Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VII: Năm Tông Phái Thiền

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10484)
Chương VII: Năm Tông Phái Thiền

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

CHƯƠNG VII
NĂM TÔNG PHÁI THIỀN

Tăng hỏi: Ngài Đạt Ma từ Ấn sang “chỉ thẳng nhứt tâm”. Do đâu từ đời Lục Tổ về sau lại chia làm năm phái? Mỗi nhà riêng lập môn đình và bày ra những tướng lạ sai khác nhau?

ĐÁP: Như vàng làm ra đồ vật, mỗi vật đều là vàng. Giống như lủa chia các đèn, nhưng mỗi đèn đều là lửa. Tuy cành sung lá thanh nhưng mà rễ nó vốn một thể. nếu mắt trí rỗng sáng thì tự nhiênpháp không hai.

1- TÔNG LÂM TẾ

HỎI: Chủ trương Tông Lâm Tế như thế nào?

ĐÁP:

Lâm Tế gia phong
Bạch niêm thủ đoạn
Thí như sơn băng
Cơ tợ điện quyện
Xích thủ sát nhơn
Độc chưởng truy mạng
Bổng hát giao tri
Chiếu dụng tề hành
Tân chủ lịch nhiên
Nhơn cảnh tung đoạt
Nhứt thiết sai biệt danh tướng
Bất ly hướng thượng nhứt trứ.

DỊCH:

Thói nhà Lâm Tế
Nắm rõ thủ đoạn
Thí như núi lở
Cơ như điện chớp
Tay không giết người
Tay độc tìm mạng
Gậy, hét lẫn dùng
Chiếu dụng đều hành
Chủ khách rõ ràng
Người cảnh đều đẹp
Tất cả danh tướng sai khác
Không lìa một lối hướng thượng.

HỎI: Thế nào là tám loại gậy? (bát bổng)

ĐÁP: Gậy thưởng, gậy phạt, gậy tung, gậy đoạt, gậy ngu si, gậy hàng ma, gậy tảo tích, gậy vô tình.

HỎI: Thế nào là gậy thưởng?

ĐÁP: Khi người học hỏi một câu, lời rất thân thiết và khế hợp với Đaọ, Sư liền đánh, gọi là gậy thưởng.

HỎI: Thế nào là gậy phạt?

ĐÁP: Khi người học cùng thầy hỏi đáp, tuỳ ý nói loản, xúc phạm người, Sư liền đánh, gọi là gậy phạt.

HỎI: Thế nào là gậy tung?

ĐÁP: Người học được “một biết nửa hiểu” nói một câu, có một chút tương ưng. Sư liền đánh, gọi là gậy tung.

HỎI: Thế nào là gậy đoạt?

ĐÁP: Người học bị “Tạp độc nhập tâm”, nói câu hợp đầu (có vẻ phù hợp), cho là đắc ý. Sư liền đánh, gọi là gậy đoạt.

HỎI: Thế nào là gậy ngu si?

ĐÁP: Người học chủ khách không phân, tà chánh không rõ, mở miệng nói bướng. Sư liền đánh gọi là gậy ngu si.

HỎI: Thế nào là gậy hàng ma?

ĐÁP: Người học nhận cảnh giới ma, nói lời ma quỷ điên cuồng cho là chứng đạo. Sư liền đánh mạnh, gọi là gậy hàng ma.

HỎI: Thế nào là gậy tảo tích? (quét dấu vết)

ĐÁP: Người học chẳng rơi vào phàm tình mà kẹt vào Thánh giải, chẳng lìa hang ổ. Sư liền đánh gọi là gậy tảo tích.

HỎI: Thế nào là gậy vô tình?

ĐÁP: Nói phải cũng đánh, nói chẳng phải cũng đánh, mở miệng cũng đánh, không mở miệng cũng đánh, tất cả đều chẳng còn, gọi là gậy vô tình.

HỎI: Dưới gậy chuyển thân được đạo lý gì?

ĐÁP: Bữa ngay đầu một gậy toàn thân rơi thoát, ý thức tan tành, chơn thường bày bộ một mình. Hàng lợi cơ thì chuyển thân, kẻ căn độn thì điểm trán. Vừa trải qua sự suy nghĩ liền thành một loạt ma mị.

HỎI: Thế nào là bốn loại hét? (tứ hát)

ĐÁP: Một hét như bảo kiếm vua Kim Cang. Một hét như Sư tử ngồi. Một hét như cây sào dò bóng cỏ. Một hét mà không có công dụng của hét.

HỎI: Thế nào là bảo kiếm vua Kim Cang?

ĐÁP: Hay chém ý thức, tình phàm thánh đều hết, lẽ chơn thường riêng chiếu.

HỎI: Thế nào là Sư tử ngồi?

ĐÁP: Hai kiến chấp đoạn thường cùng tất cả tham lậu. Ngồi rống một tiếng làm cho ngói bể băng tiêu.

HỎI: Thế nào là cây sào dò bóng cỏ?

ĐÁP: Như gương chiếu hình tượng đẹp xấu, chơn ngụy, tự nhiên bày mặt thật.

HỎI: Thế nào là không công dụng của tiếng hét?

ĐÁP: Ý thức vừa khởi động, một tiếng hét làm cho tan nát. Chuyển tìm lại tiếng hét, tiếng hét cũng chẳng dùng.

HỎI: Dưới tiếng hét lãnh ngộ, được ý chỉ gì?

ĐÁP: Ra oai một tiếng chẳng có chẳng không, khởi vốn không khởi, rơi vốn không rơi, hội được như vậy, gượng gọi là chánh giác.

HỎI: Thế nào là bốn loại chiếu dụng?

ĐÁP: Một, trước chiếu sau dụng. Hai, trước dụng sau chiếu. Ba, chiếu dụng đồng thời. Bốn, chiếu dụng chẳng đồng thời.

HỎI: Thế nào là trước chiếu sau dụng?

ĐÁP: Trong tự chứng phần dùng trí ứng vật, dùng trí huệ phân biệt tà chánh. Trước bảo: “Nói mua!” đợi suy nghĩ liền hét.

HỎI: Thế nào là trước dụng sau chiếu?

ĐÁP: Trong tự chứng phần. Trước dùng huệ phân biệt, sau dùng trí dứt hết. Trước dựng một ngón tay. Lại hỏi: Hội không?

HỎI: Thế nào là chiếu dụng đồng thời?

ĐÁP: Trong tự chứng phần, trí chẳng lìa huệ, huệ chẳng lìa trí. Đánh cho một gậy hỏi: Lại biết đau nhức chăng?

HỎI: Thế nào là chiếu dụng chẳng đồng?

ĐÁP: Trong tự chứng phần, trí là trí giám, huệ là huệ dụng. Sự yên lặng giây lâu. Tăng suy nghĩ, Sư bèn về phương trượng.

HỎI: Thế nào là bốn loại chủ khách?

ĐÁP: Một là khách trong khách. Hai là chủ trong khách. Ba là khách trong chủ. Bốn là chủ trong chủ.

HỎI: Thế nào là khách trong khách?

ĐÁP: Hướng vào sự, trái lại với lý, tự mê muội bản chơn.

HỎI: Thế nào là chủ trong khách?

ĐÁP: Sự chẳng lìa lý, nhiệm vận toàn chơn.

HỎI: Thế nào là khách trong chủ?

ĐÁP: Lý hay thành sự, chẳng rơi vào thiên không.

HỎI: Thế nào là chủ trong chủ?

ĐÁP: Lý hay thành sự, chẳng rơi vào thiên không.

HỎI: Thế nào là chủ trong chủ?

ĐÁP: Bỏ sự hướng lý, chỉ nhắm vào bổn chơn.

HỎI: Thế nào là chủ khách gặp nhau, phân biệt chánh tà?

ĐÁP: Thầy cùng người học, thêm một lớp khóa vàng. Người học khen thiện gọi là “khách xem khách”. Nếu làm thầy người mắt mình chẳng trong, bị người hiểu khinh lờn, gọi là “khách xem chủ”, mắt thầy trong sáng hay cướp món ăn của người đói, cùng nhổ gốc bệnh cho người, gọi là “chủ xem khách”. Thầy nghiệm xét người, người học bám cảnh chủ bày vẽ, mà khách bất động, gọi là “chủ xem chủ”.

HỎI: Thế nào là bốn liệu giảng?

ĐÁP: Một là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh. Hai là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn. Ba là nhơn cảnh đoạt cả hai. Bốn là nhơn cảnh đều chẳng đoạt.

HỎI: Thế nào là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh?

ĐÁP: Chỉ tự tâm mình không (rỗng) ngại gì ngoại cảnh? Kẻ hạ căn bực hạ đến, đoạt pháp chẳng đoạt cảnh.

HỎI: Thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn?

ĐÁP: Chẳng trụ vào cảnh bên ngoài, chỉ tâm chiếu soi một mình. Kẻ hạ căn bậc trung đến, đoạt cảnh chẳng đoạt pháp.

HỎI: Thế nào là nhơn cảnh đoạt cả hai?

ĐÁP: Tâm và cảnh đều không (rỗng), thì vọng từ đâu mà có? Hàng trung căn bực thượng đến, cảnh, pháp, nhơn đều đoạt.

HỎI: Thế nào là nhơn cảnh đều chẳng đoạt?

ĐÁP: Tâm tự trụ tâm, cảnh tự trụ cảnh. Hàng thượng căn bậc thượng đến, cảnh pháp đều chẳng đoạt.

HỎI: Thế nào câu thứ nhứt tiến được kham cùng Phật, Tổ làm Thầy?

ĐÁP: Một niệm chẳng sanh, muôn duyên đều không lặng.

HỎI: Thế nào là câu thứ hai tiến được kham cùng người trời làm thầy?

ĐÁP: Một niệm do duyên mà khởi lên, chẳng tiếp tục hai niệm.

HỎI: Thế nào là câu thứ ba tiến được tự cứu chẳng xong?

ĐÁP: Niệm phân biệt vừa sanh khởi, tánh tròn sáng tự mờ.

HỎI: Thế nào là đệ nhứt huyền?

ĐÁP: Bản tánh không lặng.

HỎI: Thế nào là đệ nhị huyền?

ĐÁP: Chơn trí lặng lẽ mà chiếu soi.

HỎI: Thế nào là đệ tam huyền?

ĐÁP: Diệu dụng không ngại.

HỎI: Thế nào là thể trung huyền, cú trung huyền, huyền trung huyền?

ĐÁP: Thể trung huyền là bản tánh không lặng. Cú trung huyền là trong lời mà không lời. Huyền trung huyền là vượt ngoài mọi suy nghĩ.

HỎI: Thế nào là đệ nhứt yếu?

ĐÁP: Chơn thể dứt tuyệt dấu vết.

HỎI: Thế nào là đệ nhị yếu?

ĐÁP: Dụng lớn khôn ngằn.

HỎI: Thế nào đệ tam yếu?

ĐÁP: Một bên cùng ở giữa đều chẳng lập.

HỎI: Thế nào là mười trí đồng chơn?

ĐÁP: Sư ra oai hét một tiếng, hỏi rằng: “đấy là trí thứ mấy”?

HỎI: Thế nào là đồng nhứt chất?

ĐÁP: Tất cả sum la vạn tượng do sự ấn định của một pháp.

HỎI: Hai, thế nào là đồng đại sự?

ĐÁP: Trong ánh sáng của tịch chiếu không thiếu cũng không thừa.

HỎI: Ba, thế nào là tổng đồng tham?

ĐÁP: Loài hữu tình, loài vô tình đều đồng một pháp giới.

HỎI: Bốn, thế nào là đồng chơn trí?

ĐÁP: Các pháp đều bình đẳng, vật và ngã đều nhất như.

HỎI: Năm, thế nào là đồng biến phổ?

ĐÁP: Lớn thì bao trùm pháp giới, nhỏ thì chẳng chứa mũi kim.

HỎI: Sáu, thế nào là đồng cụ túc?

ĐÁP: Trăm ngàn pháp môn chẳng lìa tấc vuông.

HỎI: Bảy, thế nào là đồng đắc thất?

ĐÁP: Nơi thánh chẳng được, ở phàm chẳng mất.

HỎI: Tám, thế nào là đồng sanh sát?

ĐÁP: Rải ra muôn vật đều phát sanh. Thu vào thì lấp cảnh bít hang.

HỎI: Chín, thế nào là đồng âm hẩu?

ĐÁP: Nói khéo hay nói dụng đều trở về đệ nhứt nghĩa.

HỎI: Mười, thế nào là đồng đắc nhập?

ĐÁP: Muôn pháp nhứt tâm, đồng trở về bất nhị, tiếp theo đó, ngài xè hai tay ra nói: “Một trí nầy cùng cái mâm kia bưng ra”.

HỎI: Thế nào là đệ nhứt quyết của Phần Dương?

ĐÁP: Tánh thể vốn lặng.

HỎI: Thế nào là đệ nhị quyết?

ĐÁP: Trí dụng riêng chiếu.

HỎI: Thế nào là đệ tam quyết?

ĐÁP: Tịch chiếu không hai.

HỎI: Thế nào là cửu đái của Phù Sơn?

ĐÁP: Đái là cột, bó lại, nghĩa là bao gồm.

HỎI: Thế nào là “Chánh pháp nhãn tạng đái”?

ĐÁP: Pháp hội Linh Sơn, Phật chưa nói một chữ, cuối cùng Phật đưa cành hoa, ngài Ca Diếp nhận gánh vác.

HỎI: Thế nào là “Phật pháp Tạng đái”?

ĐÁP: Ba Tạng giáo điển cùng năm Tông phái Thiền đều phát xuất từ nhứt tâm.

HỎI: Thế nào là lý quán đái?

ĐÁP: Không kiếp trở về trước, mượn gọi là chánh vị.

HỎI: Thế nào là lý quán đái?

ĐÁP: Không kiếp trở về trước, mượn gọi là chánh vị.

HỎI: Thế nào là “Sự quán đái”?

ĐÁP: Theo dòng đời được lẽ diệu, ứng với muônvật mà được toàn chơn.

HỎI: Thế nào là “Lý sự tung hoành đái”?

ĐÁP: Tùy duyên mà không hề biến đổi, chẳng biến đổitùy duyên.

HỎI: Thế nào là “Khuất phục thùy đái”?

ĐÁP: Chẳng trụ vô vi, chẳng bỏ hết hữu vi. Đi trong phi Đạo, mà thông đạt Phật đạo.

HỎI: Thế nào là “Diệu hiệp kiêm đái”?

ĐÁP: Đại dụng hiện tiền, chẳng câu chấp nơi tiểu tiết, muôn sự muôn vật đều là diệu trí.

HỎI: Thế nào là “kim châm song tỏa đái”?

ĐÁP: Mở mang Phật sự mà chẳng nhờ tạo tác. Bàn tay tín đưa lại, chẳng ràng chẳng buộc.

HỎI: Thế nào là “Bình hoài thường nhật đái”?

ĐÁP: Không thành có thể cầu, không phàm có thể xả. Một tâm thản nhiên lặng lẽ tự hết. Dựng một ngón tay lên nói: “Một đái nầy xem mặt trình nhau”.

2- TÀO ĐỘNG TÔNG

HỎI: Chủ trương của Tông Đào Động như thế nào?

ĐÁP: 

Tào Động gia phong
Đạo khu miên mật
Ứng cơ tiếp vật
Ngữ kỵ thập thành
Kim châm song tỏa
Ngọc tuyến ám xuyên
Chánh thiên hồi hỗ
Ngũ vị công huân
Nội ngoại thiệu đẳng
Tam chủng sấm lậu
Nhứt thiếu sai biệt
Bất ly bổn phận.

DỊCH:

Thói nhà Tào Động
Then đạo khít khao
Ứng cơ tiếp vận
Lời kiên mười thành
Kim vàng đều khóa
Chỉ ngọc thầm may
Chánh thiên hồi hỗ
Năm vị công huân
Trong ngoài tiếp nối
Ba loại sấm lậu
Hết thảy sai biệt
Chẳng lìa bổn phận.

HỎI: Thế nào là chánh trung thiên?

ĐÁP: Lý hay thành sự.

HỎI: Thế nào là thiên chung chánh?

ĐÁP: Sự chẳng lìa lý.

HỎI: Thế nào là chánh trung lai?

ĐÁP: Lý vốn không tịch.

HỎI: Thế nào là thiên trung chí?

ĐÁP: Sự, dụng không dấu vết.

HỎI: Thế nào là kim trung đáo?

ĐÁP: Sự lý đều mất.

HỎI: Năm vị công huân như thế nào?

ĐÁP: Năm vị công huân là: Hướng, phụng, công, cộng công, công công.

HỎI: Thế nào là Hướng?

ĐÁP: Hướng đến việc nầy, không cho gián đoạn.

HỎI: Thế nào là Phụng?

ĐÁP: Như kính bậc trưởng thượng, thừa sự phụng hành không lúc nào dừng.

HỎI: Thế nào là Công?

ĐÁP: Có dụng hay không dụng đều gọi là công huân cả.

HỎI: Thế nào là Cộng Công?

ĐÁP: Khi dụng thì không dụng, không dụng tức là dụng.

HỎI: Thế nào là Công Công?

ĐÁP: Đã không công dụng được đại giải thoát.

HỎI: Thế nào là chuyển công tựu vị?

ĐÁP: Dụng chẳng lìa thể.

HỎI: Thế nào là chuyển vị tựu công?

ĐÁP: Thể hay phát dụng.

HỎI: Thế nào là Công vị tề thi?

ĐÁP: Thể Dụng đều bày.

HỎI: Thế nào là Công vị câu ẩn ?

ĐÁP: Thể dụng đều mất.

HỎI: Thế nào là “Đản sanh Vương tử” ?

ĐÁP: Căn bổn đại trí vốn tự hiện thành.

HỎI: Thế nào là “Triêu sanh Vương tử” ?

ĐÁP: Không nhờ tu chứng, thế nào là về gốc?

HỎI: Thế nào là “Mạt sanh Vương tử” ?

ĐÁP: Có tu có chứng chẳng phạm công huân.

HỎI: Thế nào là “Hóa sanh Vương tử” ?

ĐÁP: Đại dụng hiện tiền ai dám đương đầu?

HỎI: Thế nào là “Nội sanh vương tử” ?

ĐÁP: Đạt bổn hoàn nguyên chơn như pháp giới.

HỎI: Thế nào gọi là ba thứ đọa?

ĐÁP: Một là mang lông đội sừng, gọi là loại đọa. Hai là chẳng đoạn thinh sắc, gọi là tùy đọa. Ba là chẳng thọ thực, gọi tôn quí đọa.

HỎI: Thế nào là mang lông đội sừng

ĐÁP: Chẳng mặc áo bổn lai, cần đi trong dị loại.

HỎI: Thế nào là chẳng đoạn thinh sắc?

ĐÁP: Sáu trần không chán, về đồng chánh giác.

HỎI: Thế nào là chẳng thọ thực?

ĐÁP: Lý còn chẳng giữ việc khác ra gì?

HỎI: Thế nào gọi là “ba loại sấm lậu” ?

ĐÁP: Một là kiến sấm lậu, hai là tình sấm lậu, ba là ngữ sấm lậu

HỎI: Thế nào là kiến sấm lậu?

ĐÁP: Không đổi chánh vị, rơi tại một sắc.

HỎI: Thế nào là tình sấm lậu?

ĐÁP: Mắc kẹt hai bên, sóng thức trôi đi.

HỎI: Thế nào là ngữ sấm lậu?

ĐÁP: Thể diuệu chẳng tròn, thốt ra lời ám muội.

HỎI: Thế nào là ba đường tiếp người?

ĐÁP: Điểu đạo, huyền lồ, triển thủ.

HỎI: Thế nào là điểu đạo (đường chim) ?

ĐÁP: Hư không, không vui không giận.

HỎI: Thế nào là huyền lộ?

ĐÁP: Chữ bát thiếu hai phết. (không chữ)

HỎI: Thế nào là triển thủ?

ĐÁP: Chữ nhứt hai đầu rũ. (thành chữ công)

HỎI: Thế nào là chánh vị nhứt sắc?

ĐÁP: Diệu thể vô hình.

HỎI: Thế nào là Đại công nhứt sắc?

ĐÁP: Dụng lớn không ngằn.

HỎI: Thế nào là trí công minh vị?

ĐÁP: Sóng vốn là nước.

HỎI: Thế nào là tá vị minh công?

ĐÁP: Nước hay dậy sóng.

HỎI: Thế nào là tá tá bất tá tá?

ĐÁP: Sóng và nước chẳng hai.

HỎI: Thế nào là toàn siêu bất tá tá?

ĐÁP: Sóng và nước đều trong lặng.

3- TÔNG VÂN MÔN

HỎI: Chủ trương của Tông Vân Môn như thế nào?

ĐÁP:

Vân Môn gia phong
Cô nguy tỉnh tuấn
Cách ngoại đề tê
Tiểu trừ tình kiến.
Tm cú quan kiện
Nhứt tự cơ phong
Bắc đẩu tàng thân
Kim phong thể lộ.
Trụ trượng bột khiêu
Phật tổ thoái hậu.
Trản tử thuyết pháp
Ma ngoại tìm hình
Nhứt thiết ngữ ngôn
Tổng qui hướng thượng.

DỊCH:

Thói nhà Vân Môn
Cô nguy cao vót
Nêu lên dáng ngoài
Cắt trừ tình kiến.
Ba câu khóa cửa
Một chử mũi nhọn
Bắc Đẩu ẩn thân
Gió vàng thể lộ.
Cầm trượng nhảy vọt
Phật Tổ lui sau.
 Trản tử nói pháp
Ma ngoại ẩn hình
Hết thảy ngôn ngữ
Gồm về hướng thượng.

HỎI: Thế nào là câu “bao trùm càn khôn” (hàm cái càn khôn cú) ?

ĐÁP: Bao trùm thái hư, ngang suốt ba mé.

HỎI: Thế nào là câu “Cắt đứt các dòng” (tiệt đoạn chúng lưu cú) ?

ĐÁP: Một niệm chẳng sanh, muôn pháp tự dứt.

HỎI: Thế nào là câu “theo nước đuổi sóng” (tùy ba trục lãng cú) ?

ĐÁP: Theo dòng được diệu, ứng vật toàn chơn.

HỎI: Thế nào là nhứt tự quan (cửa một chữ) ?

ĐÁP: Vượt ngoài sự suy nghĩ, chẳng rơi vào hang ổ.

HỎI: Thế nào là Tông Đề Bà?

ĐÁP: Hiện bày trâu trắng, đông xúc tây chạm.

HỎI: Thế nào là suy mao kiếm?

ĐÁP: Muôn sự muôn vật, ngói bể băng tiêu.

HỎI: Ý Tổ, ý kinh là đồng hay khác?

ĐÁP: Chạm chẳng được mà trái chẳng xong.

HỎI: Thế nào là “Bắc đẩu lý tàng thân” ?

ĐÁP: Không dấu vết.

HỎI: Thế nào là “Thể lộ gió vàng” (thể lộ kim phong) ?

ĐÁP: Toàn thân hiện.

4- TÔNG QUI NGƯỠNG

HỎI: Chủ trương Tông Qui Ngưỡng thế nào?

ĐÁP: 

Qui ngưỡng gia phong
Cơ dụng viên dung
Thết trung nghiệm nhơn
Cú năng hãm hổ.
Viên tướng sai biệt
Minh lai ám hợp
Cảnh xuất tam sanh
Lưỡng khẩu nhứt thiệt.
Phụ tử hòa xướng
Đạo truyền thiên cổ.

DỊCH:

Thói nhà Qui Ngưỡng
Cơ dụng viên dung
Trong thất nghiệm người
Câu hay hãm hổ.
Tướng tròn sai khác
Sáng đến hợp tối
Gương hiện ba sanh
Một lưỡi hai miệng.
Cha con đồng xướng
Đạo truyền thiên cổ.

HỎI: Thế nào gọi là ba loại sanh?

ĐÁP: Ba loại sanh là tưởng sanh, tướng sanh và lưu chú sanh.

HỎI: Thế nào là tưởng sanh?

ĐÁP: Ý thức bên trong.

HỎI: Thế nào là tướng sanh?

ĐÁP: TRần cảnh bên ngoài.

HỎI: Thế nào là lưu chú sanh?

ĐÁP: Không gián đoạ.

HỎI: Sao gọi là mật nghĩa của viên tướng (tướng tròn).

ĐÁP: Mật nghĩa của viên tướng có sáu loại: một là viên tướng, hai là ám cơ, ba là nghĩa hải, bốn là tự hải, năm là ý hải, sáu là mặc luận.

HỎI: Lấy già làm thể?

ĐÁP: Vẽ một hình tròn (O) đấy là thể

HỎI: Lấy gì làm dụng?

ĐÁP: Vẽ một hình tròn giữa có một đường thẳng từ trên xuống dưới, đấy là dụng.

HỎI: Lấy gì làm trí?

ĐÁP: Vẽ một hình tròn ở giữa có chữ sơn, đấy là trí.

HỎI: Trong tướng tròn viết chữ Ngưu, chữ Phật, chữ Nhơn, chữ Tư, chữ Thập,chữ Vạn, một điểm, một nét, bán nguyệt, khuyết nguyệt … chẳng nhứt định, đấy là ý chỉ gì?

ĐÁP: Đưa tay tiếp người, nêu rõ hay ngầm, chẳng lìa thể dụng, lý sự chủ khách, sanh sát, buông hay nắm, quyền thật, ẩn hiện, đồng dị, tổng biệt, ngầm ấn bản tâm. Đấy gọi là một nghĩa của Tam muội ẩn thân. Phải là người thật tỏ ngộ mới hiểu suốt được cơ nầy. Bọn môn đồ của nghĩa giải khó hiểu được liền.

HỎI: Thế nào là “mở mắt ngước nhìn” (bình phục mục ngưỡng thị)?

ĐÁP: Chạm chẳng được mà trái chẳng xong.

HỎI: Thế nào là một lưỡi hai miệng?

ĐÁP: Chẳng được có lời cũng chẳng được không lời.

HỎI: Thế nào là trước nhiên đăng (nhiên đăng tiền)?

ĐÁP: Thể tịch.

HỎI: Thế nào là chánh nhiên đăng?

ĐÁP: Tịch chiếu (lặng lẽ và chiếu soi).

5- TÔNG PHÁP NHÃN

HỎI: Chủ trương của Tông Pháp Nhãn thế nào?

ĐÁP:

Pháp Nhãn gia phong
Đối chứng thí dược
Thùy cơ tốc lợi
Tảo trừ tình giải.
Lục tướng nghĩa môn
Hội qui tánh địa
Vạn tượng chi trung
Toàn thân độc lộ.
Tam giới duy tâm
Vạn pháp duy thức
Trực siêu dị kiến
Viên dung chơn tế.

DỊCH:

Thói nhà Pháp Nhãn,
Đối bịnh cho thuốc
Phương tiện bén nhạy
Quét sạch tình giải.
Sáu tướng nghĩa môn
Gom về tánh địa
Ở trong muôn tượng
Toàn thân một đường.
Ba cõi duy tâm
Muôn pháp duy thức
Vượt thẳng dị kiến
Chan hòa chơn tế.

HỎI: Thế nào là sáu tướng nghĩa?

ĐÁP: Sáu tướng nghĩa là: Tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại.

HỎI: Thế nào là Tổng?

ĐÁP: Nhứt tâm chơn như gồm nhiếp các pháp.

HỎI: Thế nào là biệt?

ĐÁP: Tâm sanh các pháp, nhưng các pháp không phải một.

HỎI: Thế nào là đồng?

ĐÁP: Pháp do tâm sanh, tâm pháp không hai.

HỎI: Thế nào là dị?

ĐÁP: Pháp là pháp tướng, tâm là tâm lý.

HỎI: Thế nào là thành?

ĐÁP: Tâm sanh các pháp, pháp hay thành sự.

HỎI: Thế nào là hoại?

ĐÁP: Gom pháp về tâm, tâm không (rỗng) pháp mật.

HỎI: Tứ liệu giản của Thiều Quốc Sư như thế nào?

ĐÁP: Tứ liệu giản của Thiểu Quốc Sư là: Văn văn, văn bất văn, bất văn văn, bất văn bất văn.

HỎI: Thế nào là văn văn?

ĐÁP: Lặng lẽ (tịch) nhưng mà thường hay chiếu soi (chiếu).

HỎI: Thế nào là văn bất văn ?

ĐÁP: Chiếu soi nhưng mà thường lặng lẽ.

HỎI: Thế nào là bất văn văn?

ĐÁP: Tịch chiếu không hai.

HỎI: Thế nào là bất văn bất văn?

ĐÁP: Tịch chiếu đều mất.

Sư nói thâm: Giáo ngoại biệt truyền, Tông chỉ hướng thượng, quả như vậy ư? Nếu chỉ như thế có thể gọi là khẩu truyền, có gì kỳ đặc? Còn nếu chẳng như thế lại làm sao sanh? Hãy tham!







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33326)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11321)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30424)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8003)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12228)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12274)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11628)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12861)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34826)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52289)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10768)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10541)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10736)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10482)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13101)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21874)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9641)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7143)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12788)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12811)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16256)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16554)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13884)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16617)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12147)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13858)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14346)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9228)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11770)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11292)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16358)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14374)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16216)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12100)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11811)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11532)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14035)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12684)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15008)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11978)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13147)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14573)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20748)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10981)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20738)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14384)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20414)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17679)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14042)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31873)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12032)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant