Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13909)
14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM TU DI SƠN ÐẢNH KỆ TÁN
THỨ MƯỜI BỐN

Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát, Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cõi nước của các ngài theo thứ-tự là : Nhơn-Ðà-La-Hoa thế-giới, Ba-Ðầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới, Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới, Duyệt-Ý-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Ðà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Ðặc-Nguyệt-Phật, Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Ðộng-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật, Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.

Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương đến, đều riêng hóa hiện tòa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.

Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư Phật cũng đồng.

Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Ðế-Thích ở mười phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.

Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Phật phóng tịnh quang-minh

Thấy khắp tất cả Phật

Ðảnh núi Tu-Di-Vương

Ở trong điện Diệu-Thắng.

Tất cả Thiên-Ðế-Thích

Thỉnh Phật vào cung-điện

Ðều nói mười kệ hay

Ca ngợi chư Như-Lai.

Trong các đại hội ấy

Bao nhiêu chúng Bồ-Tát

Ðều từ mười-phương đến

Hóa tòa mà an-tọa.

Bồ-Tát trong hội đó

Danh hiệu đồng chúng tôi,

Những cõi từ đó đến

Danh-tự cũng vẫn đồng;

Bổn-quốc chư Như-Lai

Hồng-danh đều cũng đồng,

Bồ-Tát nơi bổn Phật

Tịnh tu hạnh vô-thượng.

Ðại chúng nên quan-sát

Như-Lai tự-tại-lực

Tất cả Diêm-Phù-Ðề

Ðều nói Phật tại đấy.

Chúng tinh-tấn nay thấy Phật

Trụ nơi đảnh Tu-Di

Thập-phương cũng như vậy

Như-Lai tự-tại-lực.

Trong mỗi mỗi thế-giới

Phát tâm cầu phật-đạo

Nương nơi nguyện như vậy

Tu tập hạnh bồ-đề.

Phật dùng nhiều thân hình

Du hành khắp thế-gian

Pháp-giới không chướng ngại

Không ai trắc lượng được.

Huệ-quang hằng chiếu khắp

Ðời tối đều trừ diệt,

Tất cả không sánh bằng

Thế nào lường biết được !

Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Giả-sử trăm ngàn kiếp

Thường thấy đức Như-Lai

Chẳng y chơn-thật nghĩa

Mà quán đấng Cùu-Thế,

Người này chấp lấy tướng

Thêm lớn lưới mê lầm

Giam trói ngục sanh tử

Ðui mù, chẳng thấy Phật.

Quan-sát nơi các pháp

Ðều không có tự-tánh

Tướng nó, vốn sanh-diệt

Chỉ là danh thuyết giả.

Tất cả pháp vô-sanh

Tất cả pháp vô-diệt

Nếu hiểu được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

Pháp-tánh vốn không tịch

Vô-thủ, cũng vô-kiến

Tánh không, tức là Phật

Chẳng thể nghĩ lường được.

Nếu biết tất cả pháp

Thể tánh đều như vậy

Người này thời chẳng bị

Phiền-não làm nhiễm trước.

Phàm phu thấy các pháp

Chỉ chuyển theo tướng giả

Chẳng rõ pháp vô-tướng

Do đây chẳng thấy Phật.

Ðức Phật lìa ba thời

Các tướng đều đầy đủ

Trụ nơi vô-sở-trụ

Cùng khắp mà bất-động.

Tôi quán tất cả pháp

Thảy đều được rõ ràng

Nay thấy đức Như-Lai

Quyết-định không nghi ngờ.

Pháp-Huệ trước đã nói

Như-Lai chơn-thiệt tánh,

Tôi từ đó rõ biết

Bồ-đề khó nghĩ bàn.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Như-Lai đại trí-huệ

Hi-hữu không sánh bằng

Tất cả những thế-gian

Tư-duy chẳng đến được.

Phàm-phu vọng quan-sát

Chấp tướng chẳng đúng lý

Phật lìa tất cả tướng

Chẳng phải họ biết được.

Kẻ vô-tri mê lầm

Vọng chấp tướng ngũ-uẩn

Chẳng biết chơn-tánh kia

Người này chẳng thấy Phật.

Rõ biết tất cả pháp

Ðều không có tự-tánh

Hiểu pháp-tánh như vậy

Thời thấy Lô-Xá-Na.

Vì do tiền-ngũ-uẩn

Có hậu-uẩn tương-tục

Rõ biết nơi tánh này

Thấy Phật khó nghĩ bàn.

Ví như báu trong tối

Không đèn thời chẳng thấy

Phật-pháp không người nói

Dầu huệ chẳng biết được.

Cũng như mắt bị lòa

Chẳng thấy màu xinh đẹp

Như vậy tâm bất-tịnh

Chẳng thấy các phật-pháp.

Lại như mặt trời sáng

Kẻ mù không thấy được

Tâm không có trí-huệ

Trọn chẳng thấy chư Phật.

Nếu chữa hết bịnh lòa

Bỏ lìa lòng tưởng sắc

Chẳng thấy nơi các pháp

Thời thấy được Như-Lai.

Nhứt-Thiết-Huệ đã nói

Chư Phật Bồ-Ðề pháp

Tôi nghe lời ngài nói

Ðược thấy Lô-Xá-Na.

Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Các pháp không chơn-thật

Vọng chấp là chơn-thật

Cho nên các phàm-phu

Luân-hồi ngục sanh-tử.

Nơi ngôn từ thuyết pháp

Tiểu trí vọng phân-biệt

Vì thế sanh chướng-ngại

Chẳng rõ được tự-tâm.

Chẳng rõ được tự-tâm

Ðâu biết được chánh-đạo

Họ do huệ điên-đảo

Thêm lớn mọi điều ác.

Chẳng thấy các pháp không

Hằng thọ khổ sanh-tử

Người này chưa có được

Pháp-nhãn thanh-tịnh vậy.

Xưa kia tôi thọ khổ

Vì tôi chẳng thấy Phật,

Nên phải tịnh pháp-nhãn

Xem kia chỗ đáng thấy.

Nếu được thấy nơi Phật

Thời tâm không chấp lấy

Người này thời thấy được

Pháp của Phật đã biết.

Nếu thấy Phật chơn-pháp

Thời gọi bực đại-trí

Người này có tịnh-nhãn

Hay quan-sát thế-gian.

Không thấy chính là thấy

Hay thấy tất cả pháp

Nơi pháp nếu có thấy

Ðây thời là không thấy.

Tất cả các pháp-tánh

Không sanh cũng không diệt

Lạ thay đấng Ðạo-Sư

Tự-giác hay giác-tha.

Ngài Thắng-Huệ đã nói

Pháp của Như-Lai ngộ

Chúng tôi nghe Ngài nói

Biết được Phật chơn-tánh.

Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu trụ nơi phân-biệt

Thời hư thanh-tịnh nhãn

Thêm ngu-si, tà-kiến

Trọn chẳng thấy được Phật.

Nếu rõ được tà-pháp

Như thiệt chẳng điên-đảo,

Biết vọng vốn tự chơn

Thấy Phật thời thanh-tịnh.

Có thấy, thời là nhơ

Ðây thời chưa phải thấy

Xa lìa các kiến chấp

Như vậy mới thấy Phật.

Pháp ngôn-ngữ thế-gian

Chúng-sanh vọng phân-biệt

Biết thế đều vô-sanh

Mới là thấy thế-gian.

Nếu thấy 'thấy thế-gian'

'Thấy' là tướng thế-gian

Như thiệt đồng không khác

Ðây gọi người chơn-kiến.

Nếu thấy đồng không khác

Nơi vật chẳng phân-biệt

Thấy này lìa phiền-não

Vô-lậu được tự-tại.

Chỗ chư Phật khai thị

Tất cả pháp phân-biệt

Ðây đều chẳng thể được

Vì pháp-tánh thanh-tịnh.

Pháp-tánh vốn thanh-tịnh

Vô-tướng như hư-không

Tất cả không năng thuyết

Người trí quán như vậy.

Xa lìa nơi pháp-tưởng

Chẳng thích tất cả pháp

Ðây cũng không chỗ tu

Thấy được Ðại-Mâu-Ni.

Như ngài Ðức-Huệ nói

Ðây gọi là thấy Phật;

Chỗ có tất cả hạnh

Thể-tánh đều tịch-diệt.

Lúc đó Thiện-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Hi-hữu đại dũng-kiện

Vô-lượng chư Như-Lai

Ly-cấu tâm giải-thoát

Tự độ hay độ người.

Tôi thấy Thế-gian-Ðăng

Như thật chẳng điên-đảo

Như trong vô-lượng kiếp

Bực đủ trí chỗ thấy.

Tất cả hạnh phàm-phu

Ðều mau về diệt tận

Tánh nó như hư-không

Nên nói là vô-tận.

Người trí nói vô-tận

Ðây cũng không chỗ nói.

Vì tự-tánh vô-tận

Ðược có nan-tư tận.

Trong chỗ nói vô-tận

Không chúng-sanh được có

Biết chúng-tánh như vậy

Thời thấy Ðại-Danh-Xưng.

Không thấy nói là thấy

Vô-sanh nói chúng-sanh

Hoặc thấy, hoặc chúng-sanh

Rõ biết không thể-tánh.

Năng-kiến cùng sở-kiến

Kiến-giả đều khiển trừ,

Chẳng hoại nơi chơn-pháp

Người này rõ biết Phật.

Nếu người rõ biết Phật

Và pháp của Phật nói

Thời hay chiếu thế-gian

Như Phật Lô-Giá-Na.

Chánh-giác khéo khai thị

Ðạo một pháp thanh-tịnh,

Ðại-Sĩ tinh-tấn huệ

Diễn nói vô-lượng pháp.

Hoặc có hoặc không có

Tưởng niệm này đều trừ

Như thế thấy được Phật

An-trụ nơi thiệt-tế.

Lúc đó Trí-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Tôi nghe pháp tối-thắng

Liền sanh trí-huệ quang

Chiếu khắp mười-phương cõi

Ðều thấy tất cả Phật.

Trong đây không chút vật

Chỉ có danh-tự giả

Nếu chấp có ngã nhơn

Thời là vào đường hiểm.

Những phàm-phu chấp trước

Chấp thân là thiệt có

Phật chẳng phải sở-thủ

Họ trọn chẳng thấy được.

Người này không huệ-nhãn

Chẳng thể thấy được Phật

Ở trong vô-lượng kiếp

Lưu chuyển biển sanh-tử.

Hữu-tránh nói sanh-tử

Vô-tránh là niết-bàn

Sanh-tử và niết-bàn

Cả hai chẳng nói được.

Nếu theo danh-tự giả

Chấp lấy hai pháp này

Người này không đúng thật

Chẳng biết Phật diệu-đạo.

Nếu móng tưởng như vầy :

'Ðây Phật, đây tối-thắng'

Ðiên-đảo chẳng phải thật

Chẳng thấy được Chánh-giác.

Biết được thật thể này

Tướng chơn-như tịch-diệt

Thời thấy đấng Chánh-Giác

Vượt khỏi đường ngữ-ngôn.

Ngôn ngữ nói các pháp

Chẳng hiển được thiệt-tướng

Bình-đẳng mới thấy được

Như pháp, Phật cũng vậy.

Thời quá-khứ chư Phật

Vị-lai và hiện-tại

Dứt hẳn gốc phân-biệt

Thế nên gọi là Phật.

Chơn-Thật-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Thà thọ khổ địa-ngục

Ðược nghe hồng-danh Phật

Chẳng thích vô-lượng vui

Mà chẳng nghe danh Phật.

Sở-dĩ nơi thời xưa

Chịu khổ vô-số kiếp

Lưu chuyển trong sanh-tử

Vì chẳng nghe danh Phật.

Với pháp chẳng điên-đảo

hiện chứng như thật

Lìa các tướng hòa hiệp

Gọi là Vô-Thượng-Giác.

Hiện chẳng phải hòa hiệp

Khứ, lai cũng như vậy

Tất cả pháp vô-tướng

Ðây là chơn-thể Phật.

Nếu quán được như vậy

Các pháp nghĩa thậm-thâm

Thời thấy tướng chơn thật

Pháp-thân của chư Phật.

Nơi thật thấy chơn-thật

Chẳng thật thấy chẳng thật

Hiểu rốt ráo như vậy

Cho nên gọi là Phật.

Phật-pháp chẳng giác được

Rõ đây gọi 'giác pháp'

Chư Phật tu như vậy

Một pháp bất-khả-đắc.

Biết do một nên nhiều

Biết do nhiều nên một

Các pháp không chỗ tựa

Chỉ do hòa hiệp khởi.

Không năng-tác, sở-tác

Chỉ từ nghiệp tưởng sanh

Tại sao biết như vậy

Vì khác đây không có.

Tất cả pháp vô-trụ

Ðịnh-xứ bất-khả-đắc

Chư Phật trụ nơi đây

Rốt ráo không dao động.

Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Ðấng đại-thừa vô-thượng

Xa lìa tưởng chúng-sanh

Không có ai hơn được

Nên hiệu là Vô-Thượng.

Chỗ chư Phật đã được

Vô-tác, vô-phân-biệt

Thô-thần-thông vô-sở-hữu

Vi-tế cũng như vậy.

Cảnh chư Phật sở-hành

Trong đó không có số

Là chơn-pháp của Phật.

Như-Lai quang chiếu khắp

Diệt trừ những tối-tăm

Quang này chẳng có chiếu

Cũng chẳng phải không chiếu.

Nơi pháp không chỗ chấp

Không niệm cũng không nhiễm

Không trụ không xứ sở

Chẳng hoại nơi pháp-tánh.

Trong đây không có hai

Cũng lại không có một

Bực đại-trí thấy đúng

Kheó an-trụ thật lý.

Trong không, không có hai

Không hai cũng như vậy

Tam-giới tất cả không

Là chỗ thấy chư Phật.

Phàm-phu không hay biết

Phật khiến trụ chánh-pháp

Các pháp vô-sở-trụ

Ngộ đây thấy tự thân.

Chẳng thân mà nói thân

Chẳng khởi mà hiện khởi

Không thân cũng không thấy

Là Phật-thân vô-thượng.

Như ngài Thật-Huệ nói

Chư Phật diệu pháp-tánh

Nếu người nghe pháp này

Sẽ được thanh-tịnh-nhãn.

Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Vĩ-đại ! quang-minh lớn

Bực vô-thượng dũng kiện

Vì lợi ích quần-sanh

xuất hiện thế-gian.

Phật dùng tâm đại-bi

Quan-sát khắp chúng-sanh

Thấy ở trong ba cõi

Luân-hồi thọ nhiều khổ.

Chỉ trừ đấng Chánh-Giác

Ðấng Ðạo-Sư đủ sức

Tất cả các Trời Người

Không ai cứu hộ được.

Nếu chư Phật Bồ-Tát

Chẳng xuất hiện thế-gian

Thời không một chúng-sanh

Có thể được an-lạc.

Như-Lai đẳng-chánh-giác

Và các chúng Thánh Hiền

Xuất hiện ở thế-gian

Cho chúng-sanh được vui.

Nếu ai thấy Như-Lai

Vì được lợi hành lớn

Nghe hiệu Phật sanh tin

Thời là tháp thế-gian.

Chúng tôi thấy Như-Lai

Vì được lợi ích lớn

Nghe diệu-pháp như vậy

Ðều sẽ thành Phật-đạo.

Chư Bồ-Tát quá-khứ

Do thần-lực của Phật

Ðược huệ-nhãn thanh-tịnh

Rõ cảnh-giới chư Phật.

Nay thấy Lô-Xá-Na

Càng thêm thanh-tịnh-tính

Phật-trí không ngằn mé

Diễn thuyết chẳng thể hết.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy

Và tôi Kiên-Cố-Huệ

Trong vô-số ức kiếp

Cũng nói chẳng thể hết.

 

************************

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19885)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29011)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20721)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19472)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30552)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36478)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33281)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35615)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21021)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25295)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25825)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31296)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18588)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25174)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23805)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28974)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20902)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31468)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25581)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29752)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22551)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25754)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23316)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25772)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23771)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40635)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23371)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22493)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22116)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23529)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23306)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24351)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41142)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19021)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20517)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27749)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38158)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34098)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24038)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29241)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60197)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27647)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68784)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24559)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24522)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22748)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26395)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26579)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20849)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20096)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27596)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46501)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53609)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23646)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21129)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25626)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29300)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant