Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 1

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 19811)
Trang 1

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói hạnh thanh-tịnh không trược loạn đại công-đức rồi, vì muốn hiển-thị công-đức của bồ-đề tâm, nên nói kệ hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát :

Nay tôi đã vì chư Bồ-Tát

Nói hạnh thanh-tịnh Phật đã tu

Ngài cũng nên ở trong hội này

Diễn đạt tu hành công-đức lớn.

Lúc đó Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp :

Lành thay xin ngài lóng nghe đây

Những công-đức đó chẳng lường được

Nay tôi tùy sức, nói ít phần

Như một giọt nước trong biển lớn.

Nếu có Bồ-Tát sơ phát tâm

Thệ cầu sẽ chứng Phật bồ-đề

Công-đức của kia không ngằn mé

Không thể cân lường, chẳng gì sánh.

Huống là vô-lượng vô-biên kiếp

Tu đủ địa, độ, các công-đức

Mười phương tất cả chư Như-Lai

Ðều cùng ngợi khen chẳng hết được.

Vô-biên công-đức lớn như vậy

Nay tôi trong đây nói ít phần

Ví như chân chim vạch không gian

Và như hạt bụi trên đại địa.

Bồ-Tát phát tâm cầu bồ-đề

Chẳng phải không nhơn, không có duyên

Với Phật, Pháp, Tăng khởi lòng tin

Do đây mà sanh tâm rộng lớn.

Chẳng cầu ngũ dục và ngôi vua

Chẳng mong giàu, vui, danh tiếng lớn

Chỉ vì dứt hẳn khổ chúng-sanh

Lợi ích thế-gian mà phát ý.

Thường muốn lợi lạc các chúng-sanh

Trang-nghiêm cõi nước, cúng-dường Phật

Thọ trì chánh-pháp, tu trí-huệ

Vì chứng bồ-đề mà phát tâm.

Thâm tâm, tin, hiểu thường thanh-tịnh

Cung kính, tôn trọng tất cả Phật

Nơi Pháp và Tăng cũng như vậy

Chí-thành cúng-dường mà phát tâm.

Thâm tín nơi Phật và phật-pháp

Cũng tin phật-tử đạo tu hành

Và tin vô-thượng đại bồ-đề

Do đây Bồ-Tát phát tâm nguyện.

Tin là đạo nguồn, mẹ công-đức

Nuôi lớn tất cả những pháp lành

Dứt trừ lưới nghi, khỏi vòng ái

Khai thị niết-bàn, đạo vô-thượng.

Tin không nhơ bợn, lòng thanh-tịnh

Là cội cung kính, trừ kiêu mạn

Cũng là pháp-tạng đệ-nhứt-tài

Là tay thanh-tịnh thọ thiện hạnh.

Tin hay ban cho, không bỏn-sẻn

Tin hay hoan-hỉ vào phật-pháp

Tin hay thêm lớn trí, công-đức

Tin quyết-định được bực Như-Lai.

Tin khiến lục-căn sạch, sáng, lẹ

Tin sức kiên-cố không bị hư

Tin hay dứt hẳn cội phiền-não

Tin hay chuyển hướng Phật công-đức.

Tin nơi cảnh-giới không chấp trước

Xa lìa các nạn, được vô-nạn

Tin hay vượt khỏi các đường ma

Thị-hiện đạo giải-thoát vô-thượng.

Tin là giống công-đức không hư

Tin hay sanh trưởng cây bồ-đề

Tin hay thêm lớn trí tối-thắng

Tin hay thị-hiện tất cả Phật.

Cứ theo công-hạnh nói thứ đệ

Tin là hơn hết, rất khó được

Ví như trong tất cả thế-gian

Mà có như ý diệu-bửu-châu.

Nếu thường tin thờ nơi chư Phật

Thời hay trì giới và tu-học;

Nếu thường trì-giới và tu học

Thời hay đầy đủ các công-đức.

Giới hay khai phát gốc bồ-đề

Học là siêng tu bực công-đức,

Nơi giới và học thường thuận làm

Thời được chư Phật luôn khen ngợi.

Nếu thường tin phụng nơi chư Phật

Thời hay trần-thiết cúng-dường lớn

Nếu hay trần-thiết cúng-dường lớn

Người này tin Phật bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng nơi tôn-pháp

Thời nghe phật-pháp không nhàm đủ

Nếu nghe phật-pháp không nhàm đủ

Người này tin pháp bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng thanh-tịnh tăng

Thời được tín tâm bất-thối-chuyển

Nếu được tín-tâm bất-thối-chuyển

Người này tín-lực không dao-động.

Nếu được tín-lực không dao-động

Thời được lục-căn sạch sáng-lẹ

Nếu được lục-căn sạch sáng-lẹ

Thời hay xa lìa ác-tri-thức.

Nếu hay xa lìa ác-tri-thức

Thời được gần gũi thiện-tri-thức

Nếu được gần gũi thiện-tri-thức

Thời hay tu tập quảng-đại-thiện.

Nếu hay tu tập quảng-đại-thiện

Người này được thành nhơn-lực lớn

Nếu người được thành nhơn-lực lớn

Thời được thù-thắng quyết-định giải.

Nếu được thù-thắng quyết-định giải

Thời được chư Phật thường hộ-niệm

Nếu được chư Phật thường hộ-niệm

Thời hay phát khởi bồ-đề-tâm

Nếu hay phát khởi bồ-đề-tâm

Thời hay siêng tu Phật công-đức

Nếu hay siêng tu Phật công-đức

Thời được sanh vào nhà của Phật.

Nếu được sanh ở nhà chư Phật

Thời khéo tu-hành phương-tiện lớn

Nếu khéo tu-hành phương-tiện lớn

Thời tâm tin ưa được thanh-tịnh.

Nếu được tâm tin ưa thanh-tịnh

Thời được tâm tăng-thượng tối-thắng

Nếu được tâm tăng-thượng tối-thắng

Thời thường tu tập ba-la-mật

Nếu thường tu tập ba-la-mật

Thời được trọn đủ pháp đại-thừa

Nếu được trọn đủ pháp đại-thừa

Thời hay đúng pháp cúng-dường Phật.

Nếu hay đúng pháp cúng-dường Phật

Thời được tâm niệm Phật bất-động

Nếu được tâm niệm Phật bất-động

Thời thường thấy được vô-lượng Phật.

Nếu thường thấy được vô-lượng Phật

Thời thấy Như-Lai thể thường-trụ

Nếu thấy Như-Lai thể thường-trụ

Thời biết được pháp trọn bất-diệt.

Nếu biết được pháp trọn bất-diệt

Thời được biện-tài vô-chướng-ngại

Nếu được biện-tài vô-chướng-ngại

Thời hay khai diễn vô-biên pháp.

Nếu hay khai diễn vô-biên pháp

Thời hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Nếu hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Thời được tâm đại-bi kiên-cố.

Nếu được tâm đại-bi kiên-cố

Thời hay mến ưa pháp thâm-diệu

Nếu hay mến ưa pháp thâm-diệu

Thời hay xa lìa lỗi hữu-vi.

Nếu hay xa lìa lỗi hữu-vi

Thời lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Nếu lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Thời hay kiêm-lợi tất cả chúng.

Nếu hay kiêm-lợi tất cả chúng

Thời ở sanh-tử không mỏi nhàm

Nếu ở sanh-tử không mỏi nhàm

Thời được dũng kiện không ai hơn.

Nếu được dũng kiện không ai hơn

Thời hay phát khởi đại thần-thông

Nếu hay phát khởi đại thần-thông

Thởi biết hạnh tất cả chúng-sanh.

Nếu biết hạnh tất cả chúng-sanh

Thời hay thành-tựu các quần-sanh

Nếu hay thành-tựu các quần-sanh

Thời được trí khéo nhiếp chúng-sanh.

Nếu được trí khéo nhiếp chúng-sanh

Thời hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Nếu hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Thời cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Nếu cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Thời đủ phương-tiện trí tối-thắng

Nếu đủ phương-tiện trí tối-thắng

Thời trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng.

Nếu trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng

Thời hay xô dẹp những ma-lực

Nếu hay xô dẹp những ma-lực

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma.

Nếu hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Thời được đến nơi bực bất-thối

Nếu được đến nơi bực bất-thối

Thời được pháp-nhẫn vô-sanh lớn.

Nếu được pháp-nhẫn vô-sanh lớn

Thời được chư Phật thọ-ký cho

Nếu được chư Phật thọ-ký cho

Thời tất cả Phật hiện ra trước.

Nếu được chư Phật hiện ra trước

Thời rõ mật-dụng thần-thông lớn

Nếu rõ mật-dụng thần-thông lớn

Thời được chư Phật thường nhớ tưởng.

Nếu được chư Phật thường nhớ tưởng

Thời dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Nếu dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Thời được thân đoan-nghiêm diệu-phước.

Nếu được thân đoan-nghiêm diệu-phước

Thời thân chói sáng dường núi vàng

Nếu thân chói sáng dường núi vàng

Thời đủ ba mươi hai tướng hảo.

Nếu đủ ba mươi hai tướng hảo

Tám mươi tùy hảo đồng nghiêm-sức

Nếu đủ tùy hảo đồng nghiêm-sức

Thời thân sáng chói vô-hạn-lượng.

Nếu thân sáng chói vô-hạn-lượng

Thời được quang-minh bất-tư-nghị

Nếu được quang-minh bất-tư-nghị

Quang-minh này hiện những liên-hoa.

Những quang-minh từ liên-hoa hiện

Có vô-lượng Phật ngự trên liên-hoa

Thị-hiện mười phương đều khắp cả

Ðều hay điều-phục các chúng-sanh.

Nếu hay điều-phục các chúng-sanh

Thời hiện vô-lượng thần-thông-lực.

Nếu hiện vô-lượng thần-thông-lực

Thời trụ bất-tư-nghị cõi nước,

Thời diễn thuyết bất-tư-nghị pháp

Khiến bất-tư-nghị chúng hoan-hỉ.

Thời dùng sức trí-huệ, biện-tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa.

Nếu dùng sức trí-huệ, biện tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa

Thời dùng trí-huệ làm tiên-đạo

Thân, ngữ, ý, thường không lầm lỗi.

Nếu dùng trí-huệ làm tiên đạo

Thân ngữ ý thường không lầm lỗi

Thời nguyện-lực tất được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân.

Nếu nguyện-lực ấy được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân

Thời lúc tùy chúng, mà thuyết-pháp

Âm-thinh tùy loại, khó nghĩ bàn

Thời với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Nếu với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Thời biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử.

Nếu biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử

Thời được thân công-đức pháp-tánh

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian.

Nếu được thân pháp-tánh công-đức

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian

Thời được thập-địa, mười tự-tại

Tu-hành các độ, thắng giải-thoát

Thời được quán-đảnh đại thần-thông

Trụ nơi tối-thắng các tam-muội.

Nếu được quán-đảnh đại-thần-thông

Trụ nơi tối thắng các tam-muộI

Thời khắp mười-phương chỗ chư Phật

Ðáng thọ quán-đảnh được thắng-vị

Thời được tất cả Phật mười phương

Tay lấy cam-lộ rưới trên đảnh

Thời thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương.

Nếu thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương

Thời chỗ sở-hành không ai bằng

Chư thiên, người đời chẳng biết được.

Bồ-Tát siêng tự-tại hạnh đại-bi

Nguyện độ tất cả đều trọn vẹn

Nếu ai nghe thấy mà cúng-dường

Ðều làm cho họ được an-lạc.

Thần-lực của chư Bồ-Tát kia

Pháp-nhãn toàn vẹn không thuyết giảm

Những đạo diệu-hạnh thập thiện thảy

Thắng bửu vô-lượng đều khiến hiện.

Như báu kim-cang trong đại-hải

Do oai-lực này sanh các báu;

Không tăng, không giảm, cũng vô-tận

Công-đức của Bồ-Tát cũng vậy.

Hoặc có quốc-độ không có Phật

Bồ-Tát nơi đó hiện thành Phật,

Nếu có quốc-độ chẳng biết Pháp

Nơi đó Bồ-Tát thuyết diệu-pháp.

Không có phân-biệt, không công-dụng

Trong khoảng một niệm khắp mười-phương

Như mặt nguyệt sáng chiếu khắp nơi

Vô-lượng phương-tiện độ quần-sanh.

Ở trong mười-phương các thế-giới

Niệm niệm thị-hiện thành phật-đạo

Chuyển chánh pháp-luân vào tịch-diệt

Nhẫn đến xá-lợi phân bố rộng.

Hoặc hiện Thanh-Văn cùng Ðộc-Giác

Hoặc hiện thành Phật khắp trang-nghiêm

Như vậy khai-diễn pháp ba thừa

Rộng độ chúng-sanh vô-lượng kiếp.

Hoặc hiện thân đồng-nam đồng-nữ

Trời rồng nhẫn đến a-tu-la,

Cùng với ma-hầu-la-già thảy

Tùy chúng sở-thích đều khiến thấy.

Chúng-sanh hình tướng đều chẳng đồng

Hành-nghiệp, âm-thinh cũng vô-lượng

Tất cả như vậy đều hiện được

Hải-ấn tam-muội oai-thần lực.

Nghiêm-tịnh bất-tư-nghị quốc-độ

Cúng-dường tất cả chư Như-Lai

Phóng-đại quang-minh vô-lượng-biên

Ðộ thoát chúng-sanh cũng vô-hạn.

Trí-huệ tự-tại, bất-tư-nghị

Ngôn-từ thuyết-pháp không chướng ngại

Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền-định

Trí-huệ, phương-tiện, thần-thông thảy.

Tất cả như vậy đều tự-tại

Do Phật hoa-nghiêm tam-muội lực.

Trong một vi-trần nhập tam-muộI

Thành-tựu vi-trần tất cả định,

Mà vi-trần kia cũng không thêm

Nơi một hiện khắp vô-biên cõi.

Trong một trần kia, nhiều quốc-độ

Hoặc là có Phật, hoặc không Phật,

Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh-tịnh

Hoặc cõi rộng lớn, hoặc hẹp nhỏ

Hoặc có cõi thành, hoặc là hoại

Hoặc cõi chánh-trụ, hoặc bàng-trụ,

Hoặc như ánh-nắng giữa đồng-trống

Hoặc như lưới Thiên-Ðế trên trời.

Như chỗ thị-hiện trong một trần

Tất cả vi-trần đều như vậy,

Ðây là những thánh-nhơn cao cả

Tam-muội, giải-thoát thần-thông-lực.

Nếu muốn cúng-dường tất cả Phật

Nhập nơi tam-muội khởi thần-thông

Hay dùng một tay khắp đại-thiên

Cúng khắp tất cả vô-số Phật.

Bao nhiêu hoa đẹp ở mười-phương

Hương thoa, hương bột, báu vô-giá

Ðều từ trong tay xuất hiện ra

Cúng-dường chư Phật ngự đạo-thọ.

Bửu-y vô-giá, xen hương-diệu

Bửu tràng-phan, lọng đều xinh đẹp

Vàng rồng làm hoa, ngọc làm màn

Tất cả đều từ trong tay hiện.

Bao nhiêu vật tốt ở mười-phương

Ðáng đem phụng-hiến đấng vô-thượng

Trong tay tất cả đều hiện đủ

Trước cây bồ-đề cúng chư Phật.

Tất cả kỹ-nhạc ở mười-phương

Chung, cổ, cầm, sắc đủ các loại

Ðồng tấu hòa nhã âm-thinh diệu

Ðều từ bàn tay xuất hiện ra.

Bao nhiêu tán tụng ở mười-phương

Ca ngợi thiệt-đức của chư Phật

Như vậy các thứ diệu ngôn-từ

Ðều từ bàn tay mà khai-diễn.

Bồ-Tát tay mặt phóng tịnh-quang

Trong quang rưới ra nước thơm sạch

Rưới khắp mười-phương các quốc-độ

Cúng dường tất cả Chiếu-Thế-Ðăng.

Lại phóng quang-minh diệu trang-nghiêm

Xuất-sanh vô-lượng hoa-sen báu

Hoa này hình sắc đều rất đẹp

Dùng đây cúng-dường lên chư Phật.

Lại phóng quang-minh hoa trang-nghiêm

Các thứ diệu-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh hương trang-nghiêm

Các thứ diệu-hương họp làm trướng,

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh mạt-hương tốt

Các thứ mạt-hương họp làm trướng

Rải khăp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh y trang-nghiêm

Các thứ y phục họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh bửu trang-nghiêm

Các thứ diệu-bửu họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang liên-hoa trang-nghiêm

Các thứ liên-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang anh-lạc trang-nghiêm

Các thứ chuỗi-ngọc họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh tràng trang-nghiêm

Bửu-tràng rực-rỡ đủ màu đẹp

Các loại vô-lượng đều rất tốt

Dùng dây trang-nghiêm các phật-độ.

Các thứ báu đẹp lọng trang-nghiêm

Những phan lụa đẹp treo rủ xuống

Lạc báu ma-ni, diễn phật-âm

Ðem đến kính-dâng cúng chư Phật.

Tay hiện đồ cúng bất-tư-nghị

Như vậy cúng-dường một Ðạo-Sư

Nơi tất cả Phật đều như vậy

Ðây là thần-lực của Ðại-Sĩ.

Bồ-Tát trụ trong môn tam-muội

Các thứ tự-tại nhiếp chúng-sanh

Ðều đem pháp công-đức đã làm

Vô-lượng phương-tiện để chỉ dạy.

Hoặc dùng môn cúng-dường Như-Lai

Hoặc dùng môn nhẫn-nhục bất-động

Hoặc dùng môn khổ-hạnh tinh-tấn

Hoặc dùng môn thiền-định tịch-tịnh,

Hoặc dùng môn trí-huệ quyết rõ

Hoặc dùng môn phương-tiện tu-hành

Hoặc dùng môn phạm-trụ, thần-thông

Hoặc dùng môn tứ-nhiếp lợi-ích,

Hoặc dùng môn phước-trí trang-nghiêm

Hoặc dùng môn nhơn-duyên, giải-thoát

Hoặc dùng môn căn, lực, chánh-đạo

Hoặc dùng môn Thinh-Văn giải-thoát,

Hoặc dùng môn Ðộc-Giác Thanh-tịnh

Hoặc dùng môn Ðại-Thừa tự-tại

Hoặc dùng môn Vô-Thường những khổ

Hoặc dùng môn vô-ngã vô-thọ,

Hoặc dùng môn bất-tịnh, ly-dục

Hoặc dùng môn diệt-tận tam-muội.

Tùy theo chúng-sanh bịnh chẳng đồng

Ðều dùng pháp-dược để đối-trị.

Tùy theo chúng-sanh tâm sở-thích

Ðều dùng phương-tiện khiến đầy đủ.

Tùy theo chúng-sanh hạnh sai-biệt

Ðều dùng chước khéo khiến thành tựu.

những tướng tam-muội thần-thông ấy

Tất cả trời người chẳng lường được.

Có diệu tam-muội tên tùy-lạc

Bồ-Tát trụ đây, khắp quan-sát

Tùy nghi thị-hiện độ chúng-sanh

Ðều khiến vui lòng theo chánh-pháp.

Trong thời-gian, nạn cơ-cẩn, tai

Ban cho thế-gian đồ cần thiết

Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích :

Hoặc cho những vật uống, ăn ngon

Y-phục, tư-trang, những vật tốt

Cả đến ngôi vua, đều xả được

Khiến kẻ ưa thí theo chánh-pháp.

Hoặc dùng tướng-hảo trang-nghiêm thân

Y-phục thượng-diệu, chuỗi ngọc báu

Tràng hoa nghiêm-sức, hương thoa thân

Oai-nghi đầy đủ, độ hàm thức.

Tất cả thế-gian chỗ ưa chuộng

Sắc tướng, dung-nhan, và y-phục

Tùy nghi hiện đủ, vui lòng họ

Khiến kẻ ưa sắc theo chánh-pháp.

Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu

Âm-thinh diệu Câu-chỉ-la thảy

Những thứ phạm-âm đều đầy đủ

Tùy lòng họ thích vì thuyết-pháp.

Tám vạn bốn ngàn các pháp-môn

Chư Phật dùng đây độ chúng-sanh

Bồ-Tát cũng theo pháp sai-biệt

Tùy nghi theo đời mà hóa độ.

Chúng-sanh khổ, lạc, lợi, suy thảy

Những việc thật hành của thế-gian

Ðều hay ứng hiện đồng với họ

Dùng đây phổ-độ các chúng-sanh.

Tất cả thế-gian những khổ hoạn

Sâu rộng không bờ như đại-hải

Ðồng sự với họ đều chịu được

Khiến họ lợi ích được an vui.

Có người chẳng biết pháp xuất ly

Chẳng cầu giải-thoát lìa ồn náo

Vì họ Bồ-Tát hiện thí xả

Thường ưa xuất-gia tâm tịch-tịnh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19862)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30504)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36431)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33236)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35572)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20993)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25801)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31269)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23776)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28945)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20869)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22529)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23288)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25753)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23728)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22103)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41111)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18998)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20493)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27731)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38130)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34082)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36791)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24006)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29200)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24540)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26376)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20826)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46444)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53588)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25585)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29273)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant