải trải. Cư sĩ thấy vậy rất bực bội bất mãn, nên suy nghĩ: "Các tấm vải của ta đều bị hỏng, vậy ta nên đem chúng cho các Bí-sô". Suy nghĩ xong, họ thưa:

 

- Thánh giả! Con dâng hết những vật lót ngồi, quý vị tùy ý mang đi.

 

Bí-sô đáp:

 

- Hãy chờ thưa với Thế Tôn, chẳng biết Ngài có cho phép không!

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Các thầy nên biết, nếu cư sĩ vốn không có ý dâng cúng, cho vì bất mãn thì không được nhận.

 

Các Bí-sô vâng lệnh Phật dạy nên sai người đến nói với cư sĩ:

 

- Quý vị biết cho, đức Phật dạy: nếu chẳng phải cư sĩ có ý dâng trước, dâng chỉ vì bất mãn thì không được nhận.

 

Cư sĩ ấy nghe nói như vậy, sinh tâm rất cung kính, suy nghĩ: "Những tấm vải này nếu ta đem bán thì giá trị không được một nữa, các Thánh giả đã làm cho hoại sắc, nếu họ sử dụng thật là thích hợp". Ông ta mang những tấm vải này đến chùa, thưa với Thánh chúng:

 

- Trước đây con không có ý bỏ vật này, nhưng nay thật tâm đem dâng cúng chư Tăng, xin vì con mà nhận và nhuộm để sử dụng. Xin quý ngài nên che tán, dù để y không bị ướt.

 

Đáp:

 

- Cư sĩ hãy chờ ta thưa với Phật.

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trước đó, cư sĩ không có tâm muốn cúng, nay quyết ý đem dâng chúng Tăng, các thầy nên nhận nhuộm rồi mặc vì lợi ích cho người hiện tiền chớ nghi ngại. Vì vậy, từ nay Ta bảo các Bí-sô nên che lọng, dù, ai không che bị tội vượt pháp.

 

Lục chúng Bí-sô nghe Phật cho che tán, dù, liền làm cán lọng, dù bằng vàng ... bốn loại báu, và vẽ vời các màu tía rực rỡ, dùng lông chim công lợp ở trên. Bà-la-môn cư sĩ thấy vậy bất mãn chê bai, hỏi đáp như trước ... cho đến Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên che loại lọng, dù như vậy. Có hai loại dù: 1.- Bằng tre; 2.- Bằng lá.

 

Lục chúng nghe Phật cho phép sắm dù liền sắm tán cán dài, giương lên đi lại giữa thành. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Người che tán là vị thương chủ nào, hay là trưởng giả đại phú từ phương khác đến?

 

Mọi người cùng tập trung lại vị kia xem hỏi, thấy là Bí-sô nên cùng sinh bất mãn ... cho đến Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên làm tán cán dài, nên dài bằng hai khuỷu tay hay dài bằng dù ... lại nữa, khi vào làng xóm không nên che dù.

 

Có Bí-sô đi theo đoàn buôn du hành nhân gian, đi đến một tụ-lạc, đường đi ngang qua trong xóm. Bí-sô che dù không dám vào xóm, đi bên ngoài xóm, bị lạc đoàn buôn, đi sau một mình nên bị giặc cướp. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu đường đi ngay trong xóm thì không được giương dù lên, ôm nghiêng một bên đi không phạm.

 

Có Bí-sô vào xóm khất thực, vì cán dù bẩn, không dám cầm đi, gặp mưa nên bị ướt y. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người khất thực rửa sạch cán dù rồi nên mang theo, khi tạnh mưa tùy chỗ mà gửi cất, khi muốn đi khỏi xóm, mới mang theo.

 

* Duyên xứ như trước. Có du sĩ ngoại đạo ở phương Nam, tên Ô Đà Di thuộc nhóm Lô Ca Da, bài bác không có đời sau, lần lượt đi khắp các nơi, đến Thất La Phiệt, muốn nghỉ ngơi nên vào rừng Thệ Đa.Trước hết, ông ta đến gặp Tôn giả Kiều Trần Như, nói:

 

- Này Bí-sô, tôi đến sư môn học ít chữ nghĩa, muốn cùng với ngài đàm luận chút ít.

 

Tôn giả đáp:

 

- Luận bàn kiêu ngạo không phải là việc của tôi, ông hãy tìm chỗ khác không nên ở đây.

 

Ông ta đến gặp Mã Thắng Bạt Đà La, Đại Danh Bà Sáp Ba, Danh Xứng Bộ Luật Noa, Ngưu Chủ Tỳ Ma La, Thiện Tý La Hổ La. Gặp vị nào, ông ta cũng nói:

 

- Này Bí-sô! Tôi đến sư môn học ít chữ nghĩa, muốn cùng Tôn giả đàm luận chút ít.

 

Các Tôn giả đều nói:

 

- Này Bà-la-môn, luận bàn kiêu ngạo không phải là việc của tôi, ông hãy tìm nơi khác không nên ở đây.

 

Lần lượt ông ta đến gặp Tôn giả Xá Lợi Tử, cũng hỏi như trước. Tôn giả Xá Lợi Tử liền nhập định quán sát, xem xét ngoại đạo này có thiện căn không?

 

    - Quán sát biết có Nhân duyên với ai?

    - Biết có duyên với mình, lại có người khác nhờ nghe luận nghị mà được điều phục không?

    - Quán sát thấy có bao lâu mới thành tựu?

    Trong vòng bảy ngày.

 

Sau khi biết như vậy, Xá Lợi Tử bảo:

 

- Người muốn tranh luận, thật là việc tốt, hãy tổ chức luận nghị trường tại chỗ ...

 

Vào ngày đầu tiên, Tôn giả Xá Lợi Tử lên trên tòa cao, đưa ra chủ trương của tông môn mình, cùng đàm luận với vị kia, mỗi khi xuống tòa thường chưa giải quyết hết ý nghĩa vấn đề. Như vậy từ hai, ba cho đến bảy ngày, tiếng đồn vang dậy khắp các nước cùng biết phương Nam có một ngoại đạo thuộc nhóm Lô Già Da, bài bác không có đời sau, tên là Ô Đà Di thông minh đại trí, du hành khắp nơi, đến Thất La Phiệt cùng Xá Lợi Tử lập luận với nhau, đã qua bảy ngày chưa phân thắng bại.Có vô lượng trăm ngàn chúng sinh có duyên đều vân tập đến. Có người phát tâm hoan hỷ, hoặc có thiện căn trước đây nay thuần thục. Tôn giả Xá Lợi Tử suy nghĩ:

 

- Người có duyên với ta, nhân nghe luận nghị mà được hóa độ, nên tập họp lại trong lúc này.

 

Tôn giả đem hết ý nghĩa ra giảng thuyết cho khắp mọi người. Khi ấy, ngoại đạo kia tin hiểu, tâm ý khai thông, chắp tay đứng dậy thưa:

 

- Đại đức! Con xin được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, mong ngài từ bi cứu tế cho con, được siêng năng tu tập phạm hạnh với đức Thế Tôn.

 

Xá Lợi Tử biết tâm chí thành của vị này nên cho xuất gia, thọ cận-viện và dạy bảo chánh pháp. Vị này tinh tấn phát tâm dũng mãnh, đoạn trừ sạch các lậu hoặc chứng quả A-la-hán. Khi ấy, tất cả đại chúng trong hội thấy sự việc này đều cho là việc hy hữu, cùng nói:

 

- Tôn giả Xá Lợi Tử thật là thông minh, đã dùng pháp chiến thắng ngoại đạo kiêu mạn, làm cho họ xuất gia.

 

Tôn giả quán sát căn cơ khác nhau và sự ưa thích không đồng của đại chúng, tùy theo túc duyên của họ mà thuyết pháp làm cho ức vạn chúng sinh nghe pháp đều được chứng ngộ khác nhau, hoặc chứng quả Dự Lưu Nhất Lai Bất Hoàn, hoặc xuất gia chứng quả A-la-hán, hoặc thọ Tam Quy và năm Học Xứ, ngoài ra đều phát sinh tín tâm sâu xa với Tam Bảo, chắp tay ân cần từ giã ra về.

 

Bí-sô đem sự việc này bạch Phật. Phật bảo:

 

- Này các Bí-sô, không phải khắp nơi đều có Xá Lợi Phất, người tương tự như vậy cũng không th? tìm, vậy nên Ta cho phép các Bí-sô học Lô Già Đa ... các loại ngoại đạo luận.

 

Các Bí-sô nghe Phật cho phép học luận thư bên ngoài, thì không biết chọn lựa, kẻ ngu muội cũng học ngoại thư. Phật dạy:

 

- Không nên cho kẻ ngu si ít trí tuệ không phân minh học ngoại thư. Người tự biết thông tuệ đa văntrí nhớ tốt, có thể chiến thắng ngoại đạo mới được học tập.

 

Những người thông minh trí tuệ mãi học ngoại điển không tu tập thiện pháp. Phật dạy:

 

- Không được như vậy.

 

Họ thường học tập ngoại điển. Phật dạy:

 

- Chia thành ba thời gian, hai thời đọc kinh Phật, một thời học tập ngoại điển.

 

Bí-sô chia năm, tháng thành ba thời gian. Đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Mạïng sống mau lẹ, vô định trong sát-na không nên chia năm tháng thành ba thời. Hãy chia một ngày làm ba thời gian.

 

Bí-sô học ngoại điển vào buổi sáng, buổi chiều đọc kinh Phật. Phật dạy:

 

- Vào sáng và sau trưa đọc kinh Phật, đến chiều tối mới xem ngoại điển.

 

Bí-sô đọc qua, không tụng thuộc văn, bỏ qua liền quên. Phật dạy:

 

- Nên tụng.

 

Họ không biết lúc nào nên tụng. Phật dạy:

 

- Như ngày có ba tiết, đêm cũng có ba thời.

 

* Duyên xứ như trước. Tôn giả Xá Lợi Tử cho hai người con nhà Bà-la-môn xuất gia, tên Ngưu Thọ và Ngưu Sanh và dạy hai người đọc tụng kinh pháp. Sau đó, hai vị này cùng nhau du hành nhân gian, đến một tụ lạc được nhiều lợi dưỡng nên ở lại thôn này. Trước khi xuất gia, hai vị này đã học pháp ca vịnh theo âm của Bà-la-môn, do tập quán này nên vẫn đọc tụng theo âm thanh ngôn từ cũ. Bỗng nhiên, một người bị bệnh qua đời. Người còn lại buồn rầu suy nhược, quên gần hết chuyện đã qua, nên trở về thành Thất La Phạt, vào rừng Thệ Đa. Sau khi nghĩ ngơi, đến gặp Tôn giả Kiều Trần Như, sau khi lễ bái, bạch với Tôn giả:

 

- Xin ngài ôn kinh cho con.

 

Đáp:

 

- Lành thay! Ta sẽ tụng cho ông nghe.

 

Khi Tôn giả tụng được ít nhiều, Bí-sô thưa:

 

- Kinh điển Tôn giả vừa tụng, văn từ đều sai lạc, âm vận không dài, có sự thiếu sót.

 

Đáp:

 

- Này con, xưa nay ta tụng tập như vậy.

 

Bí-sô làm lễ từ giã rồi đi đến gặp các Tôn giả Mã Thắng Bạt Đà La Đại Danh Bà Sáp Ba Danh Xưng Bộ Luật Noa Ngưu Chủ Tỳ Ma La Thiện Tý La Hổ La. Sau khi đến nơi, bạch:

 

- Tôn giả! Xin ôn kinh cho con.

 

Đáp:

 

- Lành thay, ta sẽ tụng cho ông nghe.

 

Khi Tôn giả tụng được ít nhiều ... như ở trước ... cho đến từ giã rồi đi đến Tôn giả Xá Lợi Tử, sau khi làm lễ, thưa:

 

- Ông Ba Đà Da xin ôn kinh cho con.

 

Đáp:

 

- Lành thay, ta sẽ tụng cho ông.

 

Khi đồng tụng, Bí-sô kéo âm vận dài, âm thanh của Xá Lợi Tử lại kéo dài hơn, nên Bí-sô thưa:

 

- Đại sư! Các Tôn giả khác đều đọc tụng nhầm lẫn, chỉ có câu và tiếng của thầy không sai.

 

Đáp:

 

- Ngươi là kẻ ngu si tự mình sai lầm, lại bài báng bậc trí khác tụng kinh không đúng. Các vị đại đức ấy đều không sai lầm.

 

Sau khi bị thầy đả phá, Bí-sô này phải im lặng. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

- Bí-sô tụng kinh với âm thanh kéo dài như ca vịnh, gây ra lỗi như vậy. Vì vậy Bí-sô tụng kinh không được kéo dài âm thanh như ca vịnh. Bí-sô nào dùng âm thanh Xiển Đà để tụng kinh điển, bị tội vượt pháp. Nếu ai theo tiếng địa phương cần phải kéo dài âm thanh, thì tụng vậy không phạm. (Xiển Đà là pháp đọc tụng của Bà-la-môn, kéo dài âm thanh, dùng ngón tay ra dấu để phân tiết đoạn, bác-sĩ đọc trước, những người khác đọc theo)

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU-BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ sáu hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ bảy

 

--- ooOoo ---

 

(Phần tiếp theo thuộc tụng hai, biệt môn hai).

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt, Lục chúng Bí-sô tuy tuổi già nhưng vẫn thường trạo cử, các Bí-sô khác nói:

 

- Quý vị tuổi đã xế chiều vẫn chưa ngừng trạo cử.

 

Họ nghe vậy im lặng, bảo với Nan Đà, Ô Ba Nan Đà:

 

- Bọn bát đen thật nhiều chuyện, nên làm việc dạy khôn. Chúng ta hãy gây sỉ nhục để bọn chúng xấu hổ.

 

Sau khi suy nghĩ, Lục chúng tìm cách.

 

Bấy giờ có nhiều Bí-sô kỳ túc, đến ngồi yên dưới gốc cây trong rừng vắng. Cùng đến đó, thấy họ đang thiền định, liền theo hướng gió thổi, Lục chúng đốt lửa ba mặt, rồi đến nơi xa nhìn lại. Bấy giờ, các vị kỳ túc thấy lửa cháy đến, kinh sợ đứng dậy theo hướng khói chạy ra.

 

Thấy vậy, Lục chúng nói:

 

- Các vị già cả chưa hết trạo cử, vì sao vụt chạy mất hết thứ tự?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Thầy không thấy lửa dữ cháy rừng hay sao, chạy có lạ gì?

 

Lục chúng nói:

 

- Chẳng lẽ Thế Tôn chế giới áp dụng khi bình thường, lúc ách nạn được vi phạm hay sao?

 

Đáp:

 

- Hay là các thầy gây ra hỏa hoạn này?

 

Lục chúng cười lớn nói:

 

- Chúng tôi cố ý muốn sỉ nhục các ông.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được đốt rừng hoang, ai vi phạm bị tội Tốt-thổ-la-để-dã.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có hai Bí-sô một già một trẻ cùng du hành nhân gian với nhau. Vị già có nhiều y phục vật dụng, vị trẻ chỉ có ba y. Vị già bảo trẻ:

 

- Cụ thọ hãy mang túi đựng y cho tôi, tôi quá mỏi mệt muốn nghỉ vai một lúc.

 

Vị trẻ thưa:

 

- Con muốn thưa vài lời xin ngài đừng giận trách.

 

Đáp:

 

- Thầy tùy ý nói, ai lại giận trách.

 

Vị trẻ nói:

 

- Trưởng lão lẽ nào chẳng thấy, Phật Pháp Tăng bảo đến đâu cũng được dâng cúng, hơi đâu mà chứa những vật ngu si này!

 

Vị già nói:

 

- Hiền thủ! Thầy không chịu mang, ai ép buộc thầy. Nhưng tôi hỏi thầy, thầy có phải là thân giáo sư hay quỹ phạm sư của tôi hay sao mà đem việc của tôi ra khuyên dạy?

 

Vị nhỏ im lặng. Vị lớn suy nghĩ: "Ta sẽ xử lý thằng nhỏ này". Đến chiều tối, cả hai cùng nghỉ tạm trong chùa. Trong chùa, từ trước Tăng chúng có lập điều lệ:

 

- Ai không có y chỉ không được nghỉ lại.

 

Vị tri sự chùa bảo hai vị khách:

 

- Quý vị mới đến xin nhận ngọa cụ.

 

Sau khi nhận ngọa cụ, vị già bảo vị trẻ:

 

- Hãy lấy phần của thầy.

 

Vị trẻ đáp:

 

- Con chưa có y chỉ, đợi khi có thầy rồi, sẽ nhận ngọa cụ.

 

Sau khi gặp thượng tọa thủ chúng, làm lễ xong, vị trẻ thưa:

 

- Xin thượng tọa cho con y chỉ.

 

Hỏi:

 

- Hiền thủ, thầy đến đây với ai?

 

Đáp:

 

- Bí-sô tên ... Nói:

 

- Hiền thủ! Thầy hãy đến thỉnh vị ấy làm y chỉ, đừng để người ấy nói thượng tọa thủ chúng chia rẽ môn đồ chúng tôi.

 

Vị trẻ nghe nói, đi đến cầu vị khác, lần lượt khắp cả chùa, nơi nào cũng đều không chịu. Cuối cùng, vị ấy trở lại phòng, gỏ cửa gọi:

 

- Kính lễ thượng tọa!

 

Hỏi:

 

- Người là ai?

 

Đáp:

 

- Con là ... chúc thầy mạnh khỏe. Thượng tọa biết không, đại chúng trong chùa này lập quy định, ai không có y chỉ không cho ở lại dù một đêm; xin cho con y chỉ.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Thật là quy định tốt, chúng Tăng không làm, ta cũng sẽ làm. Trước đây, ông nói với ta, chẳng lẽ không thấy tam tôn nên chứa nhiều vật ngu si. Nay lại nói kính lễ Thượng tọa, làm sao quá trái ngược như vậy! Khinh mạn như thế, ai làm y chỉ cho ông! Hãy đi tìm thầy y chỉ khác theo ý mình.

 

Nói xong, vị lớn im lặng không mở cửa. Suốt đêm, vị nhỏ ngồi trên đất chịu khổ đến sáng. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không có thầy y chỉ, không nên du hành nhân gian. Các Bí-sô không nên như sư tử cố chấp lòng thù hận. Tăng già không được tự ý lập ra quy chế ác nghiệt như vậy, làm cho Bí-sô kia chịu khổ não oan uổng. Bí-sô nào không có thầy y chỉdu hành nhân gian, gây phiền não người khác vì lập quy chế phi pháp, đều bị tội vượt pháp.

 

* Một thời, Phật du hóa nước Ma Kiệt Đà, ở cung điện của Dược xoa Bạc Câu-la, núi Mộ-câu. Bí-sô Long Hộ làm thị giả. Giữa đêm tối mưa lâm râm với ánh chớp chiếu sáng, Thế Tôn đi kinh hành trên đất trống. Thường pháp cuả chư Phật là Thế Tôn chưa nằm nghỉ, thị giả không được đi nằm trước. Bấy giờ, với thiên nhãn quan sát khắp thế gian, thấy trong cung điện của Dược xoa Bạc-câu-la, Thế Tôn đang kinh hành trên đất trống giữa đêm tối mưa lâm râm với ánh chớp chiếu sáng, Thiên Đế Thích suy nghĩ: ta hãy đến lễ bái Thế Tôn. Sau khi hóa ra cung điện xinh đẹp bằng lưu ly, mang theo che trên Thế Tôn, Đế Thích đi kinh hành theo sau Ngài. Nếu thấy trẻ con kêu khóc ban đêm, thường dân nước Ma Yết Đà bảo chúng đừng khóc bằng cách dọa:

 

- Dạ-xoa Bạc-câu-la đến ăn thịt ngươi.

 

Thấy đêm đã khuya mà Thế Tôn không nằm nghỉ, vẫn tiếp tục kinh hành, nên sau khi suy nghĩ: "Ta hãy giả Dược-xoa Bạc-câu-la để gây khủng bố", Bí-sô Long Hộ liền trùm tấm mền lớn lông dài, đến chỗ kinh hành dọa Thế Tôn:

 

- Dạ-xoa Bạc-câu-la đến đây!

 

Phật bảo Long Hộ:

 

- Ngươi là kẻ ngu si nên đem Dạ-xoa Bạc-câu-la ra dọa bậc Thiện Thệ. Đức Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng giác đã xa lìa sự sợ hãi từ lâu, thân tâm không còn chút nào kinh hãi nữa.

 

Thấy Bí-sô Long Hộ làm việc phi pháp, Thiên Đế Thích bất mãn thưa với Thế Tôn:

 

- Trong Phật pháp cũng còn có những hạng người này sao?

 

Phật bảo Thiên Đế Thích:

 

- Ông nên biết, ngôi nhà Kiều Đáp Ma rất là to rộng, bên trong có nhiều phẩm loại khác nhau. Chớ khinh người này vì trong đời tương lai họ sẽ được pháp thù thắng.

 

Thiên Đế Thích lạy sát chân Phật rồi trở về thiên cung. Phật suy nghĩ: "Vì các Bí-sô dùng mền lớn để phần lông hướng ra ngoài nên có lỗi như vậy. Ta chế định, các Bí-sô nào đắp mền như vậy bị tội vượt pháp.

 

Nghe Phật chế như vậy, khi đi theo đoàn buôn du hành nhân gian, đến chỗ người chăn bò, gặp phải đêm lạnh dùng mền lông dài, mền có mùi hôi nhiều rận rệp, muốn hướng mặt lông ra ngoài để đắp nhưng các Bí-sô sợ phạm giới nên không dám lật lại. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Mền hướng mặt lông ra ngoài chỉ dùng trùm ngồi yên, không được kinh hành, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng ba trong biệt môn hai:

 

Phi chiên thính bất thính

Ố địa bất trí bát

Y khai tam chủng hựu

Ưng tri điều diệc tam.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Nếu được tấm lót nằm bằng kiếp bối hoặc vải nỉ lông dài, hoặc Cao Nhiếp Ba, những vật ấy Ta đều cho phép Tăng già hay cá nhân đều được tùy ý sử dụng. Nếu được loại nỉ cao-nhiếp-ba thượng hạng chỉ cho phép dùng cho tăng, cá nhân không được dùng.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Vào sáng sớm, trong khi mặc y ôm bát khất thực trong thành, thượng y bị tuột xuống, Bí-sô vội vàng đặt bát xuống đất để sửa y. Cư sĩ Bà-la-môn thấy vậy chê bai nói:

 

- Sa-môn Thích tử phần nhiều không sạch sẽ, đặt bát ở chỗ nhơ bẩn.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ai tùy tiện đặt bát dưới đất bị tội vượt pháp.

 

Vì giữ y cho phép làm nút, Bí-sô dùng kim gai may y làm y bị hư. Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy. Họ lại cột bằng tơ,

 

Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy, nên làm chỗ giữ trên vai, tra nút trước ngực.

 

Bí-sô không biết làm nút như thế nào, Phật dạy:

 

- Có ba loại nút:

 

    l) Như trái anh-túc,

    2) Như trái chi,

    3) Như trái đường-lê.

 

Ngay biên y trên vai, tra chỗ giữ thì mau bị đứt, nên tra vào sau biên chừng bốn ngón tay. Họ tra ngay trên y làm y bị rách, Phật dạy:

 

- Nên may chồng hai lớp, làm lỗ khuy vòng để gài nút vào trong chỗ hai lớp vải, nút tra ngay trước ngực chỗ biên y, chỗ ba lớp y là nơi tra nút, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước ở. Trong khi đi khất thực, hạ y bị tuột, Bí-sô đặt bát dưới đất để sửa y dưới. Người đời thấy vậy, bất mãn chê bai:

 

- Sa-môn Thích tử không biết dơ sạch, chỗ nào dưới đất cũng để bát được.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Phải cột chặt hạ y rồi mới được đi vào xóm làng.

 

Họ dùng dây buộc chặt quá làm y mau hư. Phật dạy:

 

- Đừng dùng dây, nên dùng đai lưng.

 

Bí-sô không biết làm đai như thế nào. Phật dạy:

 

- Có ba loại đai, một là dẹp, hai là vuông, ba là tròn; ai làm khác bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng bốn trong biệt môn thứ hai:

 

    Thắng Man Ác Sinh sự

    Thứ chế chư anh lạc

    Kim thao cập thể vật

    Tư giai súc bất ưng.

 

* Duyên tại vườn cây Đa Căn, thành Kiếp Tỷ La. Khi ấy, ở một tụ lạc nọ của Thích-tử Đại Danh, người quản lý đột ngột qua đời. Mọi người đến báo với Đại Danh:

 

- Người tri sự vừa chết, hãy cho người khác đến quản lý việc trong thôn.

 

Khi ấy, Đại Danh bảo một thanh niên đang đứng bên cạnh:

 

- Này thanh niên! Ngươi hãy tạm đến kiểm tra sự việc trong thôn, sau đó ta sẽ sai kế tục tri sự.

 

Người ấy đi đến thôn và kiểm soát đúng phép, những lợi nhuận về đất đai đều nộp lên Đại Danh, nhiều hơn trước đây nhưng không làm ai oán hận. Đại Danh hỏi:

 

- Ngươi thu nộp nhiều thuế ruộng hơn trước, có phải thường ép buộc người phải không?

 

Thưa:

 

- Đại gia! Tôi thu thuế đúng theo pháp lý không hề làm khổ người.

 

Bấy giờ, Đại Danh hỏi người trong thôn:

 

- Thanh niên này có gây áp bức trong thôn không?

 

Mọi người đáp:

 

- Không có ai oán hận cả.

 

Khi ấy, Đại Danh đưa người ấy lên làm chủ. Người ấy y theo pháp lý thu thuế công bằng, không áp bức cướp đoạt, làm quan tri sự thống lĩnh thôn ấp. Thanh niên này lấy một cô gái thuộc tộc họ Bà-la-môn làm vợ, chẳng bao lâu sinh được một trai, năm sau lại sinh thêm một gái tên Minh Nguyệt. Bé gái này được nuôi dưỡng đúng pháp, khi lớn lên thông minh trí tuệ hình dáng tuyệt trần, trong thôn ai cũng khen xinh đẹp. Sau đó, người cha bị bệnh, tuy thuốc thang chữa trị nhưng vẫn không giảm. Tiền thu thuế hàng năm trong thôn đều dùng chữa bệnh nên không còn dư, phải vay thêm ở ngoài thôn để chi dụng. Bệnh ngày càng nặng, đến nỗi người cha qua đời.Người trong thôn đến báo với Đại Danh:

 

- Đại gia, quan tri sự đã qua đời.

 

Đại Danh hỏi:

 

- Năm nay trong thôn có nộp thuế không?

 

Đáp:

 

- Trong năm nay họ thu nhiều thuế nhưng đã dùng hết vào việc mua thuốc trị bệnh mà vẫn không đủ phải vay thêm ở thôn khác.

 

Đại Danh nói:

 

- Họ còn dư chút nào hãy đem trả vào nợ.

 

Mọi người đáp:

 

- Không còn gì cả, chỉ có một vợ và một trai một gái. Con gái tên Minh-nguyệt thông minh trí thức, dung nghi tuyệt trần, trong làng xóm ai cũng khen đẹp.

 

Đại Danh bảo:

 

- Cho người mẹ và con trai tự sinh kế, hãy gọi người con gái đến đây.

 

Người trong thôn thả hai mẹ con và đưa Minh-nguyệt đến gặp Đại Danh. Trong nhà Đại Danh có một bà già, thường làm hai việc, một là chiên bánh, hai là hái hoa. Bấy giờ, bà già bảo Đại Danh:

 

- Tôi đã già, không thể làm cả hai việc, hãy cho cô gái nhỏ này làm bạn với tôi.

 

Đáp:

 

- Tùy ý.

 

Bà lão bảo với Minh Nguyệt:

 

- Con hãy đi vào rừng hái hoa, ta ở nhà coi việc làm bánh.

 

Cô ta hái hoa kết thành vòng đẹp dâng lên Đại Danh. Đại Danh vui mừng bảo:

 

- Vòng hoa thật đẹp, hãy để đó và đi đi.Gọi bà già, ông ta hỏi:

 

- Vì sao trước đây hoa ít nay lại nhiều hơn vậy?

 

Thưa:

 

- Đại gia,trước đây có bà con gần đến xin, tôi cho bớt, nay không cho nữa. Vả lại mắt tôi mờ xem không rõ, nay cô bé Minh Nguyệt hái hoa xem rõ nên được nhiều.

 

Đại Danh bảo:

 

- Như vậy hãy để cô bé này lại trong vườn, hằng ngày thường hái nhiều hoa, kết thành vòng đem dâng cho ta. Nhân đó, đặt tên cô bé là Thắng Man (vòng hoa đẹp).

 

Một hôm, nhận phần ăn của mình xong, đang đi vào trong vườn, Thắng Man gặp Phật Thế Tôn vào thành khất thực. Giữa đường, thấy tướng hảo của Phật, Thắng Man sinh tâm kính tín chiêm ngưỡng tôn nhan, tha thiết đứng yên suy nghĩ: "Vì xưa nay chưa từng cúng dường ruộng phước chân thật, nên nay ta bị bần tiện như thế này. Nếu Phật Thế Tôn nhận thức ăn của ta, ta sẽ đem bữa ăn này dâng lên Ngài". Biết ý nghĩ của cô gái, Thế Tôn đưa bát ra bảo:

 

- Này thiện nữ! Con có ý niệm muốn dâng thức ăn, hãy đặt vào bát này.

 

Khi ấy, với tâm cung kính, đem phần ăn của mình đặt vào bát của Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, Thắng Man bạch:

 

- Con nguyện nhờ phước này xả bỏ thân ty tiện, không còn nghèo khổ được giàu sang lớn.

 

Sau khi phát nguyện lễ Phật từ giã, trên đường Thắng Man bỗng gặp bạn của cha mình. Người này giỏi xem tướng, thấy Thắng Man có dị tướng nên hỏi:

 

- Con muốn gì?

 

Thắng Man khóc lóc.

 

Lại hỏi:

 

- Vì sao con ưu sầu như vậy?

 

Đáp:

 

- Thưa chú, con bị Đại Danh bắt làm nô tỳ.

 

Người kia bảo:

 

- Cháu gái hãy đưa tay cho ta xem tướng của con.

 

Sau khi cô bé đưa tay, nhìn thấy, ông lão nói kệ:

 

    Bàn tay người nào có

    Tướng vòng bánh xe đan

    Tuy sinh nơi hạ tiện

    Sẽ làm vợ của vua

    Trong bàn tay người nào

    Có tướng thành, lầu, đài

    Tuy sinh nhà hạ tiện

    Sẽ làm đại vương phi

    Người nào miệng như ao

    Tiếng nói như nga chúa

    Tuy sinh nhà hạ tiện

    Sẽ làm đại vương phi

    Con chớ nên ưu sầu

    Quyết định thoát nô tỳ

    Hưởng giàu sang tối thượng

    Sẽ làm đại vương phi.

 

Thắng Man bái tạ ông lão và trở vào vườn. Một hôm, vua Thắng Quang nghiêm giá bốn loại binh ra thành săn bắn, con ngựa đang cỡi bỗng nhiên vọt chạy không kềm chế được, đưa nhà vua đến thành Kiếp Tỷ La vào vườn Đại Danh. Thắng Man trông thấy, thưa:

 

- Kính chào đại vương!

 

Vua hỏi Thắng Man:

 

- Vườn này của ai?

 

Đáp:

 

- Vườn của Đại Danh.

 

Nhà vua bước xuống, cô gái cột ngựa vào gốc cây. Vua nói:

 

- Hãy lấy nước, ta muốn rửa chân.

 

Sau khi suy nghĩ: "hãy tìm nước ấm để vua rửa chân", cô gái đi đến chỗ nước có mặt trời chiếu vào, dùng lá sen múc đầy nước đem dâng vua để rửa chân. Nhà vua lại bảo:

 

- Hãy lấy nước cho ta rửa mặt.

 

Sau khi suy nghĩ: "Nước ấm không nên dùng rửa mặt", cô gái dùng tay khuấy nước cho vừa mát rồi dâng lên vua. Sau khi rửa mặt, nhà vua lại bảo:

 

- Hãy đem nước cho ta uống.

 

Sau khi suy nghĩ: "cần có nước lạnh mới giải khát được", cô gái lấy nước chỗ sâu dưới ao đem dâng lên vua. Uống xong, nhà vua hỏi cô gái:

 

- Trong vườn này có ba loại nước phải không?

 

Đáp:

 

- Trong vườn không có ba loại nước, chỉ ở một chỗ.

 

Vua lại hỏi:

 

- Nếu một loại nước, vì sao vừa rồi nàng có ba loại khác nhau.

 

Cô gái trình bày cho vua nghe cách làm của mình. Nghe xong, sau khi suy nghĩ: "Cô gái này giỏi biết phương pháp đáp ứng thời cơ". Nhà vua bảo cô gái:

 

- Ta muốn nằm ngủ, cần nàng bóp chân.

 

Cô gái bóp chân vua trong lúc ông ta an nghỉ. Khi nhà vua ngủ say, cô gái suy nghĩ: "Các vị vua tôn quý sang cả, tất có nhiều người oán ghét, ít kẻ ưu ái. Nhà vua đang ngủ say, sợ có kẻ ác đến làm làm hại ngài. Nếu không đóng cửa bảo vệ, có kẻ làm hại vua, ta và chủ nhân tất bị tội lỗi". Để bảo vệ, cô gái liền đóng cửa vườn. Khi ấy, đi tìm nhà vua, đến vườn kia, bốn loại binh hỏi thăm:

 

- Nhà vua ở đây phải không?

 

Nghe hỏi, cô gái vẫn không chịu mở cửa. Thức dậy vì nghe tiếng ồn ào của quân lính bên ngoài, nhà vua hỏi cô gái:

 

- Tiếng vang gì vậy?

 

Đáp:

 

- Có người đến hỏi đại vương ở đâu và muốn mở cửa.

 

Hỏi:

 

- Ai đã đóng cửa?

 

Đáp:

 

- Thiếp đã đóng!

 

- Vì sao đóng? Nhà vua hỏi.

 

Đáp:

 

- Thiếp tự nghĩ, các vị vua tôn quý sang cả nên kẻ oán hận nhiều ít kẻ ưu ái. Nhà vua đang ngủ say, sợ có kẻ ác đến gây hại. Nếu không đóng cửa bảo vệ, bỗng nhiên vua bị thương tổn, ta và ông chủ tất bị tội lỗi. Vì vậy, thiếp đóng cửa.

 

Nghe nói xong, sau khi khen ngợi: - Cô gái thật hay, có kế kỳ diệu. Nhà vua hỏi:

 

- Người chủ vườn là Đại Danhthân thuộc gì với nàng?

 

Đáp:

 

- Thiếp là người phục vụ của Đại Danh.

 

Vua hỏi:

 

- Không phải hạng thấp hèn, là con gái của Đại Danh, tại sao nàng không nói thật?

 

Cô gái im lặng.

 

Bấy giờ, nhà vua bảo cô gái vào trong thành, báo với Đại Danh: - Vua Thắng Quang đang ở trong vườn của ông ta.

 

Cô gái vội vàng đến báo đầy đủ với Đại Danh.Sau khi nghe báo, cùng với nhiều người đến vườn kia mang theo thức ăn ngon và hương hoa, thấy vua Thắng Quang, Đại Danh tung hô:

 

- Kính chào đại vuơng!

 

Sau khi cùng nhau thăm hỏi, ông ta phục vụ vua tắm rửa, rồi dâng y phục tốt đẹp, hương xoa, vòng hoa và đầy đủ thức ăn ngon. Sau khi ăn xong, trong lúc nói chuyện, nhà vua hỏi Đại Danh:

 

- Cô gái nhỏ này thân thuộc gì của khanh?

 

Đáp:

 

- Là người phục vụ.

 

Vua nói:

 

- Chẳng phải là người phục vụ, là con của khanh, hãy dâng cho ta.

 

Đại Danh tâu:

 

- Còn có nhiều cô gái thuộc giòng họ Thích xinh đẹp kỳ diệu gấp bội cô này, vì sao vua không lấy?

 

Vua đáp:

 

- Cô gái này chính là người mà ta cần, không cần người khác.

 

Đại Danh tâu:

 

- Nếu như vậy, thần sẽ tổ chức đầy đủ nghi lễ để dâng lên ngài.

 

Vua nói:

 

- Lành thay!

 

Đại Danh liền trang hoàng thành phố, quét dọn đường lộ, trang điểm cho cô Thắng Man các loại anh lạc cho ngồi trên voi lớn, tại chỗ rộng rãi, rung chuông báo cáo cho mọi người trong thành Kiếp Tỷ La, và những người ở phương khác đến:

 

- Thắng Man, con gái của Thích chủng Đại Danh sắp được đưa dâng lên vua Thắng Quang nước Kiều Tát La làm đệ nhất phu nhân.

 

Trước sự đưa tiễn của nhân dân cả thành, với nghi lễ quân lính đầy đủ, vua Thắng Quang nghênh đón Thắng Man về nước.

 

Nghe nhà vua lấy nô tỳ làm phu nhân. Quốc mẫu rất ưu buồn, tức giận suy nghĩ: "Đây chẳng phải là đứa con tốt, làm phiền ta lúc trong bụng, sinh ra nuôi cho trưởng thành cuối cùng làm chồng kẻ ti tiện". Về đến thành, vua bảo Thắng Man:

 

- Nàng hãy đến làm lễ ra mắt đại-gia.

 

Thắng Man đến gặp đại-gia, cúi đầu làm lễ, tay ôm lấy hai chân. Khi bàn tay mềm mại của Thắng Man chạm vào chân, bỗng nhiên quốc-mẫu cảm thấy thân tâm ngây ngất, giây lâu mới bình tỉnh lại, nói:

 

- Xem cô gái hạ tiện với thân hình xinh đẹp này, tất làm tan nát thành Kiều Tát La của ta.

 

Bấy giờ, vua Thắng Quang có hai đại phu nhân, một tên Hành Vũ, một tên Thắng Man. Khi cùng Thắng Man gặp nhau hoan hỷ, vua thường khen về Hành Vũ với lời lẽ:

 

- Thắng Man nên biết, phu nhân Hành Vũ xinh đẹp tuyệt trần.

 

Thắng Man tâu vua:

 

- Bao giờ thiếp mới được gặp?

 

Vua nói:

 

- Không bao lâu nữa, nàng sẽ gặp.

 

Khi gặp Hành Vũ, vua thường khen về Thắng Man với lời lẽ:

 

- Hành Vũ nên biết, phu nhân Thắng Man da thịt mềm mại hiếm có trong đời.

 

Hành Vũ tâu vua:

 

- Bao giờ thiếp mới được diện kiến?

 

Vua nói:

 

- Không bao lâu sẽ cho nàng gặp.

 

Thường khen hai người với nhau, vua làm cho họ yêu kính và muốn gặp nhau. Sau đó, vào tiết tháng ba mùa xuân, trăm hoa đua nở, cây cỏ tươi tốt, nước hồ trong xanh, chim hoa rực rỡ, chim- công, anh-vũ, nga, nhạn, oanh-ương, cùng nhau bay lượn đua hót véo von.

 

Một hôm, trong khu vườn xinh đẹp, vua cùng thể nữ vây quanh vui chơi đùa giỡn khắp nơi. Khi vua nghỉ ngơi, các cung nhân tung tăng tham hái hoa quả, tùy ý đi khắp. Bấy giờ, Hành Vũ mệt nhọc nên vịn nhánh cây vô-ưu đứng nghĩ . Thắng Man đến lạy sát chân Hành Vũ vì khi đi qua gần bên, thấy cô ta, tưởng là thần cây. Được tay Thắng Man chạm đến, Hành Vũ liền ngây ngất.

 

Vừa thức dậy, trông thấy Thắng Man ở chỗ Hành Vũ, vua liền bảo các thể nữ đi về cung. Sau đó, trước Hành Vũ, khi vua khen Thắng Man, Hành Vũ tâu:

 

- Bao giờ thiếp được gặp Thắng Man?

 

Vua nói:

 

- Nàng đã được gặp.

 

Hành Vũ thưa:

 

- Thiếp nhớ chưa được gặp.

 

Vua nói:

 

- Ta làm cho nàng nhớ lại khi gặp nhau. Hãy nhớ lại, trước đây trong vườn, khi nàng đang đứng vịn nhánh cây vô-ưu, Thắng Man đến gặp và đã chạm tay vào chân nàng.

 

Hành Vũ hỏi:

 

- Người ấy là Thắng Man hay sao?

 

- Đúng vậy! Vua nói.

 

Hành Vũ tâu:

 

- Thiếp biết! Được đại vương rất yêu mến, nên mới bỏ qua người thân hình xinh đẹp mềm mại như vậy mà hạ cố đến thiếp.

 

Tại chỗ Thắng Man, lúc vua khen Hành Vũ, Thắng Man tâu:

 

- Bao giờ thiếp được gặp Hành Vũ?

 

Vua nói:

 

- Nàng đã từng gặp.

 

Thắng Man thưa:

 

- Thiếp chưa từng gặp!

 

Vua nói:

 

- Ta sẽ làm cho khanh nhớ lại, dưới cây vô-ưu, nàng đã làm lễ dưới chân Hành Vũ.

 

Thắng Man hỏi:

 

- Đó là Hành Vũ hay sao?

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy!

 

- Tâu đại vương, biết ngài rất yêu thương thiếp nên mới bỏ qua người với sắc đẹp như vậy mà hạ cố đến thiếp.

 

Cả nước, mọi người đều biết, vua Thắng Quang có hai phu nhân là Thắng Man và Hành Vũ. Thắng Man mềm mại tuyệt trần. Hành Vũ xinh đẹp vô song.

 

Các Bí-sô đều nghi ngờ, thưa Thế Tôn:

 

- Đại đức! Thắng Man và Hành Vũ đã làm thiện nghiệp gì, nhờ vào nghiệp lực ấy nên người này thân thể mềm mại, người kia hình dáng xinh đẹp tuyệt luân?

 

Thế Tôn bảo:

 

- Hai người này đang hưởng quả dị thục đều do nghiệp đã làm Tăng trưởng thành... nói rộng như chỗ khác. Này các Bí-sô, thời quá khứ, tại Đại Thành có Bà-la-môn lấy vợ chưa bao lâu, sinh được một trai, vài năm sau lại sinh thêm một gái. Hai anh em vừa lớn lên, cha mẹ bị bệnh đều qua đời. Gặp phải sự việc quá sầu khổ, nên nghĩ đến việc vào rừng núi, đồng tử kia dắt em vào núi rừng hái hoa quả để nuôi thân.

 

- Này các Bí-sô! Như rắn độc lớn có năm tai hại. Thế nào là năm? Một là nhiều sân; Hai là nhiều hận ; Ba là làm ác; Bốn là vô ân; Năm là rất độc. Nên biết người nữ cũng có năm lỗi: Một là nhiều sân; Hai là nhiều hận; Ba là làm ác, Bốn là vô ân; Năm là rất độc.

 

- Thế nào là người nữ rất độc?

 

- Thông thường người nữ có nhiều ái dục mãnh liệt trong lòng. Khi đồng nữ kia trưởng thành, tâm ái dục đã mạnh, nên bảo với anh: "Em không thể sống bằng cách ăn hoa quả nữa, chúng ta hãy xuống nơi có người để tìm thức ăn". Người anh đưa em ra khỏi núi rừng, cùng đi đến nhà Bà-la-môn khất thực. Nghe hai tiếng gọi, ra khỏi nhà thấy họ, chủ nhân hỏi:

 

- Người ẩn sĩ cũng có vợ!

 

Anh đáp:

 

- Đây là em gái chứ không phải vợ tôi.

 

Hỏi:

 

- Đã đính hôn chưa?

 

- Chưa. Người anh đáp.

 

Chủ nhà nói:

 

- Như vậy, tại sao không gả cho tôi?

 

Đáp:

 

- Em tôi đã xa lìa pháp ác của thế gian.

 

Với ý dục mãnh liệt, cô em nói với anh:

 

- Chẳng lẽ em không thể ở trong rừng ăn trái cây để sống hay sao, nhưng vì em không chịu nỗi sự giày vò của phiền não, nên cùng anh từ bỏ núi rừng đến ở với mọi người, hãy gả em cho người Bà-la-môn.

 

Người anh nói:

 

- Ta thật không thể gả em lấy chồng vì đó là pháp ác, chẳng phải việc làm của ta, em có thể tùy ý làm theo tâm niệm thế tục của mình.

 

Biết rõ ý cô gái, Bà-la-môn vào nhà, hội họp thân thuộc, cưới nàng làm vợ. Cô em bảo anh:

 

- Từ nay anh sống chung nhà với em nhưng ở riêng phòng.

 

Anh nói:

 

- Anh không cầu dục lạc, chỉ vui thích xuất gia.

 

Em nói:

 

- Anh hãy hứa với em, sau đó tùy ý.

 

Anh nói:

 

- Giao kết điều gì? Em nói:

 

- Nếu chứng đắc quả thù thắng, anh hãy đến gặp em.

 

Sau khi nói: - Lành thay! Theo ý nguyện của em, người anh từ giã. Sau khi xuất gia nơi các vị ẩn sĩ, do sức thiện căn của đời trước, nhờ tu tập theo ba mươi bảy pháp Bồ-đề-phần, không thầy tự ngộ, người anh chứng quả Độc-giác. Trước đây, ta có hứa với em gái, nên đến gặp nó, suy nghĩ như vậy, vị Độc-giác đến nhà kia, bay lên hư không hiện các thần biến, trên thân phóng lửa sáng, dưới thân phun nước trong, với nhiều hiện tượng kỳ lạ, rồi hạ xuống đất. Khi thấy những thần thông này, tâm lý những kẻ phàm phu liền chuyển biến như cây đại thọ ngã xuống đất. Người em gái đảnh lễ sát chân anh, thưa:

 

- Anh đã chứng được thắng đức thù diệu!

 

Đáp:

 

- Đúng vậy!

 

Em thưa:

 

- Anh cũng cần phải ăn uống để duy trì thân thể, em vì cầu phước xin được cúng dường, thỉnh anh ở đây.

 

Đáp:

 

- Em không được tự ý, hãy thưa với chồng.

 

Người em thưa với chồng:

 

- Chàng biết không, anh của em xuất gia thành tựu giới cấm, đắc quả thượng diệu đệ nhất trong thế gian. Em muốn cúng dường nhưng không dám tự chuyên. Nếu được đồng ý, em sẽ cúng dường lương thực trong ba tháng.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Nếu anh ấy không xuất gia, dù không muốn ta cũng phải chu cấp đầy đủ, huống chi anh ấy đã xuất gia chứng đạo qu? thù thắng, vậy tùy theo ý em cúng dường ba tháng.

 

Thấy sự cúng dường thực phẩm như vậy, sau khi suy nghĩ: "Gia tài là của chung, cô ta biết cầu phước, sao ta lại không làm", người vợ cũ của chồng cô em nói:

 

- Anh của dì cũng là bậc tôi tôn trọng, tôi muốn chính mình cách nhật cúng dường.

 

Đáp:

 

- Tùy ý chị.

 

Em gái vị Độc Giác muốn giữ vẹn tình cảm với cô kia, nên để thức ăn ngon ở trong, thức ăn thường lên trên, mang đến nói với người vợ cũ:

 

- Em mang thức ăn này đến cúng dường cho người anh xin chị tùy hỷ.

 

Đến ngày mình cúng dường, người vợ cũ cũng muốn giữ vẹn tình cảm với cô này, nên để thức ăn thường ở trong, thức ăn ngon lên trên, mang đến nói với vợ mới:

 

- Tôi mang thức ăn thơm ngon này dâng lên tôn huynh, xin dì tùy hỷ.

 

- Các Bí-sô nên biết rằng, Thắng Man chính là em gái vị Độc-giác, đem thức ăn tinh tế thơm ngon cúng dường người anh, do sức phước này nên trong năm trăm đời thân thể thường mềm mại. Hành Vũ chính là người vợ cũ đem thức ăn ngon để lên trên cúng dường vị Độc-giác, do phước nghiệp này nên trong năm trăm đời có hình dáng xinh đẹp ... cho đến đời này dung mạo tuyệt trần.

 

Này các Bí-sô, phải biết nghiệp đen đưa đến quả báo đen, nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, nghiệp xen tạp đưa đến quả báo xen tạp. Các thầy nên bỏ hai nghiệp đen và tạp, tu tập nghiệp trắng ... rộng như trước. Này các Bí-sô nên học như vậy.

 

Sau đó, phu nhân Thắng Man có thai. Trong đêm ấy, vợ đại thần Bà-la-môn cũng có thai, và chịu nhiều đau khổ vì cái thai này. Sau chín tháng, phu nhân Thắng Man sinh một con trai, thân hình tuấn tú, ai cũng thích nhìn. Sau 21 ngày, thân tộc tụ họp muốn làm lễ đặt tên cho bé trai. Vua bảo: - Hãy bồng đứa bé này đến xin quốc-thái phu nhân đặt tên. Tuân lệnh vua, Quần thần bồng đứa bé đến trình phu nhân. Phu nhân nói:

 

- Có phải trước đây ta đã nói, xem cô tỳ nữ này với thân thể xinh đẹp mềm mại, tất sẽ làm tan nát thành Kiều-tát-la của ta!

 

Đại thần tâu:

 

- Thật đúng như vậy, khi đứa bé chưa sinh, quốc-thái phu nhân đã báo trước điều không lành, vậy nên đặt tên cậu ta là Ác Sinh.

 

Trong ngày sinh của Ác Sinh, vợ đại thần cũng sinh con trai, vừa tròn tháng ... cũng như trên ... cho đến tập họp thân tộc làm lễ đặt tên. Mọi người bàn nhau:

 

- Khi mang thai đứa bé này, người mẹ chịu nhiều gian khổ, khi sinh lại bị cực khổ nữa, vậy nên đặt tên cho nó là Khổ Mẫu.

 

Có tám bà nhũ mẫu phục vụ thái tử Ác Sinh ... nói rộng như chỗ khác. Khổ Mẫu cũng được tám bà nhũ mẫu săn sóc, nuôi đến trưởng thành. Bà-la-môn phải học tập tận cùng về các loại nghề nghiệp. Một lúc nọ, thái tử Ác Sinh và Khổ Mẫu ra khỏi thành săn bắn. Con ngựa bỗng nhiên vọt chạy đưa thái tử đến vườn Thích-ca ở thành Kiếp-tỷ-la. Người giữ vườn báo với chủ:

 

- Thái tử Ác Sinh đang đến trong vườn.

 

Nghe như vậy, các Thích tử bàn luận nhau:

 

- Chúng ta mau tiến ra, muốn giết Ác Sinh, thật là đúng lúc.

 

Mọi người đều trang bị binh giáp, muốn xuất thành. Thấy như vậy, các vị kỳ lão hỏi họ:

 

- Các ngươi muốn dẫn binh đi đâu?

 

Đáp:

 

- Thái tử Ác Sinh đến vườn Thích Chủng.

 

Kỳ lão nói:

 

- Họ là khách mới đến đây, chưa xúc phạm gì, hãy tạm chịu nhịn đã.

 

Nghe xong, những người kia lui vào thành. Đi tìm thái tử, bốn loại binh cũng đến và đi lại khắp nơi trong vườn. Người giữ vườn báo vào thành:

 

- Bốn loại binh của Ác Sinh đã vào vườn tàn phá tan hoang.

 

Nghe như vậy, mọi người càng thêm tức giận, tăng thêm uy vũ cùng nhau xuất thành, ý muốn tàn sát. Các vị kỳ lão lại hỏi:

 

- Các ngươi xuất thành muốn đi đâu?

 

Đáp:

 

- Thái tử Ác Sinh dẫn bốn loại binh phá hoại khu vườn cuả ta, chúng tôi muốn giết hắn.

 

Kỳ lão nói:

 

- Tạm thời hãy nhịn đã.

 

Khi ấy, biết binh lính họ Thích muốn đến làm hại, Ác Sinh vội dẫn binh trở về nước, chỉ lưu lại một người để lén nghe Thích tử bàn luận. Khi quân Thích-chủng đến vườn, tìm kiếm chỉ thấy một người, hỏi:

 

- Đứa con ti tiện Ác Sinh nay ở đâu?

 

Đáp:

 

- Vừa đi rồi.

 

Các Thích Chủng bàn nhau với những lời:

 

- Nếu chúng ta bắt được Ác Sinh, trước hết phải chặt tay, hoặc nói chặt chân, hoặc nói moi tim, nay hắn đã chạy đi còn làm được gì nữa.

 

Họ liền sai người đào bới bỏ chỗ đất mà Ác Sinh đã đi đứng, sâu đến đầu gối, rồi lấy đất nơi khác lấp hố lại, phá đi rồi làm lại,thoa nước thơm những tường vách mà Ác Sinh đã dựa vịn, sửa soạn lại bông hoa và quét dọn hết trong vườn. Sau khi thấy tất cả những hành động như vậy, người mà Ác Sinh để lại đi về thành Kiều Tát La và gặp Ác Sinh, làm lễ xong đứng qua một bên. Ác Sinh hỏi:

 

- Thích chủng bàn luận gì về ta?

 

Đáp:

 

- Tâu thái tử, løời họ thật độc hại, thần không dám nói.

 

Ác Sinh nói:

 

- Họ nói lời ác, khiến họ phải chịu như vậy, ngươi nghe thấy thế nào hãy nói thật ra, ta muốn biết rõ sự việc họ đã làm.

 

Người kia liền kể lại sự việc trên. Nghe xong, rất phẫn nộ, Ác Sinh bảo tả hữu:

 

- Các ngươi hãy nhớ kỹ, sau khi phụ vương băng hà lúc ta kế vị, các ngươi phải kể sự việc này cho ta nhớ lại. Đây là mối thù đứng đầu, nên ta phải tru diệt Thích chủng.

 

Khổ Mẫu nói:

 

- Lành thay, thái tử nói lời này thật khoái chí, xin hãy vững tâm, khi ngài kế vị, thần sẽ nhắc lại.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ bảy hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ tám

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo tụng thứ tư trong biệt môn thứ hai).

 

(Nói về sự việc vua Thắng Quang tin Phật và những chuyện Ác Sinh tàn sát họ Thích ... )

 

Một hôm, thái tử Ác Sinh sanh tâm ác nghịch, cùng các quan lén mưu tính việc soán ngôi. Năm trăm đại thần của vua đều nghe theo, chỉ có một vị là người được vua ái trọng tên là Trưởng Hành không thuận theo kế này. Sau đó, Ác Sinh bảo Trưởng Hành:

 

- Chẳng lẽ ngài không muốn ta lên ngôi vua hay sao?

 

Đáp:

 

- Vì sao thái tử nói lời phi pháp như vậy? Phụ vương ngài đã già không bao lâu sẽ băng hà, tất nhiên thái tử sẽ lên ngôi vua. Tại sao vì chỗ ngồi mà mưu đồ nghịch hại để chôn tên mình vào chỗ xấu? Tuy ngu si nhưng thần trộm nghĩ không nên.

 

Ác Sinh nói:

 

- Ta thử lòng ngài nên nói như vậy, ngài hãy giữ miệng chớ cho ai nghe.

 

Trưởng Hành nói:

 

- Thần không dám trái lệnh.

 

Sau đó, vua Thắng Quang cùng đại thần Trưởng Hành du hành đêán các tụ lạc nhưng không đem theo tùy tùng. Đến nơi, thấy có chỗ A Lan Nhã trong sáng khoáng đãng thanh tịnh không có tạp uế, thích hợp với việc tu tập thiền định di dưỡng tinh thần, vua bảo Trưởng Hành:

 

- Thắng xứ thế này, Thế Tôn Đại sư có thể trú ở đây. Làm sao ta được phục vụ thân cận cúng dường Ngài? Không biết đức Điều ngự đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Thần nghe Thế Tôn đang ở trú xứ Thích chủng nơi tụ lạc Kiết Tường.

 

Vua hỏi:

 

- Đến đó gần hay xa?

 

Đáp:

 

- Cách đây ba Câu-lô-xá.

 

Vua nói:

 

- Ta muốn đến đó thân cận Thế Tôn.

 

Trưởng Hành tâu:

 

- Xin tuân ý Ngài.

 

Muốn gặp Thế Tôn, họ quay xe lại, đến vườn Kiết Tường, xuống xe đi bộ vào. Khi ấy, Thế Tôn đang thiền định trong căn phòng khép cửa. Các Bí-sô đang kinh hành ở ngoài. Thấy các Bí-sô, vua làm lễ và thưa hỏi:

 

- Đức Thế Tôn đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Ngài đang thiền định trong căn phòng khép cửa. Muốn gặp Thế Tôn, Đại vương hãy đến đó và nhẹ nhàng gõ cửa, đức Phật tự biết.

 

Vua có năm vật trang sức uy nghiêm thắng diệu: Một là mão báu; Hai là lọng báu; Ba là kiếm báu; Bốn là phất báu; Năm là giày báu.

 

Khi ấy, ý muốn đến đó với sự nghiêm trang để thân cận Thế Tôn, vua ra lệnh Trường Hành:

 

- Giao năm vật báu cho khanh và để ngay trước mặt để trông chừng.

 

Trường Hành suy nghĩ: "Vua ra lệnh ta cầm những vật này ngay trước mặt nhìn luôn, ý muốn không bận bịu, để an tâm gặp Phật, vậy ta hãy ở đây". Đến căn phòng, vua nhẹ nhàng gõ cửa. Sau khi đức Phật mở cửa, vua vào làm lễ sát chân đức Đại sư và thưa:

 

- Đã lâu, con không được gặp Như Lai, nay may mắn được diện kiến tôn nhan nên vui mừng không kể xiết.

 

Phật nói:

 

- Đại vương! Vì sao ngài có thể hạ mình phục tùng ân cần với Ta như vậy?

 

Vua thưa:

 

- Con rất tin giáo pháp của Thế Tôn, vì kính tin nên làm cho con phát tâm ân cần tôn trọng. Vả lại, đức Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết giảng giáo pháp, làm cho chúng Thanh văn đều phụng hành theo, không ai làm ngược lại.

 

Phật dạy:

 

- Đại vương! Đối với pháp nào mà ngài có tâm cung kính?

 

Vua bạch Phật:

 

- Trước đây, con từng thấy các Sa-môn Bà-la-môn khác có ít trí tuệ đã tự thị cống cao, làm sách vở để bắt bẻ người khác. Vì cho là họ giỏi phân tích, theo hiểu biết của mình mọi người hùa theo. Vì vậy, họ lập môn phái riêng dựng lên chủ thuyết của mình. Làm việc này xong, họ lại suy nghĩ: "Ta hãy đến gặp Sa-môn Kiều Đáp Ma để cùng nhau đàm luận. Nếu không đáp được, ta sẽ làm nhục ông ta. Nếu ông ấy giải thích đúng, ta sẽ nói ngược: Sự giải thích này phi lý không đúng".

 

Sau khi có tà niệm như vậy, họ đến gặp đức Phật. Vừa thấy sức thần uy của Đại sư, họ còn chẳng dám nhìn thẳng vào Ngài, huống chi có thể trực tiếp đàm luận. Thế nên con phát sinh lòng tin sâu xa với Thế Tôn. Do kính tín làm cho con có tâm ân cần tôn trọng như vậy.

 

Lại nữa, Đức Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo giảng thuyết pháp luật, làm cho chúng Thanh văn đều phụng hành. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con từng thấy: Các Bà-la-môn khác có ít trí tuệ lại tự thị cống cao, v.v ... tự tạo chủ thuyết muốn đến bắt bẻ Phật. Khi chiêm ngưỡng Thế Tôn, họ không dám hỏi, còn khen: - Đại sư là bậc Pháp-vương đệ nhất trong Trời người. Hiểu biết của Ngài thông suốt tất cả, bứng hết gốc tà làm cho người tuân theo chánh đạo. Thế nên, con có lòng tin sâu xa với Thế Tôn. Do lòng tin kính này, làm cho con phát tâm ân cần tôn trọng như vậy.

 

Lại nữa, Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết pháp luật, làm cho chúng Thanh văn đều phụng hành theo.Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con từng thấy: các Sa-môn Bà-la-môn khác có ít trí tuệ đã tự thị cống cao, v.v ... tạo nhiều chủ thuyết, muốn đến luận chiến với Phật. Đến gặp Phật, được chiêm ngưỡng Thế Tôn, họ đặt câu hỏi không hoàn chỉnh. Phật trả lời cho họ bằng câu đáp hoàn chỉnh. Nghe xong, họ rất vui mừng, phát tín tâm lớn quy y Tam-bảo, thọ trì học-xứ. Thế nên, con đối với Thế Tôn, sinh tín tâm sâu xa. Do tín tâm làm cho con có tâm ân cần tôn trọng như vậy.

 

Lại nữa, Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết giảng pháp luật, làm cho chúng Thanh-văn đều phụng hành. Lại nữa, Thế Tôn! Con từng thấy các Sa-môn Bà-la-môn khác có ít trí tuệ đã tự thị cống cao, v.v ... muốn đến bắt bẻ Phật. Khi gặp Phật, được chiêm ngưỡng Thế Tôn, họ hỏi câu hỏi hoàn chỉnh. Tùy theo căn cơ, đức Phật trả lời bằng câu đáp hoàn chỉnh hơn nữa. Họ hoan hỷ vô cùng khi nghe được diệu nghĩa của Phật nên vứt bỏ tà đạo, tuân sùng chánh pháp và xin xuất gia, được thọ giới cụ-túc, siêng tu tập phạm hạnh, không bao lâu trừ sạch trần cấu nhiều đời, chứng A-la-hán, hưởng an lạc giải thoátsuy nghĩ: "Biết bao uổng phí cho ta vì tự dối trá, chẳng phải Sa-môn cho là Sa-môn, chẳng phải Bà-la-môn cho là Bà-la-môn, chẳng phải A-la-hán cho là A-la-hán. Đến nay, ta mới thật là chân Sa-môn Bà-la-môn, chân A-la-hán. Thế Tôn! Do đó nên con có tín tâm sâu xa.v.v ... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn! Trước đây con từng thấy các Sa-môn Bà-la-môn khác sắc diện vàng vọt hình dáng suy nhược, thân thể khuyết tật, thật không ưa nhìn. Thấy như vậy, sau khi suy nghĩ: "Lẽ nào người ấy không thích sống phạm hạnh, hay bị bệnh lâu dài đến nỗi suy nhược như vậy, hay là làm việc tội lỗi ở chỗ vắng mà che dấu nên mang thân hình này". Người không ưa nhìn, con đến hỏi:

 

- Vì sao quý vị không còn nhan sắc, hình dung tiều tụy, người không muốn nhìn.

 

Họ đáp với con:

 

- Đại vương, tôi bị ái dục giày vò nên thân thể thế này.

 

Nghe như vậy, con suy nghĩ: "Người không bỏ được ái dục nên có tai hại như vậy".

 

- Nếu người nhiều hành động ái dục, tham ái dục đáng lẽ được tăng trưởng sức lực, nhan sắc xinh đẹp?

 

- Không đúng như vậy.

 

- Vì sao?

 

- Con làm quốc vương quyền lực tự do thụ hưởng rất đầy đủ năm dục, đáng lẽ được tướng mạo xinh đẹp thù thắng siêu tuyệt, nhưng đã không như vậy. Thế nên biết không phải do thân cận với dục mà sắc đẹp và sức lực tăng trưởng. Nhưng người ngu si đều yêu thích dục. Con thấy chúng Thanh văn đệ tử đức Thế Tôn, yêu thích phạm hạnh nên thân thể sáng sạch, diện mạo tươi nhuận, sống vui vẻ, thường sợ ái dục, như nai sống trong rừng, trọn đời thuần nhất không tạp, thanh bạch hoàn toàn, phạm hạnh đầy đủ. Vì vậy, con có lòng tin sâu xa.v.v... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn! Con nhớ có lúc ngồi trên chánh điện xử lý việc nước, thấy có nhiều người đều vì năm dục nên đến gặp con, hoặc đối với cha mẹ nam nữ anh chị em tri thức bằng hữu mà kiện tụng nhau, tranh luận tốt xấu, huống chi với người khác.

 

Lại nữa, con từng thấy, có hai Bí-sô cùng các Bí-sô cạnh tranh đến nỗi phải xả giới. Nhưng hai Bí-sô ấy không nói một chút nào về lỗi của Phật, Pháp, Tăng bảo, chỉ biết tự trách mình là người cực ác là người vô phước không thể tu tập phạm hạnh thanh tịnh để trọn đời sống theo giáo pháp của đức Thế Tôn, tâm không vi phạm. Vì vậy, con có tâm rất kính tín ... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn! Con từng thấy một hạng Sa-môn Bà-la-môn cố giữ tâm yên tịnh, thọ trì phạm hạnh, sau tám chín tháng bị dục lôi kéo, liền xả luật nghi làm việc nhiễm ô, quấn quýt theo năm dục để vui thú. Con thấy các vị Thanh-văn đệ tử đức Thế Tôn tu tập phạm hạnh thanh tịnh viên mãn, trọn đời sống theo lời dạy của Thế Tôn, tâm không vi phạm. Do đó, con có lòng tin sâu xa ... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn con là chủ đất nước, hiệu là Thắng Quang với quyền lực tự tại thống lĩnh đất nư?c này, giết chết người không đáng chết, cho phép người đáng chết được sống, cai quản trong nước ai cũng tôn trọng. Nhưng đại thần tể tướng đều là hào tộc Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Trưởng giả . Khi bàn việc chính trị, truất phế quần thần, khi tâu trình họ vẫn còn ý kiêu mạn, thái độ không nghiêm túc, triều nghi bị rối loạn. Con thấy Thế Tôn đang thuyết pháp ở giữa vô số trăm ngàn đại chúng, tất cả trời người đều chú ý chiêm ngưỡng tôn nhan, cùng nhau lắng nghe không có tán loạn, dưới tòa im lặng cho đến không nghe tiếng ho chép miệng, huống chi tiếng ồn. Khi ấy trong hội, bỗng có một ngừơi ho lên tiếng, người bên cạnh khẻ nói:

 

- Nhân giả! Xin ngài im lặng chớ làm ồn. Chẳng lẽ ngài không nghe đang đúng lúc Thế Tôn thuyết pháp vi diệu như mật thượng hạng.

 

Nói xong, vị kia liền im lặng. Nghe nói như vậy, con suy nghĩ: "Thế Tôn thật có uy lực lớn bất khả tư nghị, không dùng đao gậy hình phạt mà điều phục được mọi người, tất cả đều tuân phụng". Vì vậy, con phát sinh lòng tin sâu xa ... như trên.

 

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con có hai cận thần, một tên Tiên Thọ, một tên Cố Cựu. Tất cả những đất đai chức tước giàu sang tiếng tăm của họ đều nhờ nơi con, từ nhỏ đến nay thường hưởng an lạc. Đối với con, tuy họ có nhớ ân nhưng không cung kính nồng hậu bằng đối với Thế Tôn.

 

Lại nữa, một lúc nọ, con thống lĩnh binh mã ra khỏi thành trừ giặc, ý muốn thử lòng hai vị cận thần kia. Đối với con và Phật, họ trọng ai hơn. Đến chỗ kín, con hỏi họ:

 

- Khi ngủ, đối với ta và Phật, đầu và chân các khanh hướng về ai?

 

Khi ấy, sau khi khen ngợi công đức của Phật, và nói về phước điền của chánh Pháp, Tăng Bảo, và như vậy, họ nói hướng đầu về Phật, quay chân về vua. Nghe như vậy, con càng kính trọng Thế Tônuy lực lớn bất khả tư nghị, vì họ đều nhờ vào ân sủng bổng lộc của con nên được tiếng tăm giàu sang an lạc. Nhưng họ đối với con, sự không cung kính bằng với đức Thế Tôn. Vì vậy, con có lòng kính tín sâu xa ... như trên ...

 

Lại nữa, Thế Tôn! Con là vua nước Kiều Tát La, Phật cũng ở Kiều Tát La. Con sinh trong giòng Sát đế lợi, Phật cũng giòng Sát đế lợi. Đến nay, con đã cao niên, sống hơn tám mươi tuổi, Thế Tôn cũng thọ hơn 80 tuổi. Con là vua Sát đế lợi quán đảnh, Thế Tôn cũng là bậc Pháp Vương vô thượng. So với Phật, sức của con không thể ví dụ so sánh được. Vì sự thật này, nên con có lòng tin sâu xa ... như trên ... cho đến đều phụng hành.

 

Ngay trước Thế Tôn, sau khi trình bày rõ những việc thấy nghe, với sự kỳ diệu xong, vua Thắng Quang đảnh lễ dưới hai chân Phật rồi từ giã. Vua vừa đi khỏi, Phật bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy nên ghi nhớ những điều vua đã nói, là pháp tụ kỳ diệu nên thọ trì đọc tụng. Vì sao? Vì văn và nghĩa đầy đủ, khế hợp với chánh pháp, thành tựu phạm hạnh, có thể làm cho được quả Biến trí Đẳng giác Viên minh Niết bàn vậy. Thế nên, các thầy phải chuyên cần tu học.

 

Khi Thế Tôn dạy lời này xong, các Bí-sô đều hoan hỷ tín thọ phụng hành.

 

Tụng tóm lược ở trước:

 

    Luận về bốn hạng người

    Nhớ dục thân thể gầy

    Hai quan cung kính vua

    Không bằng đối với Phật.

 

Khi ấy, biết vua gặp Phật, sau khi suy nghĩ: "Năm trăm đại thần của vua đ?u theo phe Ác Sinh, chỉ một mình ta không theo, vậy họ làm sao thành tựu việc lớn được.Ta hãy về nước, đưa Ác Sinh lên ngôi vua và đuổi hai phu nhân Thắng Man, Hành Vũ ra khỏi cung".

 

Đại thần Trưởng Hành bỏ chỗ bảo vệ, lên xe ra đi. Đến thành Thất La Phiệt, Trưởng Hành tâu với Ác Sinh:

 

- Nay thái tử muốn lên ngôi không?

 

Ác Sinh đáp:

 

- Chính là điều ta muốn.

 

Trưởng Hành cùng các quan theo kế hoạch lập vua mới, ra lệnh hai phu nhân phải đến chỗ vua cũ.

 

Thắng Man và Hành Vũ hỏi Trưởng Hành:

 

- Hiện nay vua ở đâu?

 

Đáp:

 

- Vua đang ở trong vườn Thích Ca Diệu Quang .

 

Hai phu nhân đi bộ tìm kiếm vua cũ. Bấy giờ, ra đến cổng, không thấy Trưởng-hành, vua hỏi các Bí-sô:

 

- Thưa đại đức! Thấy đại thần của con đang đi đâu không?

 

Bí-sô đáp:

 

- Đại vương vào chưa bao lâu, Trưởng Hành liền lên xe bỏ đi.

 

Nghe xong, vua từ từ đi bộ. Khi ấy, Phật cũng đi về thành Vương-xá. Giữa đường, gặp Hành Vũ, nhà vua hỏi:

 

- Vì sao các khanh đi bộ xa xôi vậy?

 

Đáp:

 

- Tâu đại vương! Đại thần Trưởng Hành mưu tính lập Ác Sinh lên ngôi, đuổi chúng thiếp ra, nên phải đi bộ đến đây tìm kiếm đại vương.

 

Nghe như vậy, vua bảo Thắng Man:

 

- Trước đây, khanh đã hưởng ân sủng bổng lộc của vua chồng, nay tạm trở về nhận sự phụng dưỡng của vua con. Ta cùng Hành Vũ từ đây không trở lại nữa.

 

Bị quay trở lại thành Thất La Phiệt, theo đường Thắng Man vừa đi vừa khóc.

 

Cùng đi dần về hướng thành Vương-xá, đến địa phận thành, thấy một khu vườn, vua ngừng lại và bảo Hành Vũ:

 

- Ta tạm ở đây, khanh vào trong thành, báo với vua Vị Sanh Oán, đại vương Thắng Quang nước Câu Tát La đang ở ngoài vườn, muốn gặp ngài.

 

Hành Vũ đi gặp vua Vị Sanh Oán tâu lại sự việc trên. Nghe nói xong, rất kinh ngạc, vua Vị-Sanh Oán nói với Hành Vũ:

 

- Vua Thắng Quang nước Kiều Tát Lauy lực lớn với bốn loại binh hùng cường, vì sao đến đột ngột mà chúng tôi không được biết?

 

Hành Vũ đáp:

 

- Nay nhà vua nào có binh sĩ cường thịnh, thái tử mưu nghịch chiếm ngôi vua của cha, chỉ có thiếp theo vua đến đây mà thôi.

 

Vị Sanh Oán nói:

 

- Nếu như vậy, ta xin đề nghị ngài làm vua xứ này, ta tự lui xuống làm thái tử.

 

Sau khi triệu tập quần thần, nhà vua ra lệnh:

 

- Vua Thắng Quang là chúa của đại quốc, là vua quán đảnh thuộc Sát đế lợi, nay bỗng nhiên đến đây, cần phải cung kính phục vụ, các khanh hãy sửa sang sạch sẽ đường sá trong thành, thống lĩnh bốn loại binh với trăm ngàn người, ta muốn chính mình nghênh đón vua vào đây.

 

Các quan vâng lệnh vua, đánh trống thổi loa báo cáo mọi người sửa sang thành quách, quét dọn đường sá thật sạch sẽ như vườn Hoan Hỷ của Thiên Đế Thích.

 

Trong lúc này, vua Thắng Quang nhịn đói đã lâu, lấy làm lạ vì sao sứ giả đến chậm nên ra khỏi vườn để tìm thức ăn uống, run sợ nhìn chừng nên đi đến vườn trồng rau cải. Khi ấy, người giữ vườn là kẻ phàm phu, nên đưa vua năm củ. Vì quá đói, vua ăn cả củ và lá. Ăn xong, bị khát, vua đến chỗ có nước và uống quá nhiều nên thân thể bị rối loạn suy nhược, nhớ đến Thắng Man nên bước tới trước, mất thăng bằng ngã xuống đất, miệng bị ngậm đất vụn nên qua đời.

 

Thống lĩnh bốn loại binh đến vườn, nhưng Vị Sanh Oán không thấy vua, liền sai binh mã tìm kiếm bốn phía. Có một kỵ mã đến vườn trồng cải, hỏi người ở vườn:

 

- Ngươi có thấy người như vậy không?

 

Đáp:

 

- Tôi thấy một người mới đến đây, xin củ cải rồi đến bên bờ nước.

 

Vội chạy đi tìm, người ấy thấy vua, thi thể vua chết cứng bên góc đường, liền đi báo cho vua Vị Sinh Oán. Nghe báo, vua kêu lên:

 

- Tai họa thay! Nay ta lại bị thêm tiếng xấu. Trước đây ta đã mang tiếng hại cha đoạt ngôi, nay lại bị kêu là giết bạn của cha.

 

Vua liền sai vô số quân đội đến phục vụ chỗ thây chết, và ra lệnh đại thần:

 

- Đây là vua Thắng Quang, đại vướng quán đảnh Sát đế lợi, gặp nguy khốn nên băng hà ở đây, phải tổ chức nghi lễ long trọng hỏa táng thi thể.

 

Theo lệnh vua, các quan trang hoàng linh xa đưa thi thể đến Hàn Lâm hoàn tất việc hỏa thiêu.

 

Nhà vua đến gặp Phật, lạy sát hai chân, ngồi qua một bên, bạch:

 

- Đại đức Thế Tôn! Không biết trước đây làm nghiệp gì, mà nay vua Thắng Quang vì ăn củ cải nên khốn khổ qua đời?

 

Thế Tôn bảo:

 

- Đại vương! Vua Thắng Quang nhận quả báo như trên do nghiệp đã làm. Đại vương! Thời quá khứ tại làng kia có một Bà-la-môn lấy vợ chưa bao lâu, sinh được một con. Lớn lên, người này khất thực để sinh sống. Một hôm, được năm củ cải dâng lên mẹ, anh ta nói: "Con đi tắm rửa, mẹ chờ con trở về dâng thức ăn". Này Đại vương, bấy giờ vào thời không có bậc Chánh giác, chỉ có Độc giác xuất hiệnthế gian, từ mẫn kẻ cô độc yếu ớt, thích sống an tịnh, làm phước điền cho thế gian. Khi ấy, có một vị Độc giác du hành trong nhân gian, vào sáng sớm, mặc y mang bát vào thành khất thực, đi đ?n nhà kia. Thấy vị Độc Giác này thân tướng đoan nghiêm sáu căn thanh tịnh, vợ người Bà-la-môn liền đem củ cải dâng cho vị ấy. Nhận vật cúng dường này xong, vị Độc giác vọt lên hư không hiện các thần biến. Khi kẻ phàm phu thấy các thần thông này, tâm được điều phục, ý rất hoan hỷ liền hướng đến lễ bái.

 

Sau khi tắm rửa, về đến nhà con người Bà-la-môn thưa:

 

- Mẹ đưa cho con củ cải lúc nãy.

 

Mẹ nói:

 

- Mới vừa có vị Bích Chi đến đây khất thực, ta đã dâng cho ngài.

 

Đang đói bụng, nghe nói như vậy, người con tức giận phát sinh ác niệm: "Mong cho ông ấy ăn củ cải bị rối loạn mà chết ".

 

Đại vương nên biết, đứa bé kia nào phải ai khác, chính là vua Thắng Quang. Đời trước, vì có ác tâm với vị Độc giác, do nghiệp lực này nên trong vô lượng trăm ngàn năm bị đọa địa ngục chịu nhiều khổ não, do sức của nghiệp báo còn lại trải qua sáu mươi lần bị bệnh rối loạn mà chết. Đời này, tuy đã chứng Thất Sinh, vẫn còn nghiệp lực dư tàn nên nhà vua ăn củ cải bị rối loạn mà qua đời. Đại vương nên biết, nghiệp báo của Thắng Quang từ nay dứt hẳn không còn thọ nữa. Đại vương nên biết, nghiệp trắng quả báo trắng, nghiệp đen quả báo đen, nghiệp tạp quả báo tạp. Vậy nên từ bỏ hai nghiệp đen và tạp, tu tập nghiệp trắng, chớ nói lời ác. Khi nghe lời Phật dạy, vua Vị Sinh Oán hoan hỷ cả thân tâm, đảnh lễ sát chân Phật, tín thọ từ giã.

 

Sau khi thái tử Ác Sinh lên ngôi vua, một hôm cùng các đại thần lâm triều nơi đại điện, Khổ Mẫu tâu:

 

- Đại vương nhớ không, ngày trước, ở trước đại chúng, ngài đã rống lên tiếng sư tử: Nếu ta lên ngôi, trước hết tru diệt những tên họ Thích, báo mối thù đầu tiên của ta.

 

Vua hỏi Khổ Mẫu:

 

- Có nên thực hiện lời ta nói không?

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- Nay Đại vương đã lên ngôi báu, nên nhớ lại lời nói lúc trước chinh phạt họ Thích, đúng lúc không làm thì thành nói dối, xin ngài hạ lệnh chọn ngày xuất quân, cả bốn loại binh tượng mã xa bộ đều xuất phát, mâu giáp hăng hái, chuông trống vang lừng, ra khỏi thành Thất La Phiệt hướng về nước Kiếp Tỷ La, tru diệt họ Thích.

 

Nghe theo lời của Khổ Mẫu, vua Ác Sinh hạ lệnh đem quân đi chinh phạt nước kia. Đại sư Thế Tôn với tri kiến hoàn toàn, biết các Thích tử chắc bị bỏ mạng. Ngay bên đường, giữa biên giới hai nước, Phật ngồi thẳng dưới gốc cây nhỏ có ít cành lá. Trông thấy Thế Tôn, vua Ác Sinh liền đến nơi, bạch:

 

- Đại đức! Có nhiều vườn rừng với bóng mát rậm rạp, vì sao Ngài bỏ đi đến nơi này?

 

Cây này ít lá thiếu bóng mát, làm sao trú được?

 

Phật nói:

 

- Đại vương! Có gì bằng bóng mát của cây thân tộc!

 

Nghe Phật nói, sau khi suy nghĩ: "Giòng họ Thích trong nước Kiếp Tỷ La đều là thân quyến của Phật. Như Lai thương họ, ta không nên trái ý, vua Ác Sinh liền lui binh về nước".

 

Đến ba lần, Khổ Mẫu cầu thỉnh tru diệt, cuối cùng với các cận thần, ngay giữa triều, vua bảo quần thần:

 

- Những người họ Thíchthành Kiếp Tỷ La thường kêu ta là con của nô tỳ, mạ nhục quá nặng, không thể quên được. Nhưng họ là thân tộc của đức Như Lai, Thế Tôn thương mến, ta đành phải chịu nhịn không dám tiến hành việc tru diệt, làm sao trả được mối thù bị mắng này!

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- Thần nghe Sa-môn Kiều Đáp Ma tự tuyên bố ly dục. Bậc ly dục không còn tâm niệm thân quyến, nếu còn tâm thân quyến thì không phải ly dục. Đạo, tục, khác nhau, đại vương nên tự quyết ... Tâu đại vương, hôm nay chính là lúc tru diệt họ Thích.

 

Bấy giờ, vua Ác Sinh muốn thống lĩnh bốn loại binh đi tàn sát. Trong lúc vua chưa đi, Đức Phật đi đến vườn nhiều gốc cây thuộc nước Kiếp Tỷ La, sau khi suy nghĩ: "Trong thành, những người họ Thích chưa kiến đế, khi họ chiến đấu với vua Ác Sinh thì không có cơ hội để kiến đế ".

 

Nghe Thế Tôn đến trong vườn ấy, những người họ Thích tập trung đến gặp Ngài, lạy sát chân, ngồi qua một bên. Thế Tôn tùy theo căn cơ nhân duyên của các Thích Chủngthuyết giảng diệu pháp. Bấy giờ, trong hội có vô số trăm ngàn hữu tình, được lợi ích lớn, hoặc đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc gây nhân Độc giác, hoặc tạo nhân duyên thành bậc Chánh giác.

 

Lại có vô lượng chúng sinh quy y Tam bảo thọ trì các học xứ phụng hành lời Phật dạy. Các Thích chủngthành Kiếp Tỷ La được pháp lợi này xong, đảnh lễ Thế Tôn từ giã ra về.

 

Khi ấy, Vua Ác Sinh thống lĩnh bốn loại binh đóng gần thành Kiếp Tỷ La.

 

Cụ thọ Mục Kiền Liên đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch:

 

- Thế Tôn! Con nghe kẻ ngu si Ác Sinh thống lĩnh bốn loại binh đến tiêu diệt họ Thích. Thần lực của con có thể dời binh lính ấy đến nơi xa xôi khác. Cầu xin Thế Tôn từ bi cho phép, con lại dùng thần lực biến thành hóa ra sắt, dùng lưới sắt lớn che ở trên, làm cho Ác Sinh không thấy được thành Kiếp Ty La, làm sao tru diệt được.

 

Phật nói:

 

- Ta cũng biết thầy có sức thần thông của bậc giải thoát, nhưng do túc nghiệp Thích chủng đã gây, nay nghiệp thành thục phải chịu quả báo, như nước thác chảy không thể ngăn lại, nên phải tự nhận ... như trên. Thế Tôn nói kệ:

 

    Giả sử trăm ngàn kiếp

    Nghiệp đã làm không mất

    Khi nhân duyên gặp nhau

    Tự nhận lấy quả báo.

 

Phật bảo Đại Mục Liên:

 

- Nên biết thế gian nhận lấy quả báo đều do nghiệp lực, do nghiệp lực mà sinh, do nghiệp lực mà trụ. Tất cả chúng sinh đều do nghiệp thiện ác mà nhận lấy quả báo.

 

Không đuợc mãn nguyện, Mục Kiền Liên lễ Phật từ giã.

 

Tại thành Kiếp Tỷ La, nghe vua Ác Sinh đưa đại binh đến muốn tiêu diệt, các Thích chủng liền ra lệnh bốn loại binh trang bị vũ khí xuất thành cự địch, họ chẳng phòng bị quân xung phong của vua Ác Sinh. Đều là bậc kiến đế nên các Thích Chủng này không làm việc sát hại, chỉ dùng roi gậy, quơ trái vẫy phải để đánh, hoặc dùng cung bắn tên làm cho đứt dây đai dưới bụng voi ngựa, hoặc bắn làm rơi mão, giáp xuống đất, hoặc bắn hai bên tai, trúng vào dây cương đai giáp, chỉ làm té ngã không gây thương tích cho đầu thân, không giết chết.

 

Khi ấy, quân của Ác Sinh bị tán loạn, các Thích Chủng đắc thắng.

 

Sau khi tất cả binh tướng đều vào trong, đóng cửa, lên trên thành, họ ra lệnh:

 

- Chúng ta không được gây hại cho Ác Sinh và quân lính, ai vi phạm không phải thuộc họ Thích.

 

Ác Sinh thấy các Thích Chủng này đầy đủ nhân từdũng lực lớn, nên bảo Khổ Mẫu:

 

- Chúng ta hãy thu quân, tạm thời về nước.

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- Đại vương chớ buồn, Thích chủng ở Kiếp Tỷ La đều là bậc kiến đế, đến nổi không giết cả ruồi muỗi, huống chi hại người. Nếu không tin, vua hãy nghiệm xem, trận lớn vừa rồi chẳng thương tổn ai cả. Họ lại ra lệnh, không được làm hại chúng sinh Ác Sinh và quân lính, ai vi phạm không phải là họ Thích.

 

Nghe tâu, chúng sinh Ác Sinh vẫn im lặng. Có một Thích chủng tên Thiểm Bà đang ở ngoài thành kiểm soát nông nghiệp, nghe vua Ác Sinh thống lĩnh bốn loại binh đến thành Kiếp Tỷ La tiêu diệt Thích chủng, nhưng không nghe lệnh truyền của các Thích chủng và cũng chưa kiến đế, nên dẫn quân đến đánh úp Ác Sinh. Hai bên giao chiến, quân Thiểm Bà thua nặng bị quân Ác Sinh tàn sát gần hết.

 

Bấy giờ, Ác Sinh bảo Khổ mẫu:

 

- Vừa rồi, ngươi nói các Thích chủng kiến đế đến ruồi muỗi cũng không giết, huống chi với người, nay một mình Thiểm Bà dẫn quân đến đánh, giết hại cũng nhiều, huống chi các Thích chủng khác ở Kiếp Tỷ La dẫn binh đến đánh thật khó đối phó, tạm thời trở về, muốn thắng chỉ có chết.

 

Khổ mẫu tâu:

 

- Đại vương, Thiểm Bà đến từ bên ngoài, trước đây chưa vào thành Kiếp Tỷ La, không biết quy chế, cho nên phát tâm hung bạo chiến đấu, trong ngoài họ không liên lạc nhau, xin ngài chớ lo.

 

Bấy giờ, Thích tử Thiểm Bà muốn vào thành, đến cửa thành kêu mở cửa. Người giữ cửa hỏi:

 

- Ông là ai?

 

- Đáp:

 

- Ta là Thiểm Bà ngươi hãy báo với các Thích chủng.

 

Trong thành sai sứ ra bảo:

 

- Từ đây về sau, ngươi không còn thuộc họ Thích Ca, hãy đi đâu tùy ý, vì ngươi đã vi phạm pháp lệnh trong thành, thế nên không được vào trong thành.

 

Thiểm Bà hỏi:

 

- Họ chế lệnh gì mà nói ta phạm tội?

 

Đáp:

 

- Chúng tôi ra lệnh không được sát hại binh lính của Ác Sinh, ai vi phạm thì không còn là Thích chủng.

 

Đáp:

 

- Tôi thật không nghe, xin dung thứ cho.

 

Khẩn cầu như vậy nhưng mọi người vẫn không đồng ý, Thiểm Bà bảo họ:

 

- Nếu không cho vào, xin đưa gia đình tôi ra.

 

Họ đưa gia đình Thiểm Bà ra khỏi thành.

 

Sau khi đoàn tụ gia đình, Thiểm Bà đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên bạch Phật:

 

- Các Thích chủngthành Kiếp Tỳ La đuổi con ra, xin Phật từ bi ban cho con vật kỷ niệm, để thường cúng dường kính thờ Như Lai.

 

Với từ bi, đức Phật đem tóc và móng của mình trao cho Thiểm Bà.

 

Với tâm trân trọng, Thiểm Bà nhận lấy tóc và móng của Như Lai rồi đi đến nước Bà Cụ Trà.

 

Nghe nói có vị giàu có khỏe mạnh thuộc họ Thích tên Thiểm Bà đến đây, muốn làm chủ, nhân dân ở đó bàn nhau:

 

- Chúng ta hãy cùng nhau thương nghị nên theo ông ta hay không?

 

Dân trong nước đều tập trung đến dưới núi để bàn tính việc này. Khi ấy, để tùy tùng tại một nơi khuất, tự mình giả làm sứ giả mang thư, dấu đao bén dưới nách, đến chỗ họ tập họp, Thiểm Bà nói: - Các bạn nên biết, Thích tử Thiểm Bà có thế lực lớn sức mạnh khó chống lại, sai tôi đem thư đến cho quý vị.

 

Hỏi:

 

- Để làm gì?

 

Đáp:

 

- Ông ta muốn làm vua thống lĩnh quý vị. Hãy ngồi vào để cùng đọc thư.

 

Mọi người nói:

 

- Nơi đây không có vật để ngồi vậy ngồi vào đâu?

 

Sứ giả liền rút đao chặt tảng đá thành từng miếng để ngồi và mời mọi người cùng ngồi. Thấy vậy, mọi người đều thán phục là kỳ lạ, hỏi:

 

- Bậc trượng phu như bạn, ông ấy có bao nhiêu người?

 

Đáp:

 

- Tôi là người đưa thư có gì đáng nói, có những người khác giỏi gấp bội tôi.

 

Nghe như vậy, mọi người rất kinh sợ, bảo nhau:

 

- Sứ giả còn như vậy, huống chi Thiểm Bà, hơn hết là lập ông ta làm vua.

 

Sau khi đọc thư, họ viết thư báo lại và nói với sứ giả:

 

- Lành thay đại vương! Chúng tôi khâm phục phong độ, rất mong ngài giáng lâm sớm.

 

Sau khi từ giã, về lại chổ cũ, Thiểm Bà trang sức lại thân quyến, chỉnh đốn tùy tùng đi vào nước Bà Cụ Trà. Già trẻ mọi người đều vui mừng hết lòng phục vụ các nhu cầu, chọn ngày lành đưa lên làm vua.

 

Từ xa, các nước đều nghe trong nước Bà Cụ Trà có Thích chủng tên Thiểm Bà lên làm vua, lập hiệu nước là Thiểm Bà quốc.

 

Sau khi lên ngôi, Thiểm Bà xây một tháp lớn, an trí tóc và móng của Như Lai để cúng dường, đặt tên là tháp Thiểm Bà.

 

Trước đây, người vợ không tin Phật, hạ lệnh trong nước lập miếu thần, thờ cúng theo tục mãi