Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quan Niệm Về A-la-hán Trong Kinh Điển Đại Thừa Phật Giáo

23 Tháng Ba 202318:17(Xem: 1294)
Quan Niệm Về A-la-hán Trong Kinh Điển Đại Thừa Phật Giáo
Quan Niệm Về A-la-hán Trong Kinh Điển Đại Thừa Phật Giáo 

Thích Nữ Nhuận Mỹ

hoasen


Tóm tắt
: Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo. Thông qua sự khảo cứu các kinh điển theo tạng Nikaya và các kinh điển Đại thừa Phật giáo, tác giả đã khái quát quan niệm về quả vị A-la-hán trong Phật giáo Nguyên thủyPhật giáo Đại thừa. Từ đó cho thấy mặc dù có một số điểm khác biệt giữa hai truyền thống Nam truyền Phật giáoBắc truyền Phật giáo, nhưng tựu chung đều xác tín vị A-la-hán là bậc thánh giác ngộ.

VỊ A-LA-HÁN TRONG KINH TẠNG NGUYÊN THUỶ

Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, Phật giáo phát triển và truyền thừa sang các nước lân cận thuộc phía Nam và phía Bắc, trong quá trình đó đã hình thành nên các bộ phái Phật giáo từ Thượng tọa bộ, Đại chúng bộ. Đến khoảng đầu Công nguyên, đã phát xuất tư tưởng Đại thừa Phật giáo. Triết lý, tư tưởng của Đại thừa Phật giáo thể hiện rõ trong các bộ kinh như: Kinh Bát Nhã Ba-la-mật, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa,… Trong đó, quan niệm Phật giáo Đại thừa đề cập về thánh quả A-la-hán là Thanh văn thừa và đề cao lý tưởng Bồ tát thừa hướng đến quả vị Phật. Nền tảng căn bản của Đại thừa Phật giáo vẫn có mối liên hệ với Nguyên thủy Phật giáo về quá trình tu chứng, hình thành tư tưởng Đại thừa Phật giáo. Đại thừa Phật giáo chú trọng thực hiện lý tưởng Bồ tát là các Ba-la-mật, là những gì ứng dụng trong thực tế cuộc sống.

Theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy, vị A-la-hán (Arhant) là bậc đã hoàn toàn giác ngộ. Danh từ gọi vị ấy có ba nghĩa: 

1. Dịch là sát tặc, với nghĩa là giết giặc phiền não

2. Dịch là Ứng cúng, với nghĩa là xứng đáng được nhận sự cúng dường của trời và người; 

3. Dịch là Bất sinh, với nghĩa là mãi mãi vào Niết bàn, không phải chịu quả báo lần thứ hai. 

Các bậc Bồ tát khi giáng sinh xuống cõi trần vẫn phải thiền định lại mới đắc quả A-la-hán. Bậc A-la-hán đã thoát khỏi phiền não, được tự do tự tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ được tư tưởng của mình, biết hết tất cả [1]. Trong Tương Ưng Bộ Kinh còn ghi lại lời dạy: “Này Rādha, khi nào Tỳ kheo sau khi như thật biết rõ tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn này; vị ấy được giải thoát, không có chấp thủ; như vậy, gọi Tỳ kheo là bậc A-la-hán. Đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu phạm hạnh, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, đã đoạn tận hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí” [2]. 

Trong Kinh Tương Ưng, Đức Thế Tôn nói như sau: Như Lai, này các Tỳ kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, này các Tỳ kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu. Này các Tỳ kheo, đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác và bậc Tỳ kheo được giải thoát nhờ trí tuệ [3]. Như vậy, bài Kinh Tương Ưng của Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy điểm khác biệt giữa Đức Phật và các đệ tử chứng quả vị thánh A-la-hán. Đó cũng là yếu tố, cái nhân của sự tu tập trải qua thời gian nhiều kiếp lâu xa mà có kết quả như vậy. Vì chúng taphàm phu, hay nhị thừa, hoặc Bồ tát, thì cũng chỉ chứng được quả mà chúng ta đã có từ đời trước. Từ quả vị A-la-hán mà tiến tu lên được quả vị cao hơn nữa có thể được, nhưng cũng không đơn giản. Người may mắn gặp được Phật, thì sự tu chứng nhanh hơn; chỉ trong một niệm tâm liền chứng được quả A-la-hán, như Ngài Xá-lợi-phất [4].

Truyền thống Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền có một số điểm nhìn khác nhau về Thế Tôn. Chính điểm nhìn khác nhau này mở lối cho sự phát triển của Phật giáo về sau và làm phong phú thêm kho tàng văn học Phật giáo [5]. Phật giáo Nguyên thủy, Thượng tọa bộĐại chúng bộ ghi nhận rằng, Thế Tôn và các Thánh đệ tử A-la-hán đều giải thoát khỏi sinh tử, nhưng vẫn còn một số điểm phân biệt giữa Ngài và các Thánh đệ tử ấy. Ngài là Giáo chủ duy nhất trong hiện kiếp, là một Thế Tôn duy nhất trong hiện kiếp, còn các đệ tử của Ngài chỉ có thể chứng A-la-hán, thực hiện con đường giải thoát [6].

QUAN NIỆM VỀ TAM THỪA TRONG ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra): Là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa. Các bản dịch của kinh từ ngôn ngữ Sanskrit sang ngôn ngữ Trung Hoa. Trong phẩm Phương tiện thứ hai có nhắc đến nhất thừa tức quả vị Phật, Đức Phật dạy rằng: “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cùng Duyên giác không thể đến được” [7]. Trong một nghìn hai trăm vị A-la-hán cùng rất đông người khác, khi nghe Đức Phật thuyết có khoảng năm nghìn người đứng dậy lễ Phật lui ra. Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: “Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hột chắc. Xá Lợi Phất! Những gã tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe ta sẽ vì ông mà nói” [8]. Đức Phật muốn chỉ Phật thừa mà không phân biệt thêm thừa nào khác. Đức Phật dùng phương tiện diễn nói các pháp, cho chúng sanh chứng “nhứt thiết chủng trí” được tri kiến của Phật. Đại thừa Phật giáo theo như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật phương tiện giới thiệu về Tam thừa tức Thanh văn thừa, Duyên giác thừa (Bích Chi Phật), Phật thừa và sau cùng chỉ cho Nhất thừa tức Phật thừa.

Thanh văn thừa

Đại thừa Phật giáo xem A-la-hán là Thanh văn thừa. Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy A-la-hán là quả vị cao nhất trong bốn Thánh quả. Sau Thế Tôn Niết bàn khoảng hơn 100 năm, nhân vật Đại Thiên đưa ra quan điểm 5 việc, trở thành nguyên nhân tranh luận của Tăng già, từ đó dẫn đến sự phân phái trong Tăng đoàn (Thượng tọaĐại chúng). Các bộ phái tiếp tục xem xét những vấn đềliên quan đến A-la-hán [9]. Thuyết Nhất thiết hữu bộ chia A-la-hán thành hai dạng: 

1. Thời giải thoát A-la-hán (Samayavimutta- Arahant) chỉ cho các vị A-la-hán có thời gian giải thoát;  

2. Phi thời giải thoát A-la-hán (A Samayavimutta- Arahant) chỉ cho các vị A-la-hán cũng có thời gian không được giải thoát [10]. 

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Thí dụ thứ ba, có đoạn: … Xá-Lợi-Phất! nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo Đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh-văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa [11].

Theo ý của đoạn kinh trên, Thanh văn thừa về việc tu tập lo tự độ, chứng được quả vị Niết bàn. Phật giáo Đại thừa hình thành quan điểm Tam thừa, Ngũ thừa. Quả vị A-la-hán xếp vào hàng Thanh văn thừa trong Tam thừa hay Ngũ thừa, quả vị cao nhất là Phật thừa. Có nghĩa là về phương diện tu chứng, Thanh văn thừa không đồng cảnh giới như Phật quả [12]. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có đoạn: Phật, vì người cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế [13] thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên giác, nói pháp Mười hai nhân duyên [14], vì hàng Bồ tát nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác thành bậc nhứt thiết chủng trí [15]. Đức Phật đã vì hàng Thanh văn khuyên tu pháp Tứ Diệu đế để chứng ngộ, đạt được quả vị Niết bàn A-la-hán, vì hàng Duyên giác khuyên tu tập quán chiếu Mười hai nhân duyên, giác ngộ giải thoát sanh tử luân hồi, vì hàng Bồ tát khuyên tu sáu Ba-la-mật, tự lợi lợi tha, cứu độ chúng sanh khổ, lợi ích chúng sanh, hướng đến thành tựu quả vị Phật. Các A-la-hán (Arahant) đôi khi được gọi là Phật Thanh văn (Savaka-Buddha). Các ngài thực hành theo những lời dạy của vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác để diệt trừ tham, sân, si và thực hiện trọn vẹn chứng đắc Niết bàn (Nirvana). Họ chứng ngộ những chân lý tương tự mà các vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác đã chứng và thường chỉ dạy lại cho người khác, nhưng thiếu những kiến thức bổ sung mà vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác sở đắc, chẳng hạn như khả năng nhớ lại vô lượng kiếp (Thanh tịnh đạo). Bản thân vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác được mô tả như vị A-la-hán, nhưng còn hơn thế nữa [16]. 

Duyên giác thừa

Quả vị Duyên giác, tức Bích Chi Phật (Pratyeka-Buddha) được dịch là Độc Giác, hay Duyên giác, tự tu tập giác ngộ không do Thầy. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có đoạn: “Nếu có chúng sanh nào theo Đức Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rõ nhân duyên của các pháp, gọi đó là Duyên giác thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa” [17]. Duyên giác thừa, tu tập tự giác ngộ pháp duyên khởi, chứng quả vị Độc Giác. Không giống với A-la-hán (arahant), vị Phật Độc giác là vị chứng đắc được sự giải thoát mà không do vị Chánh đẳng Chánh giác chỉ dạy, cũng sau một chặng đường hành đạo dài, nhưng vị Phật Độc giác được mô tả là “không tham ái, tự riêng mình chứng đắc sự tỉnh thức đúng đắn” và là “những vị đại tiên nhân đã chứng đắc được Niết bàn tối hậu”. Vị trở thành vị Phật Độc giác nhờ cái nhìn sâu sắc (quán chiếu) về vô thường và sự điên đảo của sự dính mắc (chấp thủ). Điều này phát sinh từ việc nhìn thấy những hiện tượng như lá khô héo rơi, cây xoài bị tàn phá bởi những kẻ tham lam, chim tranh nhau miếng thịt [18]. 

Đại thừa Bồ tát

Bồ-tát (Bodhisatta, Bodhisattva): Phiên âm đầy đủ là Bồ-đề-tát-đỏa, còn gọi là Bồ-đề-tát-đỏa, Ma-ha-đế-tát-đỏa. Cựu dịchĐại đạo tâm chúng sinh, Đạo chúng sinh… Tân dịchĐại giác hữu tình, Giác hữu tình… nghĩa là người có đại tâm cầu đạo, nên gọi là Đạo tâm chúng sinh. Người cầu đạo, cầu đại giác gọi là Đạo chúng sinh, Đại giác hữu tình [19]. Bodhisatta (Bồ-tát) có nghĩa là một chúng sinh tha thiết đạt được sự giác ngộ. Liên hệ đến giáo lý Bồ tát, hệ tư tưởng ban sơ của Mahasanghika chủ trương chỉ có duy nhất một Bồ tát, đó là Gautama Siddhartha (Cù-đàm Tất-đạt-đa). Theo quan điểm của Mahavastu, trong đời sống sau cùng qua hình ảnh Tất-đạt-đa (Siddhartha), Bồ tát tự sinh (self-born) mà không phải do cha mẹ sinh. Đời sống Bồ tát không phải là giai đoạn trung gian, mà có thể xem như là một hình thái được hóa hiện (nirrmanakaya); tâm Bồ tát không hề có bất cứ dấu vết nào của tham, sân, độc hại, và hiểm ác [20]. Luận về quả vị, theo Đại chúng bộ thì có ba; đó là quả A-la-hán, quả Bồ tátquả vị Phật. Đồng thời, lấy quả vị Phật làm mục đích tối hậu cho việc tu hành [21]. Hữu Bộ thì lấy quả A-la-hán làm mục đích, chủ trương “Phật và nhị thừa, đều giải thoát giống nhau, vì tam thừa Thánh đạo, mỗi thừa đều có sai khác”. Bồ tát là nhân hạnh của Phật – tức vị Phật chưa thành Phật.

Bồ tát phải thành tựu sáu Ba-la-mật (paramita) mới chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammasambuddha). Sáu Ba-la-mật: 1. Bố thí Ba-la-mật, 2. Trì giới Ba-la-mật, 3. Nhẫn nhục Ba-la-mật, 4. Tinh tấn Ba-la-mật, 5. Thiền định Ba-la-mật, 6. Trí tuệ Ba-la-mật. Ba-la-mật là từ dịch âm từ chữ Phạn là paramita, có nhĩa là đáo bỉ ngạn, độ thoát, [22]… Thuật ngữ Paramita gốc từ chữ Parama gọi là Ba-la-mật, dịch là sự hoàn thiện, hoàn hảo, trạng thái cao nhất. Văn học Thượng tọa Bộ Pali đề cập 10 Ba-la-mật, trong khi văn học Sanskrit bộ phái Đại thừa chỉ đề cập 6 Ba-la-mật [23]. Bồ tát trong kinh điển Đại thừa đặc biệt chú trọng vai trò của trí tuệ Ba-la-mật như kinh Đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa giải thích: “Này Xá Lợi Phất! Các vị Bồ tát cần phải an trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy tâm vô trụ làm phương tiện (để độ sinh). Từ đó năng trụ sở trụ không còn”. Cùng ý này, Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh nhấn mạnh: “Bồ tát Quán Tự Tại khi thực hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thấy rõ bản chất Năm uẩn đều là không, liền vượt qua tất cả khổ ách” [24]. Thuật ngữ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, Đại thừa Phật giáo đặc biệt sử dụng từ này để hình dung ý nghĩa trí tuệ trong của Phật giáo Đại thừa, “Trí tuệ” đó đặc biệt nhấn mạnh đến phương diện đáo bỉ ngạn, tức trí tuệ đã giải thoát, không phải trí tuệ của Thanh văn, càng không phải tri thức thông thường. Do đó, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là thuật từ chuyên môn trong Phật giáo Đại thừa [25].

Bồ tát thành tựu trí tuệ Bát-nhã-ba-la-mật tức tâm không còn phân biệt, dính mắc vào các pháp, thấy rõ được tánh không của các pháp như trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật, Đức Phật dạy Tu Bồ Đề như sau: “… Bồ tát theo đúng pháp, nên lấy tâm không chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nghĩa là chẳng nên trụ nơi hình sắcbố thí, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp tướngbố thí. Tu Bồ Đề! Bồ tát nên bố thí như vậy đó, không trụ nơi tướng… ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” [26]. Phật giáo Đại thừa phát triển về giáo lý “vô ngã” và lý tưởng Bồ tát đó là hai công trình vĩ đại cho nhân loại, và phát triển Phật giáo. Bồ tát không phân biệt với các pháp, không chấp chặt, dính mắc một pháp nào, mà thực hiện lý tưởng của Bồ tát với nhiều hạnh nguyện để phục vụ, lợi ích cho chúng sanh.

THANH VĂN THỪA ĐI ĐẾN NHẤT THỪA

Đại thừa Phật giáo theo như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật phương tiện giới thiệu về Tam thừa sau cùng chỉ cho Nhất thừa tức Phật thừa. Trong phẩm, Thí dụ, thứ ba, có đoạn: … Khi đó Trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng, chưng dọn bằng các món báu,…dùng trâu trắng kéo… Đến phẩm thứ tám “Ngũ bá đệ tử thọ ký” thì năm nghìn Thanh văn mới giác ngộ, hiểu được lời Đức Phật dạy mà sám hối quay về lãnh lời thọ ký thành Phật của Đức Như Lai: “Chúng con nay mới biết mình thiệt là Bồ tát được thọ ký sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Cũng ví như kẻ ngu vô trí tìm được châu báu vô giá của người bạn cho sẵn trong vạt áo, mà do vì say nên không hay, nay chỉ cho châu được chút phần Niết bàn cho đủ chẳng cầu nữa, nay từ Phật nghe thọ ký Phật huệ Vô thượng đó mới là thiệt diệt [27]. Qua đoạn kinh của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chúng ta thấy chủ yếu Đức Phật muốn nói đến quả vị Phật nên hướng đến. Đức Phật nhấn mạnh về phương tiện hành Bồ tát đạo lợi ích nhân sinhcăn bản của việc tu tập

Trong kinh luận Đại thừa như: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Thí dụ và phẩm Tín giải giải thích hàng nhị thừa Thanh văn chỉ là phương tiện, Phật thừa mới là chân thật. Do vậy, Bồ tát cần phải từ bỏ Thanh vănDuyên giác thừa để thành tựu Phật thừa. Tam thừa trong kinh luận Đại thừa, như Kinh Kim Quang Tán Bát Nhã đề cập: “Thế gian liền biết có Thanh văn, Bích Chi, Phật thừa” [28]. 

Kinh Bất Thối Chuyển Pháp LuânKinh Diệu Pháp Liên Hoa thuộc Đại thừa có điểm tương đối ôn hòa đối với Thanh văn thừa và xem Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừaphương tiện từ Tam thừa đi vào Nhất thừa. Kinh Bất Thối Chuyển Pháp Luân có đề cập: “Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã phương tiện thiện xảo; vì muốn chúng sanh từ bỏ thế giới ngũ trược, cho nên phân biệt nói thành ba, để hướng dẫn chúng sanh đi vào Nhất thừa”. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: “Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa hàng Bồ tát, tất cả những gì Đức Phật thuyết giảng không ngoài mục đíchchúng sanh khai ngộ tri kiến Phật. Này Xá Lợi Phất! Như Lai chỉ có Phật thừachúng sanh thuyết pháp, không có các thừa, cho dù là hai hay ba thừa”.  Thế Tôn phương tiện hình thành nói ba thừaThanh văn, Duyên giácBồ tát thừa để chúng sanh từ Tam thừa tiến nhập vào Nhất thừa. Điều này mang ý nghĩa, Nhất thừa mới là chân thật, là mục đích tu tập trong Phật pháp; còn Tam thừa chỉ là phương tiện [29]. 

Kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo, giải thích Nhất thừa là các vọng tưởng về năng sở nhiếp được thấu rõ một cách như thật, nhờ vậy vọng tưởng không còn sanh khởi. Hàng Nhất thừa tức Như Lai mới có thể nhiếp phục được vọng tưởng, còn ngoại đạo Phạm Thiên Vương hay Thanh văn, Duyên giác đều không thể nhiếp phục. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng cho rằng: “Vượt hơn hàng Nhị thừa, gọi là Đại thừa, Đệ Nhất thừa, Thắng thừa, Tối Thắng thừa, Thượng thừa, Vô thượng thừa” [30].

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Hóa thành dụ, phẩm này mang ý nghĩa Hóa thành là dụ cho hàng Nhị thừa Thanh văn, còn bảo sở dụ cho Nhất thừa. Vì vậy, Hóa thànhphương tiện không phải mục đích, muốn đạt được mục đích phải từ bỏ phương tiện [31].  Thanh văn thừa chủ yếu tu tập tự độ, tu tập hướng đến Nhất thừa. Nhưng Nhất thừa không phải bắt nguồn từ cái khác mà bắt nguồn từ Thanh văn mà thành. Nhất thừa, Phật thừacứu cánh của Phật pháp Đại thừa, còn Tam thừa, Ngũ thừaphương tiện để đạt được Phật thừa. Như vậy nếu như quả vị tối cao của Thanh văn thừa là A-la-hán, như vậy đồng nghĩa A-la-hán trở thành phương tiện của Nhất thừa trong cách phân tích của Đại thừa. Đây là quan điểm trong Phật giáo Đại thừa [32].

Đại thừa Phật giáo đề cao tinh thần dấn thân thực hành Bồ tát hạnh để đem Phật pháp vào đời lợi ích cho chúng sanh. Tư tưởng Phật giáo Đại thừa phù hợp mọi đối tượng, căn cơ của chúng sanh. Đức Phật phương tiện nói đến Tam thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, đến Phật thừa là cao nhất cũng là mục đích của sự tu tập. Nên Thanh văn thừaphương tiện để tiến đến Nhất thừa tức Phật thừa. Dựa trên căn bản quả vị A-la-hán phát tâm hành Bồ tát đạo “Tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha”, Đức Phật dạy chừng nào chứng được quả vị A-la-hán mới tin cái tâm của mình, mới có trí huệ thấy biết việc gì nên làm, việc gì không nên làm, đời sống đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Như chư Phật, chư Tổ cũng từ địa vị Thánh quảphát tâm đại thừa vào đời “tùy duyên” hành đạo, hóa độ chúng sanh. Tuy là Đại thừa Phật giáo phát triển hành Bồ tát đạo phương tiện độ sanh, nhưng Phật giáo phát triển không xa rời cái gốc Nguyên thủy. Được như vậy, Phật giáo mới phát huy chánh kiến của mình, phát huy hết vai trò của mình vì sự lợi lạc của quần sanh.

KẾT LUẬN

Đại thừa Phật giáo quan niệm đến quả vị A-la-hán rồi còn phải trải qua quá trình tu lục độ Ba-la-mật, hành Bồ tát đạo trong nhiều kiếp sống rồi mới thành tựu được quả vị Phật. Quả vị A-la-hán trong kinh điển Đại thừa Phật giáo, mang tính chất căn bản và quan trọng để hành giả phát tâm hành Bồ tát hạnh với các Ba-la-mật lợi ích chúng sinh. Hành giả ý thức được tầm quan trọng của quả vị Thanh văn, bằng phương pháp tu tậphành trì tiến tu Tam vô lậu học, thực hiện theo đúng Giới điều của Đức Phật chế cho một Tỳ Kheo, rồi nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ đạt đến quả Niết bàn trong thực tại. Thực hành theo lời Đức Phật dạy: “Không làm tất cả những điều ác, thực hiện tất cả các việc thiện” đó cũng là việc thực hiện các Ba-la-mật để tiến đến quả vị Nhất thiết trí.

Chú thích:

[1], [19] Viện nghiên cứu Phật học (2004), Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, tr.27.

[2], [3] Thích Minh Châu (dịch, 2018), Đại Tạng Kinh Việt Nam, Tương Ưng Bộ Kinh, phẩm Bậc A-la-hán, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.47.

[4] HT Thích Trí Quảng (2008), Phật giáo nhập thế và phát triển, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.73.

[5], [6] Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb. Phương Đông, TP HCM, tr.40.

[7], [8], [11]. [13], [16], [17], [27] Thích Trí Tịnh (dịch) (2017), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn giáo, tr.123.

[9], [10], [12], [22], [24], [25], [28], [29], [30], [31], [32] Thích Hạnh Bình (2019), Nghiên cứu khái niêm A-la-hán trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Hồng Đức, TP HCM, tr.609, tr.621, tr.625, tr.627, tr.629.

[14], [15], [16], 18] Thích Nhật Từ (dịch, 2022), Phật điển thông dụng, Nxb. Tôn giáo, tr.45.

[20] Thích Viên Trí (2009), Ấn ĐộPhật giáo sử luận, Nxb. Phương Đông, tr.288.

[21] Thích Tâm Trí (dịch, 2013), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Phương Đông, tr.219. 

[23] Thích Minh Châu (dịch, 1999), Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa, Nxb. Tôn giáo, tr.183.

[26] Đoàn Trung Còn-Nguyễn Minh Tiến (dịch, 2010), Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật, Nxb. Tôn giáo, tr.66-67.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Đoàn Trung Còn-Nguyễn Minh Tiến (dịch), (2010), Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật, Nxb. Tôn giáo, tr.66-67.
2. HT Thích Trí Quảng (2008), Phật giáo nhập thế và phát triển, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.73.
3. Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb. Phương Đông, TP HCM, tr.40.
4. Thích Hạnh Bình (2019), Nghiên cứu khái niêm A-la-hán trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Hồng Đức, TP HCM, tr.609, tr.621, tr.625, tr.627, tr.629.
5. Thích Minh Châu (dịch, 1999), Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa, Nxb. Tôn giáo, tr.183.
6. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Đại Tạng Kinh Việt Nam, Tương Ưng Bộ Kinh, phẩm Bậc A-la-hán, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.47.
7. Thích Nhật Từ (dịch, 2022), Phật điển thông dụng, Nxb. Tôn giáo, tr.45.
8. Thích Tâm Trí (dịch, 2013), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Phương Đông, tr.219. 
9. Thích Trí Tịnh (dịch, 2017), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn giáo, tr.123.
10. Thích Viên Trí (2009), Ấn Độ Phật giáo sử luận, Nxb. Phương Đông, tr.288.
11. Viện nghiên cứu Phật học (2004), Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, tr.27.

(Trích: Tạp chí Văn hóa Phật giáo 406)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 561)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1316)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1347)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant