Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nữ cư sĩ Tì Xá Khư

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 17531)
Nữ cư sĩ Tì Xá Khư

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT 
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư - Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
biên soạn phần Phụ Lục - Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Chùa Liên Hoa, Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County xuất bản 2005

PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)

Nữ cư sĩ TÌ XÁ KHƯ

(Visakha)
(Vị nữ thí chủ lớn nhất của giáo đoàn thời Phật tại thế)

 

Thời Phật tại thế, bà Tì Xá Khư được coi là vị nữ thí chủ quan trọng nhất của giáo đoàn. Uy tín của bà không kém gì trưởng giả Cấp Cô Độc.

Bà là con gái của nhà triệu phú Đạt Nan Xà Dạ (Dhananjaya) ở vương quốc Ương Già (Anga) (1). Ông ngoại của bà cũng là một nhà triệu phú ở Ương Già, mà bà hết sức thương mến và quí trọng. Gia đình hai bên nội ngoại của bà đều tin Phật thuần thành. Sau khi sinh bà được vài năm, thể theo lời mời của vua Ba Tư Nặc, cha mẹ bà đã dời lên vương quốc Kiều Tát La, và cư trú tại thành phố Ta Chỉ Đa (Saketa), phía Nam thủ đô Xá Vệ, để bà ở lại quê nhà cho ông ngoại nuôi dưỡng.

Hồi bà mới được bảy tuổi, có lần đức Phật đi hoằng hóa đến thành phố Ta Chỉ Đa. Thân phụ bà tức tốc cho người về quê, bảo bà lên ngay Ta Chỉ Đa để hầu Phật. Ông ngoại cô bé vui mừng lắm, liền bảo bảo cả năm trăm tì nữ của cháu ông, vầy đàn trên năm trăm cỗ xe ngựa, cùng hộ tống cháu lên Ta Chỉ Đa. Tới nơi, cô bé tới trước Phật, cung kính đảnh lễ, rồi ngồi sang một bên nghe pháp, và cô đã hiểu rõ trọn vẹn những gì Phật dạy hôm đó!

Kinh điển diễn tả rằng, Tì Xá Khưsức mạnh như đàn ông, nhưng lại duyên dáng mĩ miều từ thuở còn thơ. Tóc bà láng mượt như đuôi công; môi đỏ hồng tự nhiên như trái chín; răng trắng như ngà, khít khao đều đặnsáng ngời như hai hàng ngọc; da mịn màng như cánh sen, cho tới tuổi già mà vóc dáng vẫn xinh đẹp như thời son trẻ. Đã có vẻ đẹp toàn bích của người phụ nữ, bà còn có trí tuệ hơn người, vừa sáng suốt trong việc đời, vừa thông minh trong việc đạo.

Hồi Tì Xá Khư được mười sáu tuổi, một hôm cô cùng với nhiều tì nữ ra sông tắm. Thình lình một trận mưa to đổ xuống mọi người đều hối hả chạy vào núp mưa trong một căn nhà bỏ trống, riêng cô thì không chạy, cứ đi vào nhà một cách khoan thai. Lúc bấy giờ ở kinh đô Xá Vệ có ông trưởng giả triệu phú Di Già La (Mrgara - Migara) đang nôn nóng kiếm cho con trai ông một cô vợ thật môn đăng hộ đối. Cậu này hoàn toàn không thích lấy vợ, nhưng bị cha ép buộc quá, đành nói đại:

- Chỉ khi nào ba tìm được một cô gái mà tóc láng mướt như đuôi công, môi đỏ hồng tự nhiên như trái chín, răng trắng khít khao đẹp như ngọc, da mịn như cánh sen, thì con mới chịu cưới cô ấy làm vợ!

Chàng ta tưởng rằng cứ thách khó như thế để cha khỏi bắt mình lấy vợ; chứ trên đời làm gì có cô gái nào như vậy, nhưng ông trưởng giả thì cho là thật, bèn sai rất nhiều gia nhân, chia nhau đi khắp nẻo để tìm cho được cô gái có đầy đủ những điểm đúng như ý muốn của con trai ông. Hôm đó, mấy gia nhân của ông trưởng giả đi tìm vợ cho cậu công tử, tình cờ cũng ghé vào căn nhà trống kia để trú mưa. Thấy Tì Xá Khư đi vào nhà một cách chậm rãi chứ không hấp tấp chạy như mọi người, thì lấy làm lạ, bèn hỏi lí do. Cô bình thản trả lời:

- Tôi còn có thể chạy nhanh hơn mọi người nữa kia, nhưng tôi đã không làm vậy. Nếu có vị vua kia đang mặc triều phục, bỗng nhiên xăn áo quần lên hối hả chạy vào điện thì ắt là không thích đáng. Một thớt voi ngự oai nghiêm đường bệ, mình mang đầy đồ trang sức đẹp đẽ, mà không bước đi dõng dạc, lại đâm sầm chạy tuốt ra đường thì thật là chướng mắt. Một tu sĩ thanh nhã khả kính mà không bước đi khoan thai, lại chạy nhảy làm xốc xếch y bát, thì không thể không bị chỉ trích. Cũng như thế, người phụ nữ mà chạy ngoài đường như đàn ông thì sẽ mất hết nết hạnh đoan trang thùy mị.

Trong khi Tì Xá Khư nói, những người kia vừa chú ý nghe, vừa để mắt quan sát hình vóc của cô. Cả bọn họ đều vui mừng, vì quả thật, cô gái này giống y hệt mẫu người mà họ đang phải tìm cho ra. Họ tức tốc chạy về trình báo. Trưởng giả Di Già La mừng quá, lập tức đi Ta Chỉ Đa, đến nhà trưởng giả Đạt Nan Xà Dạ xin cưới Tì Xá Khư cho con trai mình.

Đám cưới được tổ chức thật linh đình, dưới sự đỡ đầu của vua Ba Tư Nặc. Đám rước dâu tiến vào thủ đô một cách uy nghi, trang trọng. Trưởng giả Di Già La đích thân đi rước con dâu về. Cô dâu ngồi trong một chiếc song mã lộng lẫy, dẫn đầu, tiếp theo là hàng trăm chiếc xe ngựa khác chở các tì nữ của bà; rồi đến hàng trăm chiếc xe chở của hồi môn, gồm năm trăm chín mươi triệu đồng tiền vàng, và vô số các vật phẩm bằng vàng, bạc, đồng, rồi còn quần áo, dầu thơm, gạo nước, nông cụ v.v... Ở đầu và cuối đoàn rước dâu có ngự lâm quân của hoàng gia đi hộ tống, do đích thân vua Ba Tư Nặc chỉ huy. Lễ cưới huy hoàng đã được tổ chức tại lâu đài của gia đình chú rể. Rất nhiều quà mừng quí giá của vua, các quan đại thần, bạn bè và dân chúng thủ đô được gởi tới. Tì Xá Khư nhận xong lại đem chia cho tất cả những kẻ nghèo khó. Bởi vậy, ngay từ lúc đó, bà đã được dân chúng ca ngợi về sắc đẹp lẫn đức hạnh. Bà cũng được những người bên nhà chồng tỏ lòng quí trọng, bởi vậy, bà đã sống những ngày đầu của cuộc sống mới vô cùng êm ả, hạnh phúc.

Nhưng có một điều, cả cha chồng và chồng bà đều là đệ tử trung kiên của giáo phái Ni Kiền Tử (Nigrantha Jnataputra - Nigantha Nataputa) (2). Một ngày kia, cha chồng bà thỉnh về nhà rất đông các đạo sĩ lõa thể của giáo phái này. Ông bảo bà ra đảnh lễ những vị mà ông gọi là A la hán. Thoạt nghe danh từ “A la hán", bà rất vui mừng, tưởng là các vị đệ tử Phật, bà vội vã thay quần áo đẹp, trang điểm lại đầu tóc, rồi bước ra phòng khách, nhưng vừa trông thấy các vị đạo sĩ kia, bà quày quả quay gót trở về phòng. Bà nói: “Trong thời đại này, những vị thánh thật sự chỉ có đức Phật và các vị đệ tử của Ngài. Những đạo sĩ lõa thể đang ngồi trong phòng khách không phải là những vị thánh; vì nếu đúng là thánh thì họ đã không xuất hiện trước mặt mọi người trong phong cách xấu hổ như vậy ma không biết ngượng”. Các vị đạo sĩ rất tức giận, hạch tội ông trưởng giả tại sao đem về nhà mình một tín đồ của đức Phật. Họ yêu cầu ông đuổi bà ra khỏi nhà tức khắc. Ông cũng giận nhưng không dám đuổi bà, bởi vì làm như vậy, không những sẽ chọc giận ông sui gia triệu phú, mà còn xúc phạm tới đức vua Ba Tư Nặc nữa. Cho nên ông đã phải hết lời xin lỗi cho các vị đạo sĩ nguôi giận.

Một buổi sáng sau đó mấy ngày, khi ông trưởng giả ngồi vào bàn ăn sáng thì có một vị tì kheo vào nhà khất thực. Tì Xá Khư đang sửa soạn thức ăn cho cha chồng, liền đứng tránh sang một bên, chủ ý để ông trông thấy rõ nhà sư. Dù đã thấy nhà sư, nhưng ông cứ lơ đi, tiếp tục ăn. Thấy thế, bà ra bạch với nhà sư:

- Bạch đại đức! Xin thỉnh đại đức hoan hỉ bước sang nhà khác. Cha chồng con đang dùng những món ăn thiu.

Ông trưởng giả nghe bà nói thế thì đùng đùng nổi giận, quát tháo ầm ĩ, rồi đuổi bà ra khỏi nhà. Bà vốn là người thuần hậu, biết tôn trọng mọi người cũng như phép tắc gia đình, nhưng không thể chấp nhận lối đối xử hung bạo như thế được. Bà thưa lại một cách từ tốn:

- Thưa cha! Không phải cha đem con về đây như mua một người nô lệ. Một cô gái có chồng, khi bị nhà chồng trả về cho cha mẹ thì phải có lí do chính đáng. Trước khi con về đây, cha mẹ con có lập một hội đồng gia tộc để xét xử con mỗi khi con làm lỗi. Vậy xin cha hãy mời các vị ấy đến để xét xử xem con có lỗi hay không.

Ông trưởng giả chấp nhận lời cầu xin hữu lí đó, liền mời các vị trong hội đồng gia tộc của bà đến. Ông phân trần:

- Hôm ấy tôi đang ăn sáng thì con dâu tôi nói rằng tôi ăn đồ ăn dơ. Xin quí vị hãy vạch ra cho nó thấy lỗi và đuổi nó ra khỏi nhà tôi.

giải thích:

- Thật ra, con đã không nói đúng hẳn như vậy. Lúc cha chồng con đang ăn sáng thì có một nhà sư vào nhà khất thực. Cha chồng con thấy mà vẫn làm ngơ, nên con đã bạch với vị sư rằng: “Xin thỉnh đại đức hoan hỉ bước sang nhà khác. Cha chồng con đang dùng những món ăn thiu”. Lời nói của con có nghĩa rằng, cha chồng con chỉ hưởng thọ phước báo còn lại của quá khứ, mà không làm được điều thiện nào trong hiện tại để tiếp tục gieo nhân lành cho tương lai.

Quí vị thân tộc đều công nhận là bà nói như thế đã không có lỗi với cha chồng, mà còn có tâm ý tốt với ông nữa; chỉ tại ông chưa kịp hiểu ra mà thôi. Ông trưởng giả cũng đồng ý như vậy, nhưng chưa hết tức giận, ông lại vạch ra chuyện khác để buộc tội bà. Ông hỏi bà giữa đêm khuya mà thắp đuốc đi với nô tì ra sau vườn để làm gì. Bà lại phải giải thích, vì hôm ấy nghe con ngựa cái ở sau nhà sắp đẻ, bà tức khắc cùng với mấy nô tì đốt đuốc ra chuồng ngựa để chăm sóc, giúp cho con ngựa đẻ xong xuôi mới vào nhà đi ngủ. Quí vị thân tộc kia nghe được chuyện đó, đều công nhận rằng, bà đã có một tình thương rộng lớn, ba trùm đến cả thú vật. Bà đã làm một công việc cực nhọc để giúp con ngựa đang đau đớn mà chưa chắc các nô tì đã làm được. Đó là hành động đáng tán dương chứ không có lỗi.

Ông trưởng giả vẫn chưa nguôi giận, bèn tiếp tục moi chuyện khác, ví dụ, trước khi về nhà chồng, bà đã được dạy nhiều điều, chẳng hạn như: “Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ, hay không đem lửa ở ngoài ngõ vào trong nhà v.v...” Vậy là sao? Không cho hàng xóm lửa thì họ sống được ư? Hoặc không cần lửa của hàng xóm thì mình sống được ư? Bà lại giải thích rành rẽ: “Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ” có nghĩa là con dâu thì không được nói xấu chồng hay cha mẹ chồng với người ngoài, cũng không được đem chuyện xấu của nhà chồng nói ra ngoài. “Không đem lửa ở ngoài ngõ vào trong nhà” có nghĩa là không nên nghe hoặc để tâm theo dõi, rồi đem vào nhà chồng những chuyện không hay, phiền phức ở ngoài đường.

Đến đây, ông cha chồng không còn moi được điều gì để buộc tội bà nữa, ngồi lặng thinh, nhưng bà là người biết tự trọng, sau khi đã giải thích mọi điều để chứng minh rằng mình không phạm lỗi gì với cha chồng, bà tỏ ý muốn rời khỏi nhà theo lời xua đuổi của ông.

Bỗng nhiên ông trưởng giả thay đổi hẳn thái độ. Ông xin lỗi bà vì đã hiểu lầm mà gây nên cớ sự. Vốn sẵn có tính khoan dung, ôn hòa của một người Phật tử, bà không oán trách cha chồng, nhưng xin một điều là từ nay ông cho phép bà được sinh hoạt trong truyền thống tôn giáo của gia đình bà. Ông trưởng giả hoan hỉ đồng ý.

Mấy ngày sau, bà thỉnh Phật về nhà thọ trai. Sau khi thọ thực, đức Phật thuyết pháp. Ông trưởng giả tò mò, ngồi sau bức mành nghe lén. Nghe Phật nói pháp xong, ông bừng tỉnh ngộ, thấy rõ được con đường giải thoát thật sự. Ông tỏ lòng biết ơn vô bờ bến đối với con dâu của ông, hoặc vô tình, hoặc cố ý, đã dẫn dắt ông vào chánh đạo. Ông đã tuyên bố một cách cảm động trước mặt bà: “Tì Xá Khư! Từ nay con không phải là con dâu của cha nữa, mà cha sẽ coi con là một bà mẹ, mẹ của cha trong đạo pháp!” Và nhân đó, bà đã được mọi người gọi bà vớì biệt hiệu là “Lộc Mẫu” (Migara, tên ông trưởng giả, có nghĩa là “lộc”, tức là con nai).

Nhờ thông minh, khôn khéo và nhẫn nại, dần dầncảm hóa được tất cả mọi người trong gia đình nhà chồng, kể cả chồng của bà, cởi bỏ tà kiến, qui y Tam Bảo, trở thành một gia đình Phật tử, sống trong hạnh phúc và an vui.

Mỗi buổi sáng bà túc trực ở nhà để cúng dường cho chư tăng vào nhà khất thực. Xế chiều bà thường đến tu viện để nghe pháp và xem chư tăngcần dùng thứ gì không. Bà phát tâm thường xuyên hộ trì chư tăng ni tám việc: 1- cúng dường áo tắm mưa; 2- dâng thức ăn cho chư tăng ni từ các nơi đến thành Xá Vệ; 3- dâng thức ăn và các vật dụng cần thiết cho chư tăng ni rời thành Xá Vệ đi du hóa phương khác; 4- dâng thức ăn thích hợp cho chư tăng ni bị bệnh; 5- dâng thức thức ăn cho quí vị phải săn sóc bệnh nhân, không đi khất thực được; 6- dâng thuốc men cho chư tăng ni bị bệnh; 7- dâng cháo buổi sáng cho chư tăng ni; 8- dâng khăn và áo tắm cho chư ni. Cả tám điều đó đều được Phật chấp thuận.

Một ngày nọ, tu viện Kì Viên có lễ lớn, bà Tì Xá Khư đã phục sức thật đẹp để đi chùa. Tới nơi, trước khi vào lễ Phật, bà cởi chiếc áo choàng quí giá gói lạì và giao cho người tì nữ cầm. Sau khi nghe pháp, bà ra về, và người tì nữ đã bỏ quên gói áo choàng lại tu viện. Hôm đó là ngày trực của tôn giả A Nan. Tôn giả thấy gói áo mà không biết là của ai. Theo lời Phật dạy, tôn giả tạm cất vào một chỗ, chờ chủ nó đến hỏi thì trao lại. Bà Tì Xá Khư về đến nhà thì mới hay người hầu đã bỏ quên gói áo ở tu viện. Bà bảo người hầu hãy trở lại tất cả lấy chiếc áo, nhưng dặn kĩ rằng, nếu chưa có ai đụng đến chiếc áo thì lấy đem về, nếu đã có vị sư nào đụng đến thì chiếc áo ấy đã thuộc về tu viện, hãy để lại đó, không lấy về. Người tì nữ lên tu viện và biết là tôn giả A Nan đã cầm chiếc đem cất, trở về thuật lại cho bà biết. Bà liền đến hầu Phật và tỏ ý muốn cúng dường giáo đoàn chiếc áo ấy bằng cách bán lấy tiền để dùng vào một việc gì, nhưng chiếc áo ấy không ai mua nổi, vì trị giá của nó đến chín mươi triệu đồng tiền vàng! Cuối cùng, chính bà mua lại nó, rồi bà thỉnh ý Phật muốn làm gì với số tiền đó. Phật dạy nên cất thêm một tu viện nữa, vì số tăng chúng độ này đã tăng quá đông. Bà vâng lời, bèn bỏ thêm vào đó chín mươi triệu đồng tiền vàng nữa để xây ngôi tu viện mới ngay trên khu đất của bà ở cổng phía Đông thủ đô. Khu đất ấy nhỏ hơn khu vườn của thái tử Kì Đà, nhưng xinh đẹp không kém; và bà cũng cúng dường luôn cho tu viện. Công trình xây cất này do tôn giả Mục Kiền Liên làm giám đốc. Thời gian xây cất kéo dài chín tháng. Khu tăng xá được xây hai tầng, mỗi tầng có năm trăm phòng. Tu viện được đặt tên là Đông Viên (Purvarama - Pubbarama). Một ngôi giảng đường lớn được dựng ngay ở trung tâm khu đất, được đặt tên là Lộc Mẫu (Mrgaramatr - Migaramata). Tu viện xây cất xong, bà lại cúng dường thêm chín mươi triệu đồng tiền vàng để trang bị mọi thứ cần thiết phía bên trong. Mùa mưa năm đó, bà thỉnh Phật an cư tại tu viện mới này, và chính tại đây, đức Phật đã an cư cả thảy sáu lần.

- Nếu kể luôn mười chín lần ở tu viện Kì Viên, đức Phật đã an cư tại thành Xá Vệ cả thảy hai mươi lăm lần.

Ngoài tu viện Đông Viên, bà Tì Xá Khư còn nhiệt tâm ủng hộ ni trưởng Kiều Dàm Di trong việc kiến thiết và trang bị một trung tâm tu học lớn dành cho ni chúng ở ngoại ô thành Xá Vệ. Nhờ có trung tâm này mà ni chúng đã thu đạt được nhiều thành quả tốt đẹp trong công phu tu học, vì được thân cận nhiều với Phật và chư tăng.

Tì Xá Khư đã đóng góp phần quan trọng trong nhiều lãnh vực khác nhau có liên quan đến Phật sự. Đôi khi bà được đức Phật nhờ đi hóa giải những vụ bất hòa xảy ra giữa ni chúng. Có lần tu viện Kì Viên bị một giáo phái ngoại đạo vu khống là đã hãm hiếp rồi giết bịt miệng một nữ tín đồ của họ. Cảnh sát thành phố đã vào khám xét tu viện và tìm được xác của cô gái bị chôn trong khuôn viên tu viện. Chuyện này đã gây hoang mang trong dân chúng, và làm khổ tâm tất cả chư tăng ni và Phật tửXá Vệ. Vua Ba Tư Nặc cũng bàng hoàng. Bà Tì Xá Khư quá đau buồn vì chuyện này. Bà biết là Phật và chư tăng đã bị vu khống. Bà liền bàn bạc với cư sĩ Cấp Cô Độc, phải tìm cách đem vụ này ra ánh sáng. Hai người liền thuê thám tử riêng (với sự giúp sức của thái tử Kì Đà), trà trộn vào nội bộ giáo pháp ấy để thám thính. Kết quả, các thám tử đã tìm ra hai thủ phạm đã giết cô gái kia. Cảnh sát đến bắt, họ khai rằng, các vị lãnh đạo của giáo phái đã thuê họ giết cô gái rồi đem chôn ở gần tịnh thất của Phật trong tu viện. Thế là câu chuyện vu khống đã được sáng tỏ, tất cả được thoát một ách nạn.

Do các đóng góp với lòng nhiệt thành, bà Tì Xá Khư được coi là người tín nữcông đức nhiều nhất trong các Phật sự, và cũng là vị nữ thí chủ lớn nhất của giáo đoàn thời Phật tại thế. Bà có tất cả mười người con trai và mười người con gái, tất cả đều hiếu thảo và tin Phật.

Bà sống được một trăm hai mươi tuổi thọ.

CHÚ THÍCH

(1) Ương Già là một trong mưới sáu nước lớn ở Ấn Độ thời Phật tại thế, nằm ở phía Đông nước Ma Kiệt Đà.

(2) Trong thời Phật tại thế, có sáu giáo phái ngoại đạo (kinh sách thường gọi là “lục sư ngoại đạo”) được thịnh hành và có thế lực nhất trong lưu vực sông Hằng, so với các ngoại đạo khác. Họ cũng được coi thuộc Bà la môn giáo, nhưng thực sự thì họ là những Đoàn Sa Môn cấp tiến, có khuynh hướng tự do tư tưởng, chống lại tư tưởng cố chấp của Bà la môn giáo truyền thống. Sáu giáo pháo đó là (tên của giáo phái tức là tên của vị lãnh đạo): 1) Giáo phái Phú Lan Na Ca Diếp (Purana Kassapa), chủ trương thuyết hoài nghi về luân lí, cho rằng thiện ác chỉ là những nhận thức do thói quen mà có, không có nghiệp báo của thiện và ác. 2) Giáo phái Mạt Già Lê Câu Xá Lê (Makkhali Gosala), chủ trương thuyết tự nhiên, cho rằng những khổ vui của con người chỉ là sự vận hành tự nhiên, bản thân con người không can thiệp gì được. Dù ngàn năm sau có được giải thoát thì cũng là do sự vận hành của những qui luật tự nhiên, chứ không phải do nổ lực tu hành. 3) Giáo phái A Kì Đa Si Xá Khâm Bà La (Ajita Kesakambala), chủ trương thuyết duy vật, cho rằng con người do đất, nước, lửa và không khí tạo thành, và sau khi chết thì không còn gì cả; cho nên con người trong khi đang sống thì phải hưởng lạc cho thỏa thích. 4) Giáo phái Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên (Pakudha Kaccayana), chủ trương thuyết bất diệt, cho rằng thân và tâm con người không bao giờ bị hủy diệt; con người do bảy yếu tố đất, nước, lửa, không khí, khổ, vui và sinh mạng hợp thành, sống chết chỉ là hiện tượng bề ngoài do sự kết hợp hay tan rã của bảy yếu tố ấy, còn tự thân bảy yếu tố ấy là trường cửu, bất diệt. 5) Giáo phái San Xà Da Tì La Chi Tử (Sanjaya Belatthiputta), chủ trương thuyết thích ứng, cho rằng, chân lí luôn luôn tùy thuộc vào trường hợp, không gianthời gian; bởi vậy, không có một điều gì gọi là chân lí phổ quát, mà chính nhận thức của con người là thước đo của mọi sự vật. (Hai vị đệ tử lớn của Phật là Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên. Trước khi qui y theo Phật, đã từng là những cao đồ của giáo phái này). 6) Giáo phái Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử (Nigantha Nataputta), gọi tắt là Ni Kiền Tử (cũng tức là Kì Na giáo - Jaina), chủ trương thuyết vận mệnh, cho rằng mạng và phi mạng là nền tảng của vũ trụ và sự sống. Các đạo sĩ trong giáo phái này không mặc quần áo (cho nên cũng gọi là phái Lõa Thể, hay Lõa Hình), giữ giới bất sát một cách tuyệt đối. Thế lực của họ trong xã hội rất lớn, cho nên thường hay chống đối và cạnh tranh với giáo đoàn Phật. Tôn giả Mục Kiền Liên luôn luôn là cái gai nhọn của họ, bởi vậy, tôn giả đã bị họ vây đánh cho đến chết ngay trước cổng tu viện Trúc Lâm (vào năm đức Phật tám mươi tuổi).

 
TÀI LIỆU THAM KHẢO

(Để viết phần “PHỤ LỤC” và những chú thích, người viết đã tham khảo các tài liệu sau đây:)

- Disciples of the Buddha, Zenno Ishigami (Richard L. Gage và Paul McCarthy dịch ra Anh ngữ). Kosei Publishing Co, xuất bản, Tokyo, 1989. 

- Đức PhậtPhật pháp, Narada Maha Thera (Phạm Kim Khánh dịch). Chùa Khánh An ấn hành, Paris.

- Đường Xưa Mây Trắng, Thích Nhất Hạnh. Lá Bối in lần thứ hai, San Jose, 1992.

- Phật Quang Đại Từ Điển, Tinh Vân đại sư chủ trương biên tập. Phật Quang Văn Hóa Sự Nghiệp hữu hạn công ti xuất bản, Đài Bắc, bản in tháng 5 năm 1997 (năm Dân quốc 86).

- Tăng Già Thời Đức Phật, Thích Chơn Thiện. Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành, Saigon, 1991.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 118)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 198)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 179)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 213)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 420)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 432)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 526)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 784)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 795)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 671)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 798)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 684)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 785)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 808)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 862)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 914)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1576)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1021)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 912)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1084)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1073)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1934)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1312)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1055)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1069)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1494)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1225)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1250)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1139)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1605)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant