Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cái Thấy Chín Duyên

Monday, April 18, 201611:27(View: 10388)
Cái Thấy Chín Duyên

Cái Thấy Chín Duyên

Quảng  Minh

Cái Thấy Chín Duyên



Lời  Nói Đầu:

Bài viết mang nặng tính tổng hợp, liệt kê, suy luận chủ quan, có khi phỏng định nên chỉ có tính cách dùng để tham khảo.  Mong được các bậc cao minh bổ chính và chỉ giáo thêm.   Xin chân thành cảm tạ.


Cái Thấy là một biểu hiện  của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới  hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…) và không gian (ở tất cả các cảnh giới,  ở đủ  các nơi rộng, hẹp, thông, bít, sáng, tối, có ánh sáng hay không có  ánh sáng,  có vật hay không có vật…). Trên phạm vi pháp tướng,  cái Thấy bao gồm cả chủ thể  lẫn khách thể (Năng và Sở), hiện tượngbản thể, với  pháp giới tròn  đầy  từ Vật  Giới, Thân Giới, đến Tâm Giới.  Phạm vi bài viết này tập trung vào cái Thâý  lúc thức với cảnh vật .

Theo Duy Thức Học,  cái Thấy cảnh vật  lúc ta thức cần có đầy đủ 9 duyên (điều kiện)  để sinh khởithể hiện.  Chín duyên này được liệt kê  theo cách đánh số từ lớn đến nhỏ, từ Vật Giới  đến Tâm Giới, từ hiện tượng cạn cợt bên ngoài đến cội nguồn sâu xa bản thể bên trong, như sau:

#9. Vật  (Cảnh)

#8. Ánh sáng  (Minh)

#7. Hư không  (Nền của Vật Cảnh  và của Ánh sáng  )

#6. Mắt (Nhãn căn)

#5. Chủng tử

#4. Tác Ý

#3. Ý thức (Phân Biệt Y)

#2. Mạt Na thức (Nhiễm Tịnh Y)

#1. A Lại Da thức  (Căn Bản Y)

Có thể xem ba duyên #9, #8, và #7 là thuộc về Vật Giới,  trong đó duyên # 9 (Vật) là phần thô, hai duyên #8 (Ánh sáng) và  #7 (Hư không) là phần tế của Vật Giới.  Duyên #6 (Mắt) có thể xem thuộc về Thân Giới.  (năm căn Nhãn Nhĩ  Tỹ  Thiệt Thân được xem thuộc về Thân Giới).  Năm duyên còn lại là duyên #5 (Chủng tử), duyên# 4  (Tác Ý), duyên #3 (Ý thức), duyên #2 (Mạt Na thức),  và duyên #1 (A Lại Da thức) có thể xem đều thuộc về Tâm Giới .

Người phàm phu ít học khi nói là "Tôi (hoặc mắt tôi) thấy vật" tức là họ chỉ biết đến Thân giới (Duyên # 6 : Mắt)  và đến phần thô của Vật  giới (Duyên #9 : Vật).

Cao hơn ,  người phàm phuhọc thức, ngoài hai duyên# 6 và duyên #9 nêu trên, có thể biết thêm hai duyên tế của Vật Giới là duyên #8 (Ánh sáng) và duyên # 7 (Hư không).   Bốn duyên này (#9, #8, #7, và  #6) chính là căn bản của môn khoa học thường thức gọi là "Quang Học" (thuộc về Vật Lý Học)  đã được phổ biến từ học trình giáo dục cấp Trung Học Phổ Thông .  Theo ý  nghĩa này , dưới  nhãn quan Duy Thức, các nhà Đạo Học xem cái thấy  biết còn có giới hạn chỉ ở 4 duyên đầu tiên nêu trên , ở một nhà khoa học, hay ở một nhà bác học dù có tinh vi đến đâu cũng còn là cái thấy biết phàm phu, hoặc là Trí Thức phàm phu .

Dù  5 duyên thuộc về Tâm giới (từ duyên #5 đến duyên  #1) chiếm hơn phân nửa các duyên tạo thành cái Thấy,  nhưng  ít ai để  ý biết đến các duyên này của Tâm giới  mà Duy Thức Học soi tỏ với  ý nghĩa và danh pháp được  sơ lược như sau :

 (#5) Chủng Tử:

Là những hạt mầm ở dạng năng lượng, là kết tinh của nghiệp lực được tích chứa trong kho Tàng Thức ( A Lại Da Thức, duyên #1). Mỗi khi tâm thức chúng ta khởi  sinh động niệm, các thức  tình tương ứng  được phát khởi  rồi được  phát  triển, huân tập thành chủng tửCác chủng tử này không bao giờ bị hư tổn, mất mát, hay hoại diệt.   Mỗi căn có mỗi loại chủng tử riêng nên có tác dụng đặc sắc riêng.  Như ở mắt có chủng tử để  thấy, ở tai có chủng tử để nghe…

Xét  về mặt thời gian hình thành,  chủng tử được phân biệt ra hai loại là Chủng Tử Sẵn Có (Bản Hữu Chủng Tử) và Chủng Tử Mới Tích Tập (Tân Huân Chủng Tử).

 Xét về mặt tính chất, chủng tử được phân biệt ra hai loại là:

  1. Nghiệp Chủng (còn có tên là Dị Thục Chủng Tử hay Dị Thục Tập Khí)  do các Tâm Vương và  các Tâm Sở (thiện, ác..) tạo ra.  Nghiệp Chủng lại được chia ra hai loại là là Chủng Tử Còn Luân Hồi (Hữu Lậu Chủng Tử)  với  đầy đủ ba tánh Thiện, Ác,  Vô Ký  và   Chủng Tử Không Còn Luân Hồi (Vô Lậu Chủng Tử) với chỉ thuần một tánh Thiện.

  2. Pháp Chủng (còn gọi là Đẳng Lưu Tập Khí) bao gồm các chủng tử đồng đẳng lưu xuất.

     

(#4) Tác Ý:

Là một trong 5 món Biến Hành Tâm Sở.  5 món này là: Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư.

Gọi là Tâm Sở vì đây là pháp sở hữu của Tâm Vương (Tâm Vương Chi Sở Hữu Pháp),  tức là luôn do từ Tâm Vương khởi ra mà có (Hằng Y Tâm Khởi), tương ứng với Tâm Vương (Dữ Tâm Tương Ứng) và hệ thuộc  vào Tâm Vương (Hệ Thuộc Ư Tâm).  Có thể nói Tâm Sở chính là những tình thức, chấp trước , dính mắc nơi Chơn Tâm nên ít nhiều làm  che mờ Chân Tâm, khiến Giác Thể  bản hữu nơi Chơn Tâm bị tạm thời chuyển thành Bất GiácDuy Thức Học phân biệt có 51 loại Tâm Sở liệt kê như sau:

5 Biến Hành (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư),

 5 Biệt Cảnh (Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Huệ),

 11 Thiện (Tín, Tàm, Quí, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh tấn, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại),

6 Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến),

20 Tùy Phiền Não (bao gồm 10 Tiểu Tùy là Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Xiễm, Hại, Kiêu ; và 2 Trung Tùy là Vô Tàm, Vô Quí; và 8 Đại TùyTrạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, Bất Chánh Tri),

và 4 món Bất Định (Hối, Miên, Tầm, Tư).

Gọi là Biến Hành vì 5 món này có mặt trong mọi lúc (về mặt thời gian), mọi nơi (về mặt không gian), trong tất cả hoạt động, vận hành của tám thức (Bát Thức Tâm Vương),  và trong tất cả mọi cảnh giới (ba cõi hoặc kết quả tu tập).

 Chính do Tác Ý nơi mắt (nhãn căn) nên ta mới  thấy biết được  vật.  Nếu  không có Tác Ý (như khi  ta không có sự chú tâm, chú ý hoặc khi ta vô ý) thì ta chỉ  “Nhìn”  mà không  “Thấy”.

 

( #3)  Ý Thức (Phân Biệt Y) (Liễu Biệt Cảnh Thức) (Đệ Lục Thức):

Ý Thức còn được gọi là Đệ Lục Thức theo thứ tự trong Bát Thức Tâm Vương của Duy Thức Học.

Bát Thức Tâm Vương gồm có 1. Nhãn Thức, 2. Nhĩ Thức , 3. Tỹ Thức, 4. Thiệt Thức, 5. Thân Thức (gọi chung là Tiền Ngũ Thức), 6. Ý Thức, 7.  Mạt Na Thức, và 8. A Lại Da Thức.

Đặc điểm của Ý Thức là nhạy bén, lanh lẹ, khôn ngoan trong phân biệt, học hỏi, suy luận nên có tên gọi là Phân Biệt Y, hay tên Liễu Biệt Cảnh thức.  Đó là do Ý Thức có đầy đủ ba thể phân biệtTự Tánh Phân Biệt, Tùy Niệm Phân Biệt, và Kế Đạc Phân Biệt

Công năng của Ý ThứcChấp NgãChấp Pháp. Công năng chấp ngã của Ý Thức là do thừa hưởng được từ Mạt Na Thức (duyên # 2). Nhưng so với Mạt Na thức chỉ có chấp ngã, Ý Thức có thêm chấp pháp. Nơi ý nghĩa này, có thể xem Ý Thức chính là phần “tinh luyện”, nhạy bén nhất của Mạt Na Thức, được  xuất sinh từ Mạt Na Thức và  được sử dụng khi tiếp xúc với cảnh vật  để có thể vận dụng phân biệt rồi  tìm cách ứng tiếp, sử dụng  cảnh vật một cách tối ưu cho công năng chấp ngã của Mạt Na thức.

 Ý Thứctoàn thể  51 món Tâm Sở của Duy Thức Học

Tuy vậy, Ý Thức không được thường hằng.  Nó  xem như  bị gián đoạn trong 5 trường hợp là: 1. Cảnh trời  Vô Tưởng,  2. Vô Tưởng Định, 3. Diệt Tận Định, (Vô Tưởng ĐịnhDiệt Tận Định là hai pháp Định Vô Tâm của Nhị Thừa), 4. Ngũ say  (Thụy Miên ), và  5. Chết  giấc ( Muộn Tuyệt). Nên Ý Thức có Kế (có so đo, tính toán) mà không có Biến (thường hằng).

Khi Tiền Ngũ Thức tiếp vật ( thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc biết vật), liền đó Ý Thức bèn khởi tác dụng tương ứng, phối  hợp hài hòa với Tiền Ngũ Thức.  Đây được gọi là Ngũ Câu Ý Thức.

Cùng  với  Mạt Na Thức  (duyên # 2) và A Lại Da Thức (duyên # 1), Ý Thức là nguồn căn của tam nghiệp (thân, khẩu,  ý) khiến chúng sinh phải theo đó mà chịu luân hồi khổ đau không dứt. Vì thế,  theo Duy Thức Học, tướng của Ý Thức  là luân chuyển trong ba cõi (Tam Giới luân thời dị khả tri).  Chính từ nơi Ý Thức mà có ra ba nghiệp Ý Nghiệp, Khẩu Nghiệp, và Thân Nghiệp để chiêu cảm và thọ nhận quả báo trong ba cõi.  Nhưng ngược lại, cũng chính từ nơi Ý Thức mà ta có thể tu hành Quán Hạnh, Đoạn Hoặc và  phá trừ Ngã Chấp cùng Pháp Chấp để đến khi  có được đầy đủ diệu dụng thì Ý Thức được chuyển thành Diệu Quan Sát Trí

 

(#2) Mạt Na Thức (Nhiễm Tịnh Y) (Thức Thứ Bảy) (Tư Lương Thức) (Truyền Tống Thức) (Ý Căn) (Ý)

Được gọi tên là Thức Thứ Bảy dựa theo thứ tự của Bát Thức Tâm Vương. Gọi là Truyền Tống Thức dựa trên công năng tiếp thu, đưa chuyển chủng tử vào ra nơi Tàng Thức.  Gọi là Nhiễm Tịnh Y vì là nơi  nương tựa cho sáu thức trước (Tiền Lục Thức) bất kể là nhiễm hay tịnh.  Vì nó là căn nguồn của Ý Thức nên còn có tên là “Ý Căn”, hay còn được gọi đơn giản hơn là “Ý”.

Mạt Na Thức duyên nơi  Kiến Phần của A Lại Da Thức (Duyên # 1) làm  Ngã và duyên nơi Tướng Phần của  A Lại Da làm “Ngã Sở” ( “Y Bỉ Chuyển Duyên Bỉ” ) rồi chấp đó làm tự thể của nó. Đặc điểm của tánh và tướng nơi tự thể này là luôn luôn lo nghĩ, thẩm xét , so lường (“Hằng thẩm tư lương vi tánh tướng”).  Do đây, nó còn có tên gọi là Tư Lương Thức . Đây chính là “tiếng nói thì thầm” luôn hiện diện nơi tâm trí thông thường của mọi người .  Qua đây, có thể thấy Mạt Na thức chỉ là một thành phần có từ A Lại Da Thức .  Mạt Na Thức  có  hai đặc điểmtư lương  và  chấp ngã, dù cái ngã này chỉ là Vọng Ngã, cái ngã được hình thành từ các lo nghĩ, thẩm xét khởi lên từ Bất Giác.   René Descartes (1596-1650), cha đẻ của chủ nghĩa Duy Lý Cận Đại với câu nói bất hủ “Tôi tư duy chính là tôi tồn tại” (Je pense,  donc je suis) đã xác định, xác chứng  được cáí ngã (Vọng Ngã) này nơi con người hoặc rõ hơn là nơi Mạt Na Thức của con ngườiLục Tổ với lời khai thị về sâu tận nơi cội nguồn (“Bản Lai Diện Mục” ):  “Không nghĩ thiện, không nghĩ  ác..” cho Huệ Minh đã trực chỉ cội nguồn này,  nhắc nhớ Thượng Tọa Minh  vượt lên trên,  vượt qua  phạm trù phân biệt về thiện ác của Ý Thức (duyên # 3) và vượt qua luôn phạm trù về  suy tư, nghĩ ngợi, tư lương  của Mạt Na Thức (duyên # 2). Kinh Duy Ma Cật, phẩm Bất Nhị Pháp Môn, Bồ Tát Nhạo Thật đã chỉ ra cái Thấy Thật của nhục nhãn vẫn còn chưa thấy đúng chân lý: cái Thấy Thật này chưa là cái Thật Thấy.  Chỉ có cái Thấy của Tuệ Nhãn đã vượt qua phạm trù Năng - Sở (của duyên # 2) mới là Cái Thấy Chơn Thực (cái Thật Thấy).

Tánh của Mạt Na thức là tánh Vô Ký (tức là không có sự phân biệt thiện ác) và tánh Hữu Phú (tức là có đèo bồng thêm các phiền não), ( các phiền não này có  căn nguồn từ sự chấp ngã như Ngã Si, Ngã Mạn, Ngã Ái, Ngã Kiến đặc sắc của Mạt Na Thức), nên gọi chung là Hữu Phú Vô Ký tánh.  Mạt Na thức vừa là thường hằng, vừa có tính thẩm xét  (về chấp ngã) nên còn  được gọi là “Diệc Hằng Diệc Thẩm” hay còn gọi  là “vừa Biến, vừa Kế”.  Chấp ngã được phân biệt có hai phần : một là chấp ngã bên con người (gọi là Chấp Nhơn,  hay còn được gọi  là Kiến Thủ), hai là chấp ngã bên vạn pháp (gọi là Chấp Pháp, hay còn được gọi là Tướng Thủ).  Kiến Thủ và Tướng Thủ là hai món thủ chấp (Nhị Thủ) trong  Duy Thức Học.

Mạt Na Thức có 18 món Tâm Sở là 5 Biến Hành (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư),  4 Căn Bản Phiền Não (Ngã Si, Ngã Mạn, Ngã Ái, Ngã Kiến), 8 Đại Tùy Phiền Não (Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, Bất Chánh Tri) và 1 Biệt Cảnh (Huệ).

Mạt Na thức không có công năng đoạn hoặctu quán hạnh như Ý Thức mà nhờ có Ý thức tu quán hạnh va đoạn hoặcMạt Na thức cũng dần được chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí.

 

(#1) A Lại Da Thức  (Căn Bản Y) (Thức Thứ Tám)  (Tàng Thức) (Dị Thục Thức) (Nhất Thiết Chủng Thức)    (A Đà Na Thức) (Tâm):

A Lại Da Thức chính là cội nguồn sâu xa nhất của vạn hữu, là nhân của tất cả các pháp. Nói cách khác, nó chính là bản thể của vũ trụ, của tất cả các vật thể, pháp thể,  sinh thể  tức là của cả sanh mạng (bao gồm thân thểtâm thức) con người.

A Lại Da Thức có đầy đủ bốn phần:  1. Tướng Phần (là phần ảnh tướng Sở Duyên, Sở Lượng) , 2. Kiến Phần (là phần Năng Duyên, Năng Lượng),  3. Tự Chứng Phần (là phần Lượng Quả), và  4. Chứng Tự Chứng Phần (là phần chứng biết về phần Lượng Quả). Như thế, A Lại Da Thức bao hàm cả Ngũ Nhãn và Ba Tự Tánh. Ngũ NhãnNhục Nhãn, Thiên Nhãn, Huệ Nhãn, Pháp Nhãn, và Phật Nhãn. Ba Tự TánhBiến Kế Sở Chấp Tánh, Y Tha Khởi Tánh (Y Tha Duyên Nhi Sanh Khởi Tánh), và Viên Thành Thật Tánh.

A Lại Da Thức cũng thường được gọi vắn tắt  là “Tâm” để phân biệt với “Ý”  là Mạt Na Thức và với  “Thức”  là Tiền Lục Thức (sáu thức trước).

Theo thứ tự trong Bát Thức Tâm Vương, A Lại Da được gọi tên là Đệ Bát Thức

Đứng về mặt bản thể, chỉ có một thức A Lại Da.  Từ  bản thể này  mà có ra thêm bảy tướng dụng khác là Tiền Thất Thức  (bảy thức trước) nên thức A Lại Da được gọi tên là Căn Bản Y.

Về mặt quả tướng, , theo lý biến dịch nhân quảA Lại Da có tên là Dị Thục Thức (Thức Chuyển Đổi Chín Muồi). Chuyển đổi được phân biệt có ba dạng theo thờì gian và chất loại là Dị Thời Nhi Thục, Biến Dị Nhi Thục, và Dị Loại Nhi Thục.  

Về mặt tự tướngA Lại Danghiệp dụng là thu chứa , duy trì tất cả các loại chủng tử nên có tên là Tàng Thức (kho chứa chủng tử,  Năng Tàng) và nó cũng có tên là  " Nhất Thiết Chủng Thức" (các loại chủng tử bị chứa, Sở Tàng).  Vì có công năngchấp trì chủng tử nên A Lại Da còn có tên gọi la “A Đà Na Thức” (‘A Đà Na’ có nghĩa là “chấp trì”) . Chính do có công năng chấp trì chủng tử nên A Lại Da thức khiến chúng sanh có thể sinh tử  tương tục,  không bị  gián đoạn (kiết sanh tương tục).

A Lại Da Thứcbản thể vời vợi không cùng, vượt lên tất cả hiện tượng  hữu vi sanh diệt, siêu xuất 8 tướng : sanh- diệt, thường- đoạn, đồng – dị, khứ- lai nên được gọi là bát bất (bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đọan, bất đồng, bất dị, bất khứ, bất lai), rất huyền nhiệm, vượt lên mọi suy tư lý luận  (bất khả tư nghì) nên  không thể diễn tả chính xác  được.  Bản thể này vượt lên trên “Có” và “Không”, “Tức” và “Phi”…  nên  Mã Tổ  dạy “Tức Tâm tức Phật”  giúp  thiền sư Đại Mai Pháp Thường đại ngộ,  rồi sau Mã  Tổ lại nói ngược  lại là “Phi tâm, phi vật, phi Phật” mà cũng không mâu thuẩn, vẫn là tông chỉ  đốn ngộ , khai  thị trực chỉ khiến người tham học nhổ đinh vướng chấp, tháo chốt não phiền.

Tánh của A Lại Da thức là Vô Phú Vô Ký tánh. Tánh Vô Ký không có sự phân biệt thiện ác giống như ở Mạt Na, còn tánh Vô Phú là tánh hồn nhiên  (“Anh Nhi hạnh”)  không có bị phiền não chấp ngã bám dính (Hữu Phú)  như ở Mạt Na.  A Lại Da Thứcthường hằng, và không có tính thẩm xét  (như ở Mạt Na Thức ) nên còn  được gọi là “Hằng Nhi Phi Thẩm” hay gọi là “Biến mà không Kế” .

A Lại Da chỉ có 5 món Biến Hành Tâm Sở (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư).

Giống như Mạt Na,  A Lại Da cũng không có tu quán hạnh và đoạn hoặc mà cũng phải nhờ vào Ý Thức tu tậpA Lại Da cũng dần dà được chuyển hóa thành Bạch Tịnh Thức ( Vô Cấu Thức) và chuyển ra thành Đại Viên Cảnh Trí. Phần rốt ráo thanh tịnh của A Lại Da Thức được gọi qua nhiều tên khác như Phật Tánh (kinh Đại Bát Niết Bàn), Phật Tri Kiến (kinh Pháp Hoa), Thường Trú Chơn Tâm (kinh Thủ L ăng Nghiêm), Như Lai Viên Giác Diệu Tâm (kinh Viên Giác)…

Có thể tạm lược qua cơ chế khởi động và diễn tiến của 9 duyên của cái Thấy như sau:

  1. Từ nơi duyên #1 (A Lại Da Thức), đang là vô sự , vô duyên, đầy đủ,  thanh  tịnh bản nhiên …

  2. do Bất Giác (Vô Minh) mà vọng sinh ra duyên #2 (Mạt Na Thức) mà có ra Vọng Ngã, khởi đầu cho dòng thác tư lương tuôn chảy bất tận và  sự phân biệt Năng (Ta) - Sở (cái của Ta) sinh diệt  không gián đoạn.

  3. Để bảo tồn và phát triển cái Vọng NgãMạt Na Thức lại  xuất sinh ra thêm  phần có khả năng phân biệt nhạy bén để có thể đánh giá, nắm bắt chính xác được các cảnh vật bên ngoài. Đây chính là Ý Thức (duy ên #3) được hiện khởi với đầy đủ các năng lực tham dự từ chủng tử và tất cả các loại (51) tâm sở.

  4. Ý Thức  hiện diện tràn lan khắp châu thân, tạo ra Tiền Ngũ  Thức (mắt, tai,  mũi, lưỡi, thân) để tiếp nhậnphân biệt được sự vật bên ngoài một  cách “tối ưu” mà tạo nghiệp. Như khi mắt (duyên # 6) nhìn cảnh vật (các duyên từ # 9,# 8, và #7) rồi phối hợp cùng với Chủng Tử (duyên# 5) và cùng với Tác Ý (duyên# 4) mà thấy được Cảnh Vật ,

  5. Sau đó ,  Ý Thức tức thời khởi động tối đa để phân biệt được các đặc điểm tính chất của cảnh vật (hình dạng, màu sắc, tên gọi, công dụng...) rồi từ đó

  6.  Có thêm một loạt tình  thức ( thương  ghét,  khen chê, lấy bỏ..,),  một loạt lời nói cùng dự tính, và một loạt hành động (để thỏa mãn tình thức) tiếp nối theo sau.  Nếu gặp hoàn cảnh thuận  theo ý mình thì thêm tham áí, nếu gặp hoàn cảnh bất như ý thì thêm sân hận…

  7. Đây chính là các động cơ và là nguồn căn phát khởi ra ba nghiệp của  Thân, Khẩu, và Ý. Ba nghiệp căn bản này chính là tấm  vé bảo đảm chắc chắn cho chúng ta cứ  du hành mãi mãi hết lên lại xuống trong nhà  lửa ba cõi.

Và như thế có thể cụ thể hơn qua các trường hợp và tình huống “niệm khởi “ như sau:

  1. “Thấy “ = cái Thấy bản nhiên, thường hằng,  viên mãn, thực tướng  vô tướng  từ Giác Thể thanh tịnh của duyên  #1,  các duyên khác (8 duyên còn lại) chưa xuất hiện. C ái Thấy này được đức Phật khai thị rõ trong kinh Thủ Lăng Nghiêm cho ông A Nan  và đại chúng, trong đó có vua Ba Tư Nặc, người  đã nhảy nhót  vui mừng khi nhận ra được chơn thể thường hằng, bất sanh bất diệt nơi chính mình.

  2. “Tôi thấy”   = cái Thấy bắt đầu có nhuốm màu phân biệt Năng Sở,  với  sự xuất hiện của chủ thể thấy  (Năng) là “Tôi”  để bắt đầu cho  dòng tư lương chấp Ngã của duyên # 2 tham dự vào (đã có xuất hiện 2 duyên:  duyên # 1 và duyên # 2, các duyên còn lại chưa xuất hiện ).

  3. “Tôi thấy cái hoa”   =  cái Thấy được phát triển với đầy đủ Năng và Sở qua sự xuất hiệnkết hợp đầy đủ của cả 9 duyên, nên đã từ thực tướng vô tướng đã chuyển qua đến huyễn tướng của Vật Giới, nhưng chưa  sinh tạo nghiệp luân hồi.

  4. “Tôi thấy cái hoa. Ồ, hoa này đẹp quá !”   = cái Thấy với đầy đủ 9 duyên và với Ý Thức “tài lanh” lấn đất, bắt đầu nhen nhúm cho tâm tham ái tức l à  ý  nghi ệp đã  được hình thành…( có 9 duyên nhưng duyên # 3 đang được phát triển ra).

  5.  “Tôi thấy cái hoa. Ồ, hoa này đẹp quá !  Ta phải chiếm lấy nó, sở hữu nó” =  cái Thấy với đầy đủ 9 duyên và với Ý Thức phát triển, đã hình thành rõ tâm tham ái (tâm sở Căn Bản Phiền Não)   và nay rõ thêm hướng phát triển của Ý Thức  là hướng  về tánh Chấp Ngã của duyên # 2 . Đến đây, Ý nghiệp đã bắt đầu được phát triển, nhen nhúm cho sự gây tạo nghiệp nhân  luân hồi. Nếu vật  cảnh không là đóa hoa như thí dụ trên, mà là con người, ý nghiệp sẽ  được hình thành và phát triển càng phức tạp hơn, sâu xa hơn, tinh vi hơn, bền chắc hơn ..tùy theo mức độ  và tánh chất quan hệ (gia đình, xã  hội..) giữa người thấy và người bị thấy.

  6. Với ý nghiệp được hình thành và phát triển , vô số khẩu nghiệpthân nghiệp tương ứng cũng sẽ được sinh khởi ,  hình thành và phát triển tiếp theo sau ..như  luôn xảy ra và dễ nhận ra trong đời sống thông thường hằng ngày.

Do đó chỉ cần qua cái Thấy, chúng ta có thể xác định được điểm đang đứng và hướng đang đi tới của tâm thức riêng ở mỗi người:

  Nếu cái Thấy chỉ có một chiều đi từ duyên #1 đến duyên # 9, từ Tâm Giới đến Thân Giới  và Vật Giới, với  vướng mắc trụ chấp vào các duyên của Vật GiớiThân Giới  khiến  duyên # 3 và duyên  #2 trở nên lẫy lừng , có nghĩa là người  ấy đang hăng hái bước trên đường tạo nghiệp luân hồi khổ đau.  Kinh Kim Cang khẳng định rõ là không thể lấy các tướng nơi Vật Giới (Vật Tướng), Thân Giới (Thân Tướng), và Tâm Giới (Tâm Tướng) mà thấy được Như Lai như ở các câu “Hễ  cái gì có tướng đều là giả huy ễn…” (“Phàm sở hữu tướng  giai thị hư vọng…”) , “Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, người ấy tu đạo tà , không thể thấy Như Lai”  (“Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ  âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”)…

Trái lại, nếu ở ngay nơi cái Thấy  mà không bị lôi cuốn bởi Vật Giới, không bị vướng chấp nơi Thân Giới, và không bị  mê lầm bởi  những làn sóng chấp pháp, chấp ngã, tình thức lăng xăng nơi Tâm Giới,  là người có đủ sức để quay trở về  cội nguồn sâu xa của Tâm Giới  (chiều ngược lại từ duyên # 9 quay trở về duyên # 1), đó là người  đang tháo được ách khổ đau và  đang quay về đường an lạc, giải thoát.  Đến lúc ấy, chàng lãng tử cùng khổ sẽ rời bỏ các chốn lang thang  với ngàn muôn pháp tướng huyễn hóa  mà trở về  an nhiên sống nơi  bản quán,  trụ xứ hằng nhiên luôn tự đầy đủ , thanh tịnh,  bất sinh bất diệt vậy.

                                                                                       Quảng  Minh  LKH
                                                                               Plano _  April  08, 2016
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 61)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(View: 168)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(View: 195)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(View: 258)
Việt Nam là quốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(View: 255)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(View: 448)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(View: 271)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(View: 294)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(View: 317)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(View: 275)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(View: 304)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(View: 298)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(View: 272)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(View: 395)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảo là tin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(View: 423)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(View: 401)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 422)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 366)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 458)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 537)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 730)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 486)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 663)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 875)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 759)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 662)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 693)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 668)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 541)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 584)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 1062)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 789)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 654)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 937)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 1033)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 854)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 921)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 1136)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 1029)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 1157)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 916)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1351)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 1125)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 1021)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 1119)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 1181)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 1062)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1559)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 1107)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 1161)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 1247)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1339)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 1266)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 1127)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 1178)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 1076)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 1305)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1388)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM