Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 2

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 18379)
Trang 2

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Nhà là chốn tham ái, ràng buộc

Muốn khiến chúng-sanh, đều khỏi lìa

Nên hiện xuất-gia được giải-thoát

Với các dục lạc không ưa thích.

Bồ-Tát hiện làm mười công-hạnh

Cũng làm tất cả pháp đại-nhơn

Làm hạnh chư Tiên đều không sót

Vì muốn chúng-sanh được lợi ích.

Nếu có chúng-sanh thọ vô-lượng

Phiền-não vi-tế thích đầy đủ

Trong đó Bồ-Tát được tự-tại

Hiện thọ các khổ : già, bịnh, chết.

Hoặc kẻ tham-dục, sân, ngu-si

Lửa mạnh phiền-não luôn hừng cháy

Bồ-Tát thị-hiện già, bịnh, chết

Khiến chúng-sanh đó đều điều-phục.

Như-Lai thập-lực, vô-sở-úy

Cùng với mười tám pháp bất-cộng

Tất cả vô-lượng các công-đức

Ðều đem thị-hiện độ chúng-sanh.

Thọ-ký, giáo-hóa và thần-túc

Ðều là sức tự-tại của Phật

Chư Ðại-Sĩ kia đều thị-hiện

Hay khiến chúng-sanh đều điều-phục.

Bồ-Tát đem các môn phương-tiện

Tùy thuận thế-pháp độ chúng-sanh

Ví như liên-hoa chẳng dính nước

Tại thế như vậy, khiến người tin.

Là vua văn tài, học uyên-bác

Ca vũ, luận bàn, người đều thích

Tất cả kỹ-thuật trong thế-gian

Như nhà ảo-thuật đều hiện đủ.

Hoặc làm trưởng-giả, chủ trong ấp

Hoặc làm thương mãi, người buôn bán

Hoặc làm quốc-vương cùng quan lớn

Hoặc làm lương-y, nhà hùng-biện.

Hoặc làm cây to giữa cánh đồng

Hoặc làm thuốc hay, những kho báu

Hoặc làm bửu-châu như-ý-vương

Hoặc đem chánh-đạo dạy chúng-sanh.

Nếu thấy thế-giới mới thành lập

Chúng-sanh chưa có vật cần dùng

Bấy giờ Bồ-Tát làm công-thợ

Vì họ bầy ra các nghề nghiệp.

Chẳng làm vật bức-não chúng-sanh

Chỉ nói chuyện thế-gian lợi-ích

Các luận : chú-thuật, dược-thảo thảy

Tất cả như vậy đều nói rành.

Thắng-hạnh của tất cả tiên-nhơn

Trời người, mọi loài đều tín-ngưỡng

Những pháp khổ-hạnh khó làm đó

Bồ-Tát tùy-nghi đều làm được.

Hoặc làm ngoại-đạo người xuất-gia

Hoặc ở núi rừng tự cần khổ

Hoặc để mình trần, không y-phục

Mà làm sư-trưởng của chúng kia.

Hoặc hiện những hạnh tà-mạng thảy

Tập làm phi-pháp cho là thắng

Hoặc hiện oai-nghi, làm phạm-chí

Ở trong chúng kia làm thượng-thủ.

Hoặc chịu ngũ-nhiệt, phơi dưới nắng

Hoặc giữ giới bò, chó và nai

Hoặc mặc áo rách, phụng-thờ lửa

Vì độ chúng kia, làm sư-trưởng.

Hoặc hiện yết-kiến các thiên-miếu

Hoặc lại hiện vào nước sông Hằng

Ăn củ, trái thảy, đều hiện làm

Nơi đó thường suy pháp tối-thắng.

Hoặc hiện ngồi xổm, hoặc co chơn

Hoặc nằm cỏ gai, hoặc trên tro

Hoặc nằm trên chày, cầu xuất-ly

Mà ở chúng kia làm sư-thủ.

Như vậy các phái, các ngoại đạo

Quan-sát ý-giải cùng đồng-sự

Hiện làm : khổ-hạnh đời chẳng kham

Khiến họ xem thấy đều điều-phục.

Chúng-sanh mê-lầm bẩm tà-giáo

Trụ nơi ác-kiến, thọ những khổ

Vì họ, phương-tiện, nói diệu-pháp

Ðều khiến được hiểu lý chơn-thật.

Hoặc theo chú-ngữ nói tứ-đế

Hoặc giỏi mật-ngữ nói tứ-đế

Hoặc dùng tiếng người nói tứ-đế

Hoặc Trời mật-ngữ nói tứ-đế.

Phân-biệt văn-tự, nói tứ-đế

Quyết-định nghĩa-lý, nói tứ-đế

Khéo phá nơi người, nói tứ-đế

Chẳng bị dao-động, nói tứ-đế,

Hoặc tiếng bát-bộ, nói tứ-đế

Hoặc tất cả lời, nói tứ-đế

Tùy ngôn-âm thế-gian hiểu được

Diễn thuyết tứ-đế, khiến giải-thoát.

Tất cả bao nhiêu các phật-tử

Ðều nói như vậy đủ tất cả

Biết cảnh-giới lời bất-tư-nghị

Ðây là thuyết-pháp tam-muội-lực.

Có thắng tam-muội tên an-lạc

Hay khắp cứu độ các quần sanh

Phóng đại quang-minh bất-tư-nghị

Khiến ai được thấy đều điều phục.

Quang-minh đã phóng tên thiện-hiện

Nếu có ai gặp quang-minh này

Tất được lợi-ích chẳng luống uổng

Nhơn đây được thành trí vô-thượng,

Bồ-Tát trước hiện nơi chư Phật

Hiện Pháp, hiện Tăng, hiện chánh-đạo

Cũng hiện tháp Phật và hình tượng

Vì thế nên thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên chiếu-diệu

Chói lấn tất cả sáng chư Thiên

Bao nhiêu ám-chướng đều tiêu-trừ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích.

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến cầm đèn sáng cúng-dường Phật

Do dùng đèn sáng cúng-dường Phật

Ðược thành thế-gian Vô-Thượng-Ðăng.

Thắp những đèn dầu và đèn tô

Cũng thắp các thứ đuốc sáng tỏ

Những ngọn nến báu thơm đẹp nhất

Dùng đây cúng Phật được quang này.

Lại phóng quang-minh tên tế-độ

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khiến họ phát tâm đại thệ-nguyện

Ðộ thoát quần-sanh trong dục-hải

Thời hay vượt qua bốn dòng nước

Bước đến thành vô-ưu giải-thoát.

Nơi những đường đi ngang sông lớn

Xây cất cầu đò và thuyền bè

Quở rầy hữu-vi khen tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệt-ái

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ xa lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát.

Nếu hay bỏ lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát

Thời hay dùng Phật pháp cam-lồ

Rưới tắt thế-gian những khát-ái.

Bố-thí ao, giếng, và khe suối

Chuyên cầu bồ-đề đạo vô-thượng

Quở trách ngũ-dục, khen thiền-định

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hoan-hỷ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ ái-mộ Phật bồ-đề

Phát tâm nguyện chứng vô-sư-đạo.

Tạo lập Như-Lai tượng đại-bi

Tướng hảo trang-nghiêm, ngự liên-tòa

Luôn khen những công-đức tối-thắng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ái-nhạo

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến lòng họ mến kính chư Phật

Mến kính tôn-pháp mến kính tăng;

Nếu tâm thường kính mến chư Phật

Kính mến Pháp và kính mến Tăng

Thời ở trong chúng-hội Như-Lai

Thành được pháp-nhẫn sâu vô-thượng.

Khai-ngộ chúng-sanh số vô-lượng

Khiến họ niệm Phật, Pháp, Tăng-Bửu

Và dạy phát tâm tự-tại công-đức

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phước-tụ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ thật hành nhiều bố-thí

Dùng đây nguyện cầu đạo vô-thượng.

Lập hội đại bố-thí vô-hạn

Ai đến cầu xin đều thỏa mãn

Chẳng để lòng họ còn thấy thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên cụ-trí

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi một pháp, trong một niệm

Ðều hiểu vô-lượng các pháp-môn.

Ví các chúng-sanh phân-biệt pháp

Nhẫn đến quyết-liễu nghĩa chơn-thật

Khéo nói pháp nghĩa không thiếu bớt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-đăng

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến biết chúng-sanh tánh không-tịch

Tất cả các pháp vô-sử-hữu.

Diễn-thuyết các pháp không, vô-chủ

Như huyễn, như diệm, trăng dưới nước

Cũng như giấc mơ, cùng bóng tượng

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên pháp-tự-tại

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được vô-tận đà-la-ni

Tổng-trì tất cả các phật-pháp,

Cung-kính cúng-dường người trì-pháp

Cung-cấp hầu-hạ chư thánh-hiền

Ðem chánh-pháp thí cho chúng-sanh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên năng-xả

Quang này giác-ngộ kẻ xan-tham

Khiến biết tài vật là vô-thường

Thường thích bố-thí lòng không nhiễm.

Lòng keo-kiết khó điều, được điều

Biết của như mộng, như mây nổI

Thêm lớn tâm bố-thí thanh-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên trừ-nhiệt

Quang này giác-ngộ kẻ phạm giới

Khiến họ thọ-trì giới thanh-tịnh

Phát tâm nguyện chứng đạo vô-sư.

Khuyên đắc chúng-sanh thọ-trì giới

Mười nghiệp đạo lành đều thanh-tịnh

Lại khiến phát hướng bồ-đề tâm

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhẫn-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ sân hận

Khiến họ lìa sân, trừ ngã-mạn

Thường thích pháp nhu-hòa nhẫn-nhục.

Chúng-sanh bạo ác khó nhẫn được

Vì bồ-đề nên tâm chẳng động

Thường thích chánh-pháp-ngợi đức nhẫn-nhục

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên dũng-mãnh

Quang này giác-ngộ kẻ giải-đãi

Khiến họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi.

Nếu họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Mau thành bực bồ-đề vô-thượng.

Khuyến hóa chúng-sanh khiến tinh-tấn

Thường siêng cúng-dường ngôi Tam-Bảo

Lúc pháp sắp diệt chuyên ủng-hộ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tịch-tịnh

Quang này giác-ngộ kẻ loạn tâm

Khiến họ xa lìa tham, sân, si

Tâm chẳng dao động được chánh-định,

Xa lìa tất cả ác-trí-thức

Luận đàm vô-nghĩa, hạnh tạp nhiễm

Khen ngợi thiền-định, hạnh tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ ngu mê

Khiến họ chứng lý, hiểu duyên khởi

Lục căn, trí-huệ đều thông đạt,

Nếu hay chứng lý, hiểu duyên-khởi

Lục-căn, trí-huệ đều thông đạt

Thời được pháp tam-muội nhựt-đăng

Trí-huệ sáng tỏ thành phật-quả,

Của ngoài, trong thân đều hay xả

Vì đạo bồ-đề cầu chánh-pháp

Nghe xong, chuyên cần vì chúng nói

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phật-huệ

Quang này giác-ngộ các hàm-thức

Khiến thấy vô-lượng vô-biên Phật

Ðều ngự trên bửu-tọa liên-hoa.

Khen Phật oai-đức và giải-thoát

Ngợi Phật tự-tại vô-hạn-lượng

Hiển thị phật-lực và thần-thông

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên vô-úy

Quang này chiếu đến kẻ sợ hãi

Quỷ-mị bắt giữ, những độc hại

Tất cả đều khiến mau trừ diệt,

Hay ban vô-úy cho chúng-sanh

Gặp kẻ não-hại đều khuyên ngăn

Chẩn-tế kẻ cô cùng ách-nạn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên an-ổn

Quang này chiếu đến người tật bịnh

Khiến trừ tất cả sự khổ đau

Ðều được sự vui trong chánh-định,

Ban cho thuốc hay cứu các bịnh

Diệu-bửu sống lâu, hương thoa thân

Tô, dầu, sữa, mật làm thức ăn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên kiến-Phật

Quang này giác-ngộ người sắp chết

Khiến, tùy nhớ tưởng, thấy Như-Lai

Mạng chung được sanh cõi nước Phật,

Thấy kẻ lâm-chung khuyên niệm Phật

Lại chỉ tượng Phật bảo nhìn ngắm

Khiến đối với Phật rất kính ngưỡng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên lạc-pháp

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi chánh-pháp luôn mến thích

Lóng nghe, diễn thuyết và biên chép,

Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết

Khiến người cầu pháp ý thỏa-mãn

Mến thích chánh-pháp siêng tu tập

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệu-âm

Quang này khai-ngộ chư Bồ-Tát

Hay khiến các tiếng trong ba cõi

Người đều nghe là tiếng của Phật,

Dùng âm-thinh lớn ca ngợi Phật

Bố-thí lạc, linh các âm nhạc

Khiến kháp thế-gian nghe tiếng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên thí cam-lộ

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến bỏ tất cả hạnh phóng-dật

Tu hành đầy đủ các công-đức,

Nói pháp hữu-vi chẳng an-ổn

Vô-lượng khổ-não đều đầy khắp

Hằng thích ca ngợi vui tịch-diệt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tối-thắng

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến ở chỗ Phật khắp lóng nghe

Giới, định, trí-huệ pháp tăng thượng,

Thường thích ca ngợi tất cả Phật

Thắng-giới, thắng-định, thắng trí-huệ

Ðó là vì cầu đạo vô-thượng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên Bửu-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được bửu-tạng vô-cùng tận

Dùng đây cúng-dường chư Như-Lai,

Ðem các loại bửu-châu thượng-diệu

Dâng lên chư Phật và tháp Phật

Cũng khiến ban cho kẻ nghèo thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hương-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến người nghe pháp lòng vui đẹp

Quyết-định sẽ thành công-đức Phật,

Hương tốt quý giá dùng thoa đất

Cúng-dường tất cả đấng Tói-Tôn

Cũng dùng xây tháp và tượng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tạp trang-nghiêm

Bửu-tràng, phan lọng số vô-lượng

Thắp hương, rải hoa, tấu âm-nhạc

Thành ấp trong ngoài đều khắp cả,

Ðem những kỹ-nhạc vi-diệu ấy

Cùng những hương, hoa, phan, lọng đẹp

Các thứ trang-nghiêm cúng-dường Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-khiết

Khiến mặt đại-địa đều bằng phẳng

Trang-nghiêm tháp Phật và chỗ ấy

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-vân

Hay khởi mây thơm hay nước thơm

Nước thơm rưới tháp và đình viện

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-cụ

Khiến người thiếu áo được thượng-phục

Vật tốt nghiêm thân đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thượng-vị

Hay khiến kẻ đói được mỹ-thực

Các thứ ăn ngon đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-tài

Khiến kẻ nghèo cùng được của báu

Ðem vật vô-tận cúng Tam-Bảo

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhãn-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ mù được ngó thấy

Ðem đèn cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhĩ-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ điếc được nghe rõ

Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tỹ-thanh-tịnh

Xưa chưa nghe hương, đều được nghe

Ðem hương cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thiệt-thanh-tịnh

Hay dùng tiếng tốt ca ngợi Phật

Trừ hẳn lời nói thô và ác

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thân-thanh-tịnh

Kể năm căn thiếu khiến hoàn cụ

Ðem thân lễ Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ý-thanh-tịnh

Khiến kẻ quên-lãng được chánh-niệm

Tu-hành tam-muội đều tự-tại

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên sắc-thanh-tịnh

Khiến thấy Phật-sắc bất-tư-nghị

Ðem những diệu-sắc trang-nghiêm tháp

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thinh-thanh-tịnh

Khiến biết thinh-tánh vốn không tịch

Quán thinh duyên-khởi, như tiếng vang

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên hương-thanh-tịnh

Khiến vật hôi nhơ đều thơm sạch

Nước thơm rửa tháp, cây bồ-đề

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên vị-thanh-tịnh

Hay trừ tất cả độc trong vị

Hằng cúng Phật, Tăng cùng cha mẹ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên xúc-thanh-tịnh

Hay khiến thô-nhám đều dịu mềm

Ðao, mâu, kiếm, kích trên rơi xuống

Ðều khiến biến làm tràng hoa đẹp,

Bởi xưa từng ở giữa đường sá

Thoa hương, rải hoa, trải y-phục

Rước đưa chư Phật đi trên đó

Vì thế nay được quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên pháp-thanh-tịnh

Hay khiến tất cả những chưn lông

Ðều diễn diệu-pháp bất-tư-nghị

Ai nghe pháp này đều vui hiểu,

Nhơn duyên sanh ra, vốn vô-sanh

Pháp-thân của Phật, chẳng phải thân

Pháp-tánh, thường-trụ như hư-không

Do thuyết nghĩa trên được quang ấy.

Những môn quang-minh như đã thuật

Hằng-hà sa-số vô-hạn-lượng

Ðều từ chưn lông Ðại-Tiên phóng

Mỗi quang công-dụng đều sai-biệt.

Như một chưn lông phóng quang-minh

Vô-lượng vô-số như hằng-sa

Tất cả chưn lông đều như vậy

Ðây là Ðại-Tiên tam-muội-lực.

Như bổn-hạnh xưa, được quang-minh

Tùy ai, túc duyên, đồng tu-hành

Nay phóng quang-minh nên như vậy

Ðây là Ðại-Tiên trí tự-tại.

Thuở xưa đồng tự-tại nơi phước-nghiệp

Và người mến thích hay tùy-hỉ

Thấy kia thật hành cũng vui theo

Nay nơi quang này đều được thấy.

Nếu ai tự tu các phước-nghiệp

Cúng-dường chư Phật vô-lượng-số

Nơi công-đức Phật thường nguyện cầu

Ðược quang-minh này làm giác-ngộ.

Như kẻ sanh-manh chẳng thấy trời

Chẳng phải mặt trời không mọc lên

Những người mắt tỏ đều thấy rõ

Riêng theo phận mình làm công việc,

Quang-minh Bồ-Tát cũng như vậy

Người có trí-huệ đều thấy cả

Phàm-phu tà-tín, kẻ mê-si

Nơi quang-minh này không thấy được.

Ma-ni cung-điện và xe kiệu

Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng

Người có phước-đức tự nhiên đủ

Người không phước-đức chẳng ở được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19885)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29012)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20721)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19472)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30552)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36478)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33281)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35615)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21021)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25295)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25825)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31296)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18588)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25174)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23805)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28974)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20902)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31468)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25581)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29752)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22551)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25755)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23316)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25772)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23771)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40635)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23372)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22493)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22117)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23529)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23306)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24351)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41142)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19021)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20517)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27749)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38158)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34098)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24038)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29241)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60197)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27647)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68784)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24559)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24522)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22748)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26395)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26579)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20849)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20096)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27596)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46501)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53609)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23646)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21129)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25626)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29300)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant