Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

09 Tháng Mười 202317:33(Xem: 1310)
Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

 kinh hoa nghiem



Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm. Tông này bắt đầu từ Sơ Tổ Đỗ Thuận(557-640), qua Trí Nghiễm (602-668), đến Pháp Tạng (643-712), và đến Trừng Quán (737-838) thì hoàn thành hệ thống. Bốn pháp giới này tổng quát được Kinh Hoa Nghiêm về mặt triết học và cả mặt thực hành.

Bài này giảng vắn tắt về bốn pháp giới, nhưng trích dẫn và dẫn chứng từ những câu kinh Hoa Nghiêm.

 

Sự là sự vật, sự kiện. Lý là bản tánh của các sự vật. Sự là hiện tượng, lý là bản thể. Sự là tướng, lý là tánh. Sự là sắc, thanh…, lý là Không. Sự là các pháp, lý là pháp tánh. Sự là chân lý tương đối, lý là chân lý tuyệt đối. Sự là các pháp, lý là pháp thân… Đặc biệt, trong Kinh Hoa Nghiêm, lý, chân lý tuyệt đối và tối hậu, là Phật Tỳ Lô Giá Na, tức là Phật QuangMinh Biến Chiếu, Phật Đại Nhật. Phổ Quang Minh, Đại Quang Minh Tạng.

 

1/Pháp giới Sự hay thế giới của sự 

Chữ “sự” này có trong Kinh Hoa Nghiêm, để chỉ các sự vật, các hiện tượng, các sự việc, các pháp.

Tất cả Như Lai trong ba đời

Thần thông hiện khắp thế giới hải

Trong mỗi sự có tất cả Phật 

Các ngài hãy xem những trang nghiêm

Vô lượng Phật trong tất cả sự 

Số đồng chúng sanh khắp thế gian

Vì khiến điều phục hiện thần thông

Dùng đây trang nghiêm thế giới hải

(Phẩm Thế giới thành tựu, thứ 4)

Thế giới của sự là thế giới của kinh nghiệm thường tục, thế giới của năm giác quan và ý thứcThế giới của sự, của các giác quan và ý thức là một thế giới của những khác biệt, bị chia cắt, phân cách nhau. Do đó, nếu chỉ sống trong thế giới này và bám chấp vào những sự vật của thế giới này, người ta sẽ lạc lối vào thế giới vật chấtthế giới của các hình tướng khác biệt nhau. và từ đó, có chia cắt, tách biệt, và khổ đau. Thế giới của sự là thế giới của cái Nhiều, cái Tất cả khác biệt nhau.

Điều đặc biệt của Kinh Hoa Nghiêm là sự, sự vật được nói đến ở cấp độ nhỏ nhất: vi trần (hạt bụi), lỗ chân lông, sợi lông, về mặt không gian, và sát na, khoảnh khắc, một niệm, về mặt thời gianVũ trụpháp giới không chỉ được nhìn ở cấp độ vĩ mô, những cõi, những hành tinh, những ngôi sao, những thiên hà, mà còn ở cấp độ vi mô, những hạt bụi, những sợi lông, những khoảnh khắc, những niệm.

 

2Pháp giới lý hay thế giới của lý

Thế giới của lý là thế giới của bản thểbản tánh của mọi sự (pháp tánh). Đây cũng là thế giới của bản tánh của tâm, của Nhất Tâm. So với sắc thì đây là tánh Không (“sắc tức là Không”). Đây là thế giới của bản tánh, của chân tâm, nơi mọi sự ở trong một sự hài hòa nền tảng của cái Một.

Kinh dạy rất nhiều về tánh Không (Lý), và tánh Không là nền tảng vô tự tánh của mọi hiện tướng, mọi pháp.

Các pháp không chỗ đến 

Cũng không có tác giả

Cũng không từ đâu sanh 

Chẳng thể phân biệt được. 

Tất cả pháp không đến 

Vì thế nên không sanh 

Vì đã không có sanh 

Nên cũng không có diệt. 

Tất cả pháp không sanh 

Tất cả pháp không diệt 

Nếu rõ được như vậy 

Chư Phật thường hiện tiền

(Phẩm Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20)

Pháp tánh là tánh Không:

Pháp tánh vốn không tịch

Vô thủ cũng vô kiến

Tánh Không tức là Phật 

Chẳng thể nghĩ lường được. 

(Phẩm Tu Di đảnh kệ tán, thứ 14)

Tánh Không ấy là pháp thân của chư Phật:

Pháp thân vốn vô sanh

Mà thị hiện xuất sanh 

Pháp tánh như hư không

Chư Phật trụ trong đó. 

Không trụ cũng không đi 

Mọi nơi đều thấy Phật 

Vô thểvô sở trụ

Cũng không có chỗ sanh 

Không tướng cũng không hình 

Chỗ hiện đều như bóng. 

(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)

Tánh Không không phải là không có gì, tánh Không là quang minh, ánh sáng, khiến “chỗ hiện đều như bóng”, “như mây nổi giữa không gian”:

Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt 

Quang minh chiếu sáng khắp thế gian

Không tướng không hành không hình bóng 

Ví như mây nổi giữa không gian

Thân Phật vô tận như hư không

Vô tướng vô ngại khắp mười phương

Như huyễn như hóa khắp ứng hiện

Biến Hóa Âm vương đã ngộ được. 

Thân Phật cùng khắp đồng pháp giới

Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền

Các thứ giáo môn thường dạy trao 

Nơi pháp tự tại hay khai ngộ

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Để thấy và thâm nhập vào pháp thân tánh Không - quang minh này, người ta phải thực hành thiền định và thiền quán theo những câu kinh, và các hạnh ba la mật và các hạnh Bồ tát, nghĩa là bằng tất cả các pháp môn. Tất cả các pháp môn đều được lập trên nền tảng Không - Minh này để đưa hành giả đi vào nền tảng Không - Minh, tức là pháp thân của tất cả chư Phật.

Tóm lại, nói theo ngôn ngữ hiện giờthế giới của sự là thế giới vật chấtthế giới của lý là thế giớitâm linh. Và con người phải tiến hóa lên thế giới tâm linh vượt khỏi thể xác và ý thức để cuộc đờimình không còn bị chia cắt, vững vàng và hạnh phúc hơn, bởi vì thế giới tâm linh là cội nguồn, nền tảng của thế giới vật chất và của con người thường tục.

3/ Pháp giới Lý - Sự vô ngại

“Pháp thân tánh Không, chư Phật trụ trong đó”, pháp thân tánh Không ấy đi vào và ở trong tất cả sự, như hai câu kệ trong phẩm Thế giới thành tựu đã trích ở trên:

Trong mỗi sự có tất cả Phật… 

Vô lượng Phật trong tất cả sự.

Pháp thân Phật là lý, các sự vật là sự, cả hai dung thôngvô ngại với nhau. Khi lý - sự vô ngại, thì lý vốn vô ngại, nên sự cũng vô ngại. Do đó sự rộng mở, bao trùm, thâm nhập khắp lý, cái toàn thể.

Như những bọt biển trên mặt biển, chúng đồng một bản chất nước với đại dương nên bọt biển và đại dương dung thông vô ngại: bọt biển là đại dươngđại dương là bọt biển.

Quán chiếu sâu rộng hơn, người ta sẽ thấy, vì một bọt biển đồng một bản tánh với đại dương, nên một bọt biển bao trùm đại dương và ở khắp trong đại dương. Sự đồng nhất rốt ráo này thuật ngữxưa gọi là “tương tức, tương dung”. Tương tức, tương dung là đồng nhất và dung thông khắp cả.

Trong hệ thống Bát nhã, điều này được nói là, “Sắc (sự) chẳng khác Không (lý), Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Như vậy, một sắc là tất cả Không, nghĩa là một sắc bao trùm tất cả Không và ở trong tất cả Không. Đây gọi là sắc - Không vô ngại, hay sự - lý vô ngại, hay tướng - tánh vô ngại.

 

Sự vô ngại này hiện hữu trong mối tương quan giữa Phật và chúng sanh. Kinh có những câu nói về mối tương quan vô ngại này:

Thân Phật không ngằn mé trụ khắp trong thân của tất cả chúng sanh

(Phẩm Thăng Đâu Suất thiên cung, thứ 23)

hoặc:

Nước biển Phật trí chảy vào trong tâm của tất cả chúng sanh

(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)

Đại Bồ tát phải biết tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Vì chư Phật chẳng lìa tâm này mà thành Chánh Giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, nhập pháp môn phương tiện chẳng thể nghĩ bàn”.

(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)

Sự vô ngại của Phật (lý) và chúng sanh (sự) khiến con đường thành Phật trở nên có thể, và con đường ấy ở ngay nơi thân tâm mỗi người.

Không những Phật vào trong tâm của tất cả chúng sanh, mà còn vào trong tất cả thế gian, trong tất cả sự vật. Do đó thế gian pháp là Phật pháp, đối với những người thấy bản tánh của tất cả mọi sự.

Chư Phật và Bồ tát

Phật phápthế gian pháp

Nếu thấy tánh chân thật

Tất cả không sai khác. 

Như Lai tạng pháp thân

Vào khắp trong thế gian

Dầu ở tại thế gian 

Mà không nhiễm thế pháp

Ví như nước trong sạch

Bóng hình không đến đi 

Pháp thân khắp thế gian

Nên biết cũng như vậy. 

(Phẩm Phổ Hiền Hạnh, thứ 36)

 

Về mặt thực hành lý sự vô ngại, có thể lấy phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 để làm rõ. Tịnh hạnh là hành động thanh tịnh, hành động là sự, được nối kết một cách vô ngại với lý pháp tánh vốn thanh tịnhbất động:

…Nếu vào nhà nên nguyện chúng sanh lên nhà vô thượng, an trụ bất động

Nếu trải giường, tòa ngồi nên nguyện chúng sanh trải mở pháp lành, thấy tướng chân thật

Chánh thân ngồi thẳng nên nguyện chúng sanh ngồi tòa Bồ đềtâm không tham bám. 

Lúc ngồi kiết già nên nguyện chúng sanh căn lành kiên cố được bậc bất động

Tu hành nơi định nơi nên nguyện chúng sanh dùng định điều phục tâm rốt ráo không thừa sót. 

Nếu tu pháp quán nên nguyện chúng sanh thấy lý như thật trọn không tranh cãi. 

Khi xả ngồi thiền nên nguyện chúng sanh quán sát các hành đều quy về tan mất. 

Lúc để chân đứng nên nguyện chúng sanh tâm được giải thoát an trụ bất động…

Nói cách khác, qua hạnh thanh tịnh, người ta nối kết tướng (sự) với tánh (lý), để “toàn tướng là tánh”, “tất cả sự là lý”.

4/ Pháp giới sự sự vô ngại

Sự sự vô ngại là đặc điểm lớn nhất của Kinh Hoa Nghiêm, và trải rộng trong tất cả các phẩm. Khi lý - sự vô ngại đạt đến mức độ cao, pháp giới sự - sự vô ngại sẽ hiển lộ. Để tiếp xúc, cảm nhận phần nào cảnh giới sự sự vô ngại, phải quán theo những câu kinh Hoa Nghiêm.

Sự sự vô ngại là mỗi một sự bao gồm (nhiếp) tất cả các sự khác, và mỗi một sự đi vào (nhập) trong tất cả các sự khác. Một sự khi đã hoàn toàntrọn vẹn là lý, thì sự ấy vẫn giữ nguyên là một sự, nhưng cũng như lý, bao gồm và thâm nhập vào tất cả các sự, đồng thời cũng không phá hủy hình tướng của các sự khác. Một sắc khi đã hoàn toàntrọn vẹn là Không, thì cũng như tánh Khôngbao gồm và thâm nhập vào tất cả các sắc, đồng thời vẫn giữ nguyên là các sắc.

Ở cấp độ này tâm vi tế và vô ngại cùng cực, đến mức vi trầnsát na, và khi ấy tâm là trí huệ Phật.

Như Lai xuất hiện khắp mười phương

Trong mỗi vi trần vô lượng cõi 

Vô lượng cảnh giới đều hiện ra

Đều trụ vô biên vô lượng kiếp

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Trong mỗi vi trần, mỗi sự đều có tất cả sự (vô lượng cõi, vô lượng cảnh giới) trải dài vô biên vô lượng kiếp, tất cả thời gian. Tất cả không gian, tất cả thời gian đều “trụ” trong một vi trầntrong một niệm, một sát na.

Vô lượng vô số kiếp 

Hiểu đó là một niệm 

Biết niệm cũng vô niệm

Như vậy thấy thế gian

Vô lượng các cõi nước 

Một niệm đều siêu vượt 

Trải qua vô lượng kiếp

Chẳng động lay bổn xứ. 

Bất khả thuyết những kiếp 

Tức là một khoảnh khắc 

Chẳng thấy dài và ngắn 

Rốt ráo pháp sát na

(Phẩm Phổ Hiền hạnh, thứ 36)

Một sự nhỏ nhất như một đầu lông, không những chứa tất cả không gianvô lượng cõi, mà còn chứa tất cả thời gianbất khả thuyết kiếp:

Nơi một đầu lông vô lượng cõi 

Phật, chúng sanh, kiếp, bất khả thuyết

Thấy rõ như vậy đều cùng khắp 

Lầu này của bậc Vô Ngại Nhãn. 

Một niệm nhiếp khắp vô biên kiếp 

Cõi nước, chư Phật và chúng sanh

Trí huệ vô ngại đều rõ biết

Lầu này của bậc Đủ Đức ở. 

(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)

Muốn “thấy rõ như vậy” phải có “Vô Ngại nhãn”, “trí huệ vô ngại”. Con mắt vô ngạitrí huệ vô ngại ở đây không chỉ thấy biết sự vô ngại của lý sự vô ngại, mà còn vi tế hơn, sâu rộng hơn để thấy sự vô ngại của pháp giới sự sự vô ngại.

Đây là cái thấy sự sự vô ngại của vị đã vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của đức DiLặc:

Phật tử ở lầu này 

Biết rõ hạnh nguyện Phật 

Bồ tát hạnh tu hành

Căn, tánh, dục chúng sanh

Phật tử ở lầu này 

Thấy trong một vi trần

Vô lượng cõi đạo tràng

Chúng sanh và các kiếp. 

Như trong một vi trần

Tất cả trần đều vậy 

Mọi sự đều đầy đủ 

Xứ xứ đều vô ngại

Phật tử trụ ở đây 

Quán khắp tất cả pháp 

Chúng sanh, cõi và đời 

Vô sanhvô sở hữu

Quán sát các chúng sanh

Chánh pháp và Như Lai

Quốc độ cùng chí nguyện

Tam thế đều bình đẳng… 

(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)

Hai bài kệ trên là lời ca ngợi của Thiện Tài đồng tử về đức Di Lặc và lầu gác ngài ở. Trong lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này hiển bày cảnh giới sự sự vô ngại.

Trong Kinh, pháp giới sự sự vô ngại được thí dụ nhiều lần bằng màn lưới ngọc của trời Đế thíchLưới trời Đế thích làm bằng những viên ngọc, làm bằng một chất, là tánh Không. Ngọc sáng sạch (Không – Minh) cho nên có thể phản chiếu. Như vậy một sự vật “ảnh hiện” (hiện bóng) trong một viên ngọc thì đồng thời cũng hiện bóng trong tất cả các viên ngọc khác. Và các viên ngọc hiện bóng lẫn nhau để trong một viên ngọc có tất cả các bóng hiện của tất cả các viên ngọc khác.

Mỗi viên ngọc vẫn là một viên ngọc, nhưng trong nó phản chiếu tất cả những các viên ngọc, điều này gọi là “nhiếp”, nắm lấy, thu lấy. Đồng thời một viên ngọc ấy phản chiếu, nhập vào trong tất cả các viên ngọc, điều này gọi là “nhập”. Một nhiếp tất cả và một nhập vào tất cả.

Sự tương tức tương nhập với nhau này tạo thành một thế giới sự sự vô ngại. Một duyên khởi với và nơi tất cả, và tất cả duyên khởi với và nơi một. Như vậy pháp giới sự sự vô ngại là trùng trùngduyên khởitrùng trùng vô tận. Đây là vũ trụ như màn lưới ngọc của trời Đế Thích.

Trong pháp giới sự sự vô ngạiPhật Tỳ Lô Giá Na ở khắp tất cả không giancho đến trong mỗi vi trần, và ở khắp tất cả thời gian cho đến trong mỗi niệm, nên Giác ngộ (thành Chánh giác) của Phật cũng có trong mỗi vi trần và mỗi niệm. Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37 nói về giác ngộ của Phật như vầy:

Chư Phật tử! Lúc Như Lai thành Chánh giác thì đắc được thân lượng đồng tất cả chúng sanh, đắc được thân lượng đồng tất cả pháp, đắc được thân lượng đồng tất cả cõi, đắc được thân lượng đồng tất cả ba đời, đắc được thân lượng đồng tất cả Phật… Như thân đắc được, ngữ và tâm cũng lại như vậy. 

Chư Phật tử! Khi Như Lai thành Chánh giác, ở trong thân, Như Lai thấy khắp tất cả chúng sanhthành Chánh giáccho đến thấy khắp tất cả chúng sanh hiện ở trong Niết bàn… 

Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, trong một lỗ chân lông thân Như Lai, có tất cả số chúng sanhđồng với thân chư Phật. Vì thân Như Lai thành Chánh giác rốt ráo không sanh diệt. Như một lỗ lông khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Phải biết không có chút chỗ nào mà không có thân Phật. Vì Như Lai thành Chánh giác, không có nơi nào mà không đến. 

Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Chánh giác, rộng lớn cùng khắp, không chỗ nào không có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, vào pháp môn phương tiện không thể nghĩ bàn”. 

Khi Như Lai giác ngộ thì tất cả pháp giới cũng đồng giác ngộ, từ mỗi vi trần, mỗi niệm cho đếnmười phương chúng sanh đồng thành Chánh giác:

Ở trên một đầu lông rất nhỏ

Có bất khả thuyết những Phổ Hiền

Tất cả đầu lông đều cũng vậy

Mỗi mỗi cho đến khắp pháp giới…

Mười phương tất cả các chúng sanh

Tất cả đồng thời thành Chánh giác

Ở trong một Phật hay hiện khắp

Bất khả ngôn thuyết tất cả thân.

(Phẩm A tăng kỳ thứ 30)

Đây gọi là giác ngộ pháp giới sự sự vô ngại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 704)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 596)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 785)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1108)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1272)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1000)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1344)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 795)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 768)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 811)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 825)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 804)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 793)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 949)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 839)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 989)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1008)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 933)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 861)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1016)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 961)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 899)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 996)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 912)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 853)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 889)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1148)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 920)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1160)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1619)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1115)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 979)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 922)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 961)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1488)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1369)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1331)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1276)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1385)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1335)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1268)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant