- Chương I: Cảnh Tỉnh Kẻ Tục Mê
- Chương II: Phật Nho Luận Lý
- Chương III: Thích, Đạo Biện Luận Lẽ Thiệt Hơn
- Chương IV: Đốn Ngộ Tu Chứng
- Chương V: Giáo Thừa Sai Biệt
- Chương VI: Duy Tâm Tịnh Độ
- Chương VII: Năm Tông Phái Thiền
- Chương VIII: Mười Loại Ma Sự
- Chương IX: Dẫn Chứng Lời Kinh
- Chương X: Khuyên In Bố Thí
- Phụ lục
Thiền Sư Tổ Nguyên
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp
NĂM TÔNG PHÁI THIỀN
Tăng hỏi: Ngài Đạt Ma từ Ấn sang “chỉ thẳng nhứt tâm”. Do đâu từ đời Lục Tổ về sau lại chia làm năm phái? Mỗi nhà riêng lập môn đình và bày ra những tướng lạ sai khác nhau?
ĐÁP: Như vàng làm ra đồ vật, mỗi vật đều là vàng. Giống như lủa chia các đèn, nhưng mỗi đèn đều là lửa. Tuy cành sung lá thanh nhưng mà rễ nó vốn một thể. nếu mắt trí rỗng sáng thì tự nhiên rõ pháp không hai.
1- TÔNG LÂM TẾ
HỎI: Chủ trương Tông Lâm Tế như thế nào?
ĐÁP:
Lâm
Tế gia phong
Bạch
niêm
thủ đoạn
Thí
như
sơn băng
Cơ
tợ
điện quyện
Xích
thủ
sát nhơn
Độc
chưởng
truy mạng
Bổng
hát
giao tri
Chiếu
dụng
tề hành
Tân
chủ
lịch nhiên
Nhơn
cảnh
tung đoạt
Nhứt
thiết
sai biệt danh tướng
Bất
ly
hướng thượng nhứt trứ.
DỊCH:
Thói
nhà Lâm Tế
Nắm
rõ
thủ đoạn
Thí
như
núi lở
Cơ
như
điện chớp
Tay
không
giết người
Tay
độc
tìm mạng
Gậy,
hét
lẫn dùng
Chiếu
dụng
đều hành
Chủ
khách
rõ ràng
Người
cảnh
đều đẹp
Tất
cả
danh tướng sai khác
Không
lìa
một lối hướng thượng.
HỎI: Thế nào là tám loại gậy? (bát bổng)
ĐÁP: Gậy thưởng, gậy phạt, gậy tung, gậy đoạt, gậy ngu si, gậy hàng ma, gậy tảo tích, gậy vô tình.
HỎI: Thế nào là gậy thưởng?
ĐÁP: Khi người học hỏi một câu, lời rất thân thiết và khế hợp với Đaọ, Sư liền đánh, gọi là gậy thưởng.
HỎI: Thế nào là gậy phạt?
ĐÁP: Khi người học cùng thầy hỏi đáp, tuỳ ý nói loản, xúc phạm người, Sư liền đánh, gọi là gậy phạt.
HỎI: Thế nào là gậy tung?
ĐÁP: Người học được “một biết nửa hiểu” nói một câu, có một chút tương ưng. Sư liền đánh, gọi là gậy tung.
HỎI: Thế nào là gậy đoạt?
ĐÁP: Người học bị “Tạp độc nhập tâm”, nói câu hợp đầu (có vẻ phù hợp), cho là đắc ý. Sư liền đánh, gọi là gậy đoạt.
HỎI: Thế nào là gậy ngu si?
ĐÁP: Người học chủ khách không phân, tà chánh không rõ, mở miệng nói bướng. Sư liền đánh gọi là gậy ngu si.
HỎI: Thế nào là gậy hàng ma?
ĐÁP: Người học nhận cảnh giới ma, nói lời ma quỷ điên cuồng cho là chứng đạo. Sư liền đánh mạnh, gọi là gậy hàng ma.
HỎI: Thế nào là gậy tảo tích? (quét dấu vết)
ĐÁP: Người học chẳng rơi vào phàm tình mà kẹt vào Thánh giải, chẳng lìa hang ổ. Sư liền đánh gọi là gậy tảo tích.
HỎI: Thế nào là gậy vô tình?
ĐÁP: Nói phải cũng đánh, nói chẳng phải cũng đánh, mở miệng cũng đánh, không mở miệng cũng đánh, tất cả đều chẳng còn, gọi là gậy vô tình.
HỎI: Dưới gậy chuyển thân được đạo lý gì?
ĐÁP: Bữa ngay đầu một gậy toàn thân rơi thoát, ý thức tan tành, chơn thường bày bộ một mình. Hàng lợi cơ thì chuyển thân, kẻ căn độn thì điểm trán. Vừa trải qua sự suy nghĩ liền thành một loạt ma mị.
HỎI: Thế nào là bốn loại hét? (tứ hát)
ĐÁP: Một hét như bảo kiếm vua Kim Cang. Một hét như Sư tử ngồi. Một hét như cây sào dò bóng cỏ. Một hét mà không có công dụng của hét.
HỎI: Thế nào là bảo kiếm vua Kim Cang?
ĐÁP: Hay chém ý thức, tình phàm thánh đều hết, lẽ chơn thường riêng chiếu.
HỎI: Thế nào là Sư tử ngồi?
ĐÁP: Hai kiến chấp đoạn thường cùng tất cả tham lậu. Ngồi rống một tiếng làm cho ngói bể băng tiêu.
HỎI: Thế nào là cây sào dò bóng cỏ?
ĐÁP: Như gương chiếu hình tượng đẹp xấu, chơn ngụy, tự nhiên bày mặt thật.
HỎI: Thế nào là không công dụng của tiếng hét?
ĐÁP: Ý thức vừa khởi động, một tiếng hét làm cho tan nát. Chuyển tìm lại tiếng hét, tiếng hét cũng chẳng dùng.
HỎI: Dưới tiếng hét lãnh ngộ, được ý chỉ gì?
ĐÁP: Ra oai một tiếng chẳng có chẳng không, khởi vốn không khởi, rơi vốn không rơi, hội được như vậy, gượng gọi là chánh giác.
HỎI: Thế nào là bốn loại chiếu dụng?
ĐÁP: Một, trước chiếu sau dụng. Hai, trước dụng sau chiếu. Ba, chiếu dụng đồng thời. Bốn, chiếu dụng chẳng đồng thời.
HỎI: Thế nào là trước chiếu sau dụng?
ĐÁP: Trong tự chứng phần dùng trí ứng vật, dùng trí huệ phân biệt tà chánh. Trước bảo: “Nói mua!” đợi suy nghĩ liền hét.
HỎI: Thế nào là trước dụng sau chiếu?
ĐÁP: Trong tự chứng phần. Trước dùng huệ phân biệt, sau dùng trí dứt hết. Trước dựng một ngón tay. Lại hỏi: Hội không?
HỎI: Thế nào là chiếu dụng đồng thời?
ĐÁP: Trong tự chứng phần, trí chẳng lìa huệ, huệ chẳng lìa trí. Đánh cho một gậy hỏi: Lại biết đau nhức chăng?
HỎI: Thế nào là chiếu dụng chẳng đồng?
ĐÁP: Trong tự chứng phần, trí là trí giám, huệ là huệ dụng. Sự yên lặng giây lâu. Tăng suy nghĩ, Sư bèn về phương trượng.
HỎI: Thế nào là bốn loại chủ khách?
ĐÁP: Một là khách trong khách. Hai là chủ trong khách. Ba là khách trong chủ. Bốn là chủ trong chủ.
HỎI: Thế nào là khách trong khách?
ĐÁP: Hướng vào sự, trái lại với lý, tự mê muội bản chơn.
HỎI: Thế nào là chủ trong khách?
ĐÁP: Sự chẳng lìa lý, nhiệm vận toàn chơn.
HỎI: Thế nào là khách trong chủ?
ĐÁP: Lý hay thành sự, chẳng rơi vào thiên không.
HỎI: Thế nào là chủ trong chủ?
ĐÁP: Lý hay thành sự, chẳng rơi vào thiên không.
HỎI: Thế nào là chủ trong chủ?
ĐÁP: Bỏ sự hướng lý, chỉ nhắm vào bổn chơn.
HỎI: Thế nào là chủ khách gặp nhau, phân biệt chánh tà?
ĐÁP: Thầy cùng người học, thêm một lớp khóa vàng. Người học khen thiện gọi là “khách xem khách”. Nếu làm thầy người mắt mình chẳng trong, bị người hiểu khinh lờn, gọi là “khách xem chủ”, mắt thầy trong sáng hay cướp món ăn của người đói, cùng nhổ gốc bệnh cho người, gọi là “chủ xem khách”. Thầy nghiệm xét người, người học bám cảnh chủ bày vẽ, mà khách bất động, gọi là “chủ xem chủ”.
HỎI: Thế nào là bốn liệu giảng?
ĐÁP: Một là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh. Hai là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn. Ba là nhơn cảnh đoạt cả hai. Bốn là nhơn cảnh đều chẳng đoạt.
HỎI: Thế nào là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh?
ĐÁP: Chỉ tự tâm mình không (rỗng) ngại gì ngoại cảnh? Kẻ hạ căn bực hạ đến, đoạt pháp chẳng đoạt cảnh.
HỎI: Thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn?
ĐÁP: Chẳng trụ vào cảnh bên ngoài, chỉ tâm chiếu soi một mình. Kẻ hạ căn bậc trung đến, đoạt cảnh chẳng đoạt pháp.
HỎI: Thế nào là nhơn cảnh đoạt cả hai?
ĐÁP: Tâm và cảnh đều không (rỗng), thì vọng từ đâu mà có? Hàng trung căn bực thượng đến, cảnh, pháp, nhơn đều đoạt.
HỎI: Thế nào là nhơn cảnh đều chẳng đoạt?
ĐÁP: Tâm tự trụ tâm, cảnh tự trụ cảnh. Hàng thượng căn bậc thượng đến, cảnh pháp đều chẳng đoạt.
HỎI: Thế nào câu thứ nhứt tiến được kham cùng Phật, Tổ làm Thầy?
ĐÁP: Một niệm chẳng sanh, muôn duyên đều không lặng.
HỎI: Thế nào là câu thứ hai tiến được kham cùng người trời làm thầy?
ĐÁP: Một niệm do duyên mà khởi lên, chẳng tiếp tục hai niệm.
HỎI: Thế nào là câu thứ ba tiến được tự cứu chẳng xong?
ĐÁP: Niệm phân biệt vừa sanh khởi, tánh tròn sáng tự mờ.
HỎI: Thế nào là đệ nhứt huyền?
ĐÁP: Bản tánh không lặng.
HỎI: Thế nào là đệ nhị huyền?
ĐÁP: Chơn trí lặng lẽ mà chiếu soi.
HỎI: Thế nào là đệ tam huyền?
ĐÁP: Diệu dụng không ngại.
HỎI: Thế nào là thể trung huyền, cú trung huyền, huyền trung huyền?
ĐÁP: Thể trung huyền là bản tánh không lặng. Cú trung huyền là trong lời mà không lời. Huyền trung huyền là vượt ngoài mọi suy nghĩ.
HỎI: Thế nào là đệ nhứt yếu?
ĐÁP: Chơn thể dứt tuyệt dấu vết.
HỎI: Thế nào là đệ nhị yếu?
ĐÁP: Dụng lớn khôn ngằn.
HỎI: Thế nào đệ tam yếu?
ĐÁP: Một bên cùng ở giữa đều chẳng lập.
HỎI: Thế nào là mười trí đồng chơn?
ĐÁP: Sư ra oai hét một tiếng, hỏi rằng: “đấy là trí thứ mấy”?
HỎI: Thế nào là đồng nhứt chất?
ĐÁP: Tất cả sum la vạn tượng do sự ấn định của một pháp.
HỎI: Hai, thế nào là đồng đại sự?
ĐÁP: Trong ánh sáng của tịch chiếu không thiếu cũng không thừa.
HỎI: Ba, thế nào là tổng đồng tham?
ĐÁP: Loài hữu tình, loài vô tình đều đồng một pháp giới.
HỎI: Bốn, thế nào là đồng chơn trí?
ĐÁP: Các pháp đều bình đẳng, vật và ngã đều nhất như.
HỎI: Năm, thế nào là đồng biến phổ?
ĐÁP: Lớn thì bao trùm pháp giới, nhỏ thì chẳng chứa mũi kim.
HỎI: Sáu, thế nào là đồng cụ túc?
ĐÁP: Trăm ngàn pháp môn chẳng lìa tấc vuông.
HỎI: Bảy, thế nào là đồng đắc thất?
ĐÁP: Nơi thánh chẳng được, ở phàm chẳng mất.
HỎI: Tám, thế nào là đồng sanh sát?
ĐÁP: Rải ra muôn vật đều phát sanh. Thu vào thì lấp cảnh bít hang.
HỎI: Chín, thế nào là đồng âm hẩu?
ĐÁP: Nói khéo hay nói dụng đều trở về đệ nhứt nghĩa.
HỎI: Mười, thế nào là đồng đắc nhập?
ĐÁP: Muôn pháp nhứt tâm, đồng trở về bất nhị, tiếp theo đó, ngài xè hai tay ra nói: “Một trí nầy cùng cái mâm kia bưng ra”.
HỎI: Thế nào là đệ nhứt quyết của Phần Dương?
ĐÁP: Tánh thể vốn lặng.
HỎI: Thế nào là đệ nhị quyết?
ĐÁP: Trí dụng riêng chiếu.
HỎI: Thế nào là đệ tam quyết?
ĐÁP: Tịch chiếu không hai.
HỎI: Thế nào là cửu đái của Phù Sơn?
ĐÁP: Đái là cột, bó lại, nghĩa là bao gồm.
HỎI: Thế nào là “Chánh pháp nhãn tạng đái”?
ĐÁP: Pháp hội Linh Sơn, Phật chưa nói một chữ, cuối cùng Phật đưa cành hoa, ngài Ca Diếp nhận gánh vác.
HỎI: Thế nào là “Phật pháp Tạng đái”?
ĐÁP: Ba Tạng giáo điển cùng năm Tông phái Thiền đều phát xuất từ nhứt tâm.
HỎI: Thế nào là lý quán đái?
ĐÁP: Không kiếp trở về trước, mượn gọi là chánh vị.
HỎI: Thế nào là lý quán đái?
ĐÁP: Không kiếp trở về trước, mượn gọi là chánh vị.
HỎI: Thế nào là “Sự quán đái”?
ĐÁP: Theo dòng đời được lẽ diệu, ứng với muônvật mà được toàn chơn.
HỎI: Thế nào là “Lý sự tung hoành đái”?
ĐÁP: Tùy duyên mà không hề biến đổi, chẳng biến đổi mà tùy duyên.
HỎI: Thế nào là “Khuất phục thùy đái”?
ĐÁP: Chẳng trụ vô vi, chẳng bỏ hết hữu vi. Đi trong phi Đạo, mà thông đạt Phật đạo.
HỎI: Thế nào là “Diệu hiệp kiêm đái”?
ĐÁP: Đại dụng hiện tiền, chẳng câu chấp nơi tiểu tiết, muôn sự muôn vật đều là diệu trí.
HỎI: Thế nào là “kim châm song tỏa đái”?
ĐÁP: Mở mang Phật sự mà chẳng nhờ tạo tác. Bàn tay tín đưa lại, chẳng ràng chẳng buộc.
HỎI: Thế nào là “Bình hoài thường nhật đái”?
ĐÁP: Không thành có thể cầu, không phàm có thể xả. Một tâm thản nhiên lặng lẽ tự hết. Dựng một ngón tay lên nói: “Một đái nầy xem mặt trình nhau”.
2- TÀO ĐỘNG TÔNG
HỎI: Chủ trương của Tông Đào Động như thế nào?
ĐÁP:
Tào
Động gia phong
Đạo
khu
miên mật
Ứng
cơ
tiếp vật
Ngữ
kỵ
thập thành
Kim
châm
song tỏa
Ngọc
tuyến
ám xuyên
Chánh
thiên
hồi hỗ
Ngũ
vị
công huân
Nội
ngoại
thiệu đẳng
Tam
chủng
sấm lậu
Nhứt
thiếu
sai biệt
Bất
ly
bổn phận.
DỊCH:
Thói
nhà Tào Động
Then
đạo
khít khao
Ứng
cơ
tiếp vận
Lời
kiên
mười thành
Kim
vàng
đều khóa
Chỉ
ngọc
thầm may
Chánh
thiên
hồi hỗ
Năm
vị
công huân
Trong
ngoài
tiếp nối
Ba
loại
sấm lậu
Hết
thảy
sai biệt
Chẳng
lìa
bổn phận.
HỎI: Thế nào là chánh trung thiên?
ĐÁP: Lý hay thành sự.
HỎI: Thế nào là thiên chung chánh?
ĐÁP: Sự chẳng lìa lý.
HỎI: Thế nào là chánh trung lai?
ĐÁP: Lý vốn không tịch.
HỎI: Thế nào là thiên trung chí?
ĐÁP: Sự, dụng không dấu vết.
HỎI: Thế nào là kim trung đáo?
ĐÁP: Sự lý đều mất.
HỎI: Năm vị công huân như thế nào?
ĐÁP: Năm vị công huân là: Hướng, phụng, công, cộng công, công công.
HỎI: Thế nào là Hướng?
ĐÁP: Hướng đến việc nầy, không cho gián đoạn.
HỎI: Thế nào là Phụng?
ĐÁP: Như kính bậc trưởng thượng, thừa sự phụng hành không lúc nào dừng.
HỎI: Thế nào là Công?
ĐÁP: Có dụng hay không dụng đều gọi là công huân cả.
HỎI: Thế nào là Cộng Công?
ĐÁP: Khi dụng thì không dụng, không dụng tức là dụng.
HỎI: Thế nào là Công Công?
ĐÁP: Đã không công dụng được đại giải thoát.
HỎI: Thế nào là chuyển công tựu vị?
ĐÁP: Dụng chẳng lìa thể.
HỎI: Thế nào là chuyển vị tựu công?
ĐÁP: Thể hay phát dụng.
HỎI: Thế nào là Công vị tề thi?
ĐÁP: Thể Dụng đều bày.
HỎI: Thế nào là Công vị câu ẩn ?
ĐÁP: Thể dụng đều mất.
HỎI: Thế nào là “Đản sanh Vương tử” ?
ĐÁP: Căn bổn đại trí vốn tự hiện thành.
HỎI: Thế nào là “Triêu sanh Vương tử” ?
ĐÁP: Không nhờ tu chứng, thế nào là về gốc?
HỎI: Thế nào là “Mạt sanh Vương tử” ?
ĐÁP: Có tu có chứng chẳng phạm công huân.
HỎI: Thế nào là “Hóa sanh Vương tử” ?
ĐÁP: Đại dụng hiện tiền ai dám đương đầu?
HỎI: Thế nào là “Nội sanh vương tử” ?
ĐÁP: Đạt bổn hoàn nguyên chơn như pháp giới.
HỎI: Thế nào gọi là ba thứ đọa?
ĐÁP: Một là mang lông đội sừng, gọi là loại đọa. Hai là chẳng đoạn thinh sắc, gọi là tùy đọa. Ba là chẳng thọ thực, gọi tôn quí đọa.
HỎI: Thế nào là mang lông đội sừng
ĐÁP: Chẳng mặc áo bổn lai, cần đi trong dị loại.
HỎI: Thế nào là chẳng đoạn thinh sắc?
ĐÁP: Sáu trần không chán, về đồng chánh giác.
HỎI: Thế nào là chẳng thọ thực?
ĐÁP: Lý còn chẳng giữ việc khác ra gì?
HỎI: Thế nào gọi là “ba loại sấm lậu” ?
ĐÁP: Một là kiến sấm lậu, hai là tình sấm lậu, ba là ngữ sấm lậu
HỎI: Thế nào là kiến sấm lậu?
ĐÁP: Không đổi chánh vị, rơi tại một sắc.
HỎI: Thế nào là tình sấm lậu?
ĐÁP: Mắc kẹt hai bên, sóng thức trôi đi.
HỎI: Thế nào là ngữ sấm lậu?
ĐÁP: Thể diuệu chẳng tròn, thốt ra lời ám muội.
HỎI: Thế nào là ba đường tiếp người?
ĐÁP: Điểu đạo, huyền lồ, triển thủ.
HỎI: Thế nào là điểu đạo (đường chim) ?
ĐÁP: Hư không, không vui không giận.
HỎI: Thế nào là huyền lộ?
ĐÁP: Chữ bát thiếu hai phết. (không chữ)
HỎI: Thế nào là triển thủ?
ĐÁP: Chữ nhứt hai đầu rũ. (thành chữ công)
HỎI: Thế nào là chánh vị nhứt sắc?
ĐÁP: Diệu thể vô hình.
HỎI: Thế nào là Đại công nhứt sắc?
ĐÁP: Dụng lớn không ngằn.
HỎI: Thế nào là trí công minh vị?
ĐÁP: Sóng vốn là nước.
HỎI: Thế nào là tá vị minh công?
ĐÁP: Nước hay dậy sóng.
HỎI: Thế nào là tá tá bất tá tá?
ĐÁP: Sóng và nước chẳng hai.
HỎI: Thế nào là toàn siêu bất tá tá?
ĐÁP: Sóng và nước đều trong lặng.
3- TÔNG VÂN MÔN
HỎI: Chủ trương của Tông Vân Môn như thế nào?
ĐÁP:
Vân
Môn gia phong
Cô
nguy
tỉnh tuấn
Cách
ngoại
đề tê
Tiểu
trừ
tình kiến.
Tm
cú
quan kiện
Nhứt
tự
cơ phong
Bắc
đẩu
tàng thân
Kim
phong
thể lộ.
Trụ
trượng
bột khiêu
Phật
tổ
thoái hậu.
Trản
tử
thuyết pháp
Ma
ngoại
tìm hình
Nhứt
thiết
ngữ ngôn
Tổng
qui
hướng thượng.
DỊCH:
Thói
nhà Vân Môn
Cô
nguy
cao vót
Nêu
lên
dáng ngoài
Cắt
trừ
tình kiến.
Ba
câu
khóa cửa
Một
chử
mũi nhọn
Bắc
Đẩu
ẩn thân
Gió
vàng
thể lộ.
Cầm
trượng
nhảy vọt
Phật
Tổ
lui sau.
Trản
tử
nói pháp
Ma
ngoại
ẩn hình
Hết
thảy
ngôn ngữ
Gồm
về
hướng thượng.
HỎI: Thế nào là câu “bao trùm càn khôn” (hàm cái càn khôn cú) ?
ĐÁP: Bao trùm thái hư, ngang suốt ba mé.
HỎI: Thế nào là câu “Cắt đứt các dòng” (tiệt đoạn chúng lưu cú) ?
ĐÁP: Một niệm chẳng sanh, muôn pháp tự dứt.
HỎI: Thế nào là câu “theo nước đuổi sóng” (tùy ba trục lãng cú) ?
ĐÁP: Theo dòng được diệu, ứng vật toàn chơn.
HỎI: Thế nào là nhứt tự quan (cửa một chữ) ?
ĐÁP: Vượt ngoài sự suy nghĩ, chẳng rơi vào hang ổ.
HỎI: Thế nào là Tông Đề Bà?
ĐÁP: Hiện bày trâu trắng, đông xúc tây chạm.
HỎI: Thế nào là suy mao kiếm?
ĐÁP: Muôn sự muôn vật, ngói bể băng tiêu.
HỎI: Ý Tổ, ý kinh là đồng hay khác?
ĐÁP: Chạm chẳng được mà trái chẳng xong.
HỎI: Thế nào là “Bắc đẩu lý tàng thân” ?
ĐÁP: Không dấu vết.
HỎI: Thế nào là “Thể lộ gió vàng” (thể lộ kim phong) ?
ĐÁP: Toàn thân hiện.
4- TÔNG QUI NGƯỠNG
HỎI: Chủ trương Tông Qui Ngưỡng thế nào?
ĐÁP:
Qui
ngưỡng gia phong
Cơ
dụng
viên dung
Thết
trung
nghiệm nhơn
Cú
năng
hãm hổ.
Viên
tướng
sai biệt
Minh
lai
ám hợp
Cảnh
xuất
tam sanh
Lưỡng
khẩu
nhứt thiệt.
Phụ
tử
hòa
xướng
Đạo
truyền
thiên cổ.
DỊCH:
Thói
nhà Qui Ngưỡng
Cơ
dụng
viên dung
Trong
thất
nghiệm người
Câu
hay
hãm hổ.
Tướng
tròn
sai khác
Sáng
đến
hợp tối
Gương
hiện
ba sanh
Một
lưỡi
hai miệng.
Cha
con
đồng xướng
Đạo
truyền
thiên cổ.
HỎI: Thế nào gọi là ba loại sanh?
ĐÁP: Ba loại sanh là tưởng sanh, tướng sanh và lưu chú sanh.
HỎI: Thế nào là tưởng sanh?
ĐÁP: Ý thức bên trong.
HỎI: Thế nào là tướng sanh?
ĐÁP: TRần cảnh bên ngoài.
HỎI: Thế nào là lưu chú sanh?
ĐÁP: Không gián đoạ.
HỎI: Sao gọi là mật nghĩa của viên tướng (tướng tròn).
ĐÁP: Mật nghĩa của viên tướng có sáu loại: một là viên tướng, hai là ám cơ, ba là nghĩa hải, bốn là tự hải, năm là ý hải, sáu là mặc luận.
HỎI: Lấy già làm thể?
ĐÁP: Vẽ một hình tròn (O) đấy là thể
HỎI: Lấy gì làm dụng?
ĐÁP: Vẽ một hình tròn giữa có một đường thẳng từ trên xuống dưới, đấy là dụng.
HỎI: Lấy gì làm trí?
ĐÁP: Vẽ một hình tròn ở giữa có chữ sơn, đấy là trí.
HỎI: Trong tướng tròn viết chữ Ngưu, chữ Phật, chữ Nhơn, chữ Tư, chữ Thập,chữ Vạn, một điểm, một nét, bán nguyệt, khuyết nguyệt … chẳng nhứt định, đấy là ý chỉ gì?
ĐÁP: Đưa tay tiếp người, nêu rõ hay ngầm, chẳng lìa thể dụng, lý sự chủ khách, sanh sát, buông hay nắm, quyền thật, ẩn hiện, đồng dị, tổng biệt, ngầm ấn bản tâm. Đấy gọi là một nghĩa của Tam muội ẩn thân. Phải là người thật tỏ ngộ mới hiểu suốt được cơ nầy. Bọn môn đồ của nghĩa giải khó hiểu được liền.
HỎI: Thế nào là “mở mắt ngước nhìn” (bình phục mục ngưỡng thị)?
ĐÁP: Chạm chẳng được mà trái chẳng xong.
HỎI: Thế nào là một lưỡi hai miệng?
ĐÁP: Chẳng được có lời cũng chẳng được không lời.
HỎI: Thế nào là trước nhiên đăng (nhiên đăng tiền)?
ĐÁP: Thể tịch.
HỎI: Thế nào là chánh nhiên đăng?
ĐÁP: Tịch chiếu (lặng lẽ và chiếu soi).
5- TÔNG PHÁP NHÃN
HỎI: Chủ trương của Tông Pháp Nhãn thế nào?
ĐÁP:
Pháp
Nhãn gia phong
Đối
chứng
thí dược
Thùy
cơ
tốc lợi
Tảo
trừ
tình giải.
Lục
tướng
nghĩa môn
Hội
qui
tánh địa
Vạn
tượng
chi trung
Toàn
thân
độc lộ.
Tam
giới
duy tâm
Vạn
pháp
duy thức
Trực
siêu
dị kiến
Viên
dung
chơn tế.
DỊCH:
Thói
nhà Pháp Nhãn,
Đối
bịnh
cho thuốc
Phương
tiện
bén nhạy
Quét
sạch
tình giải.
Sáu
tướng
nghĩa môn
Gom
về
tánh địa
Ở
trong muôn tượng
Toàn
thân
một đường.
Ba
cõi
duy tâm
Muôn
pháp
duy thức
Vượt
thẳng
dị kiến
Chan
hòa
chơn tế.
HỎI: Thế nào là sáu tướng nghĩa?
ĐÁP: Sáu tướng nghĩa là: Tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại.
HỎI: Thế nào là Tổng?
ĐÁP: Nhứt tâm chơn như gồm nhiếp các pháp.
HỎI: Thế nào là biệt?
ĐÁP: Tâm sanh các pháp, nhưng các pháp không phải một.
HỎI: Thế nào là đồng?
ĐÁP: Pháp do tâm sanh, tâm pháp không hai.
HỎI: Thế nào là dị?
ĐÁP: Pháp là pháp tướng, tâm là tâm lý.
HỎI: Thế nào là thành?
ĐÁP: Tâm sanh các pháp, pháp hay thành sự.
HỎI: Thế nào là hoại?
ĐÁP: Gom pháp về tâm, tâm không (rỗng) pháp mật.
HỎI: Tứ liệu giản của Thiều Quốc Sư như thế nào?
ĐÁP: Tứ liệu giản của Thiểu Quốc Sư là: Văn văn, văn bất văn, bất văn văn, bất văn bất văn.
HỎI: Thế nào là văn văn?
ĐÁP: Lặng lẽ (tịch) nhưng mà thường hay chiếu soi (chiếu).
HỎI: Thế nào là văn bất văn ?
ĐÁP: Chiếu soi nhưng mà thường lặng lẽ.
HỎI: Thế nào là bất văn văn?
ĐÁP: Tịch chiếu không hai.
HỎI: Thế nào là bất văn bất văn?
ĐÁP: Tịch chiếu đều mất.
Sư nói thâm: Giáo ngoại biệt truyền, Tông chỉ hướng thượng, quả như vậy ư? Nếu chỉ như thế có thể gọi là khẩu truyền, có gì kỳ đặc? Còn nếu chẳng như thế lại làm sao sanh? Hãy tham!