Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5: Thức Xoa Ma Ni

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8492)
Chương 5: Thức Xoa Ma Ni

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ năm: Sa Di Thập GiớiThức Xoa Lục Pháp
Chương 5: Thức Xoa Ma Ni

I.  TẠI SAO GỌI LÀ THỨC XOA MA NI?

Thức xoa ma ni là dịch âm của Phạn văn Siksamànà. Trung Quốc có nhiều cách dịch, như Thức xoa, Thức xoa ma na, Thức xoa ma na ni, Thức xoa ma ni, cũng đều chỉ cho một tên gọi này. Về ý nghĩa của nó, cựu dịchHọc pháp nữ, tân dịch là Chánh học nữ.

Đây là Phật chế người nữ xuất gia phải trải qua quá trình Thức xoa ma ni này trước khi thành Tỳ kheo ni. Nhưng Thức xoa ma ni đã bị Phật giáo Trung Quốc từ lâu bỏ quên. Vì thế, thời gian gần đây đa số Phật giáo đồ đối với ý nghĩa của Thức xoa ma ni đã không hiểu, lại còn có hiểu lầm nữa. Có người cho rằng người nữ từ bé để tóc tu hành ở trong chùa là Thức xoa ma ni. Kỳ thật không đúng, người nữ chưa cạo tóc, chưa đổi trang phục chỉ là một lọai cư sĩ. Cư sĩ phân làm bốn thứ nam nữ tại gia và tại chùa. Nam nữ tại gia gọi là cận sự nam, cận sự nữ. Nam nữ cư sĩ tại chùa gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ. Vì thế, trinh nữ để tóc tu hành tại chùa là một lọai cận trụ nữ. Họ chỉ là một trong bốn chúng cư sĩ chưa tiện nhập vào giai đọan của thân phận năm chúng xuất gia. Trung Quốc hiện có những người nữ ở trong chùa vẫn để tóc mặc đồ thế tục tự cho mình là người xuất gia, đó là do họ chẳng hiểu luật chế của Phật. Thật ra, họ vẫn còn là thân phận của người thế tục. Nước Thái Lan thuộc Nam truyền Phật giáo hiện tại không có phái nữ xuất gia, nhưng vẫn cho người nữ cạo tóc đắp mạn y ở trong tự viện tu hành, họ không có địa vị ở trong người xuất gia , vẫn y như cũ là thân phận người thế tục . Nhưng họ có thể cạo tóc đắp mạn y, hình tướng đã đồng Sa di ni .Điều này so với người Trung Quốctự viện không cạo tóc cũng không đổi trang phục lại tự xưng là người xuất gia, thật là hiện tượng đáng được kính phục, đáng được noi theo.

Thức xoa ma ni là quá trình phải trải qua giữa Sa di niTỳ kheo ni. Người nữ xuất gia nếu trước không trải qua hai giai đoạn Sa di niThức xoa ma ni thì không thể tiến vào địa vị Tỳ kheo ni. Người nam xuất gia chỉ có hai giai đọan Sa diTỳ kheo. Người nữ xuất gia nhiều hơn người nam một giai đọan Thức xoa ma ni. Đây chẳng phải Đức Phật kỳ thị phái nữ hoăc thiên vị phái nam, chính vì do sự cần thiết của sự thật, phải thêm một giai đọan Thức xoa.

Người nữ xuất gia thuở ban đầuy cứ vào Bát kỉnh pháp thành Tỳ kheo ni, không trải qua Sa di ni , cũng không có Thức xoa ma ni. Về sau, người nữ xuất gia dần dần đông, phần tử phức tạp, trình độ bất nhất; có những người nữ xuất gia không bao lâu lại độ người khác xuất gia; do đó, vấn đề của thầy trò và yêu cầu của thầy trò phát sinh, vì thế, tối thiểu phải 2 năm giới lạp và thông hiểu giới luật mới có thể làm thầy độ ni. Có những Tỳ kheo ni độ người nữ tại tục xuất gia, một khi xuất gia liền cho thọ Tỳ kheo ni giới thành Tỳ kheo ni. Nhưng sau đó không được bao nhiêu ngày, người nữ ấy không quen với sinh họat xuất gia lại tự động hoàn tục một cách nhanh chóng. Do đó, yêu cầu kỳ hạn của quá trình xuất gia cũng phát sinh, vì thế cũng cần phải thọ Sa di giới. Lại có Tỳ kheo ni độ người nữ xuất gia nhưng chưa biết họ đã kết hôn hay chưa, không biết có mang thai hay không, sau khi họ xuất gia thành Tỳ kheo ni rồi lại có người bụng to ra mà sinh em bé, khiến cho người đời phỉ báng cho rằng Tỳ kheo ni phạm giới dâm. Do đó, Đức Phật phải thêm một giai đoạn Thức xoa cho người nữ xuất gia.

Giai đoạn của Sa di ni không bị thời gian hạn chế. Giai đoạn của Thức xoa ma ni hạn kỳ 2 năm vì trong thời gian 2 năm này: Một là rèn luyện tính tình của người nữ cho họ quen dần với sinh họat xuất gia. Hai là dùng để quan sát sinh lý của người nữ xem có thọ thai hay không. Có người cho rằng dùng thời gian 2 năm để quan sát người nữ có thai hay không dường như quá dài. Kỳ thật nói 2 năm, chứ trong Tăng Kỳ Luật quyển 39 nói: “Hai năm là 2 mùa mưa”, nghĩa là nói từ đầu mùa mưa năm nay đến cuối mùa mưa sang năm. Ở Trung Quốc, có thể giải là qua 2 cái tết chứ chẳng phải tròn đủ 2 năm. Tỷ như từ ngày 30 tháng chạp năm nay đến ngày mùng một tháng giêng sang năm; kể là 2 năm kỳ thật chỉ là 1 năm lẻ 2 ngày mà thôi, dùng thời hạn như thế để kiểm tra người nữ có thai hay không, đó chẳng phải là việc thích đáng sao? Đương nhiên, nếu dùng dụng cụ khoa học của ngày nay kiểm nghiệm đâu cần phải qua thời gian dài như thế. Duy nhìn về phương diện làm cho người nữ quen dần với sinh hoạt xuất gia, giai đoạn 2 năm Thức xoa vẫn là cần thiết, như trong Tứ Phần Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Lục của đại sư Hoằng Nhất nói:”Lục pháp tịnh tâm, hai năm tịnh thân. Trước là thử xem cái duyên thọ Đại giới, sau là để biết có thai hay không?”

II. TUỔI CỦA THỨC XOA MA NI

Về tuổi của Thức xoa ma ni, các bộ Quảng Luật biên chép đại khái đồng nhau, ước lược có thêm bớt. Trong Tứ Phần Luật quyển 48 nói :”Cho đồng nữ 18 tuổi, 2 năm học giới; tuổi dù 20 ở trong Tỳ kheo ni tăng thọ Đại giới. Nếu 10 tuổi đã từng lấy chồng, cho 2 năm học giới đủ 12 tuổi cho thọ đại giới. Đây là nói với người nữ chưa có chồng, 18 tuổi xuất gia thọ Sa di ni thập giới rồi tiếp theo trải qua giai đoạn 2 năm. Thức xoa ma ni để tiện học tập giới luật trọng yếu của sinh hoạt xuất gia, đến khi đủ 20 tuổi thọ Tỳ kheo ni giới hoàn thành giai đọan cao nhất của người nữ xuất gia. Nếu thiếu phụ 10 tuổi đã có chồng (người nữ ở Ấn Đô phát dục rất sớm, trên dưới 10 tuổi cưới gả, không phải là chuyện lạ ít có) cũng chỉ trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa, người này đến 12 tuổi được thọ giới Tỳ kheo ni trở thành Tỳ kheo ni. Người nữ so với người nam chống trưởng thành hơn, tuy là thiếu phụ tuổi 12, thể chấttrí năng của họ có thể bằng với nam thành niên 20 tuổi. Vì thế trong luật cho người nữ đã từng lấy chồng đến 12 tuổi được thọ Tỳ kheo ni giới chứ chưa từng có ghi cho người nam dưới 20 tuổi được thọ Tỳ kheo giới.

Trong những Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí sô Tỳ nại da quyển 18 ghi chép có chút bất đồng. Phật nói :”Nếu người nữ… tuổi đủ 12 hoặc 18 phải cho 2 năm Chánh học pháp mới truyền Cận viên (Tỳ kheo ni )”. Chỗ này nói 12 là bắt đầu 12 tuổi phải học pháp Thức xoa ma ni 2 năm, đến khi 14 tuổi mới thọ Tỳ kheo ni giới. Đây cùng với sự quy định của Tứ Phần Luật nói từ 10 tuổi, trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa, đến 12 tuổi thọ Tỳ kheo ni giới, sai biệt nhau 2 năm ! Rốt cuộc sự ghi chép nào đúng hơn; cũng khó biết! Tôi nghĩ ở Ấn Độ thường sử dụng sự ghi chép của Luật Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ vẫn còn bị coi là quá sớm, vì người nữ Trung Quốc 12 tuổi lấy chồng là điều ít thấy.

Sự ghi chép của Luận Tát Bà Đa đồng với Tứ Phần Luật:”Tuổi 12 được thọ Cụ túc giới, vì quen chịu nhà chồng sai khiến, nên chịu đựng nổi cái khổ của sinh hoạt xuất gia”.

Sự ghi chép của Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 đồng với Luật Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, nếu người nữ 10 tuổi đã có chồng, độ cho xuất gia thọ Sa di giới, sau khi đủ 2 năm được thọ Thức xoa ma ni giới, sau khi mãn 2 năm được thọ Cụ túc giới.

Còn có một vấn đề là trong luật chỉ nói người nữ đã có chồng hoặc chưa có chồng, từ 18 tuổi về trước, nếu muốn xuất gia trước phải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa ma ni, chứ chưa nói đến người nữ từ 20 trở lên xuất gia phải như thế nào? Căn cứ vào lý suy ra người nữ từ trên 20 tuổi đến dưới 58 tuổi, nếu đến trong Phật giáo cầu độ xuất gia cũng đều trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa. Bằng không thì hai vấn đề: Tập cho quen sinh họat xuất gia và xem có thai hay không, vẫn y nhiên tồn tại.

III. NHỮNG GÌ LÀ PHÁP THỨC XOA MA NI?

Thứ bậc của Thức xoa ma ni tuy ở trên Sa diSa di ni, nhưng giới phẩm của họ vẫn là Sa di ni giới. Tuy ở trong Ni tăng bạch nhị yết ma (ở trong Ni tăng đòan trước báo cáo một lần, rồi tuyên bố hai phen để trưng cầu đồng ý, gọi là nhất bạch nhị yết ma, gọi tắt là bạch nhị yết ma) truyền cho lục pháp, nhưng không có giới thể riêng để đắc. Vì thế, trong Nghiệp Sớ nói: “Học pháp nữ này không có giới luật, chỉ thọ biệt giáo thứ bậc hơn Sa di ni”. Nhân vì thọ Lục pháp nên thứ bậc hơn Sa di ni. Trong các thứ bậc của giới, đây là thứ bậc rất đặc thù, các thứ bậc giới khác đều có giới thể để đắc, duy có một thứ bậc này chỉ được thêm lục pháp mà thôi. Lục pháp này được gọi là pháp Thức xoa ma ni.

Những gì là pháp Thức xoa ma ni? Trừ nghiêm trì Sa di thập giới ra, còn có thêm lục pháp là:

1. Cùng với thân người nam (từ mí tóc trở xuống đầu gối trở lên) có tâm nhiễm ô xúc chạm người nam thành niên và biết người ấy đối với mình có tâm nhiễm ô.

2. Trộm của người 4 tiền trở xuống: Trị giá 4 tiền trở xuống cho đến một cây kim ngọn cỏ.

3. Cố giết mạng súc sinh: Cố ý giết hại dị loại chúng sinh khiến cho nó chết.

4. Tiểu vọng ngữ: Nói trái lại với điều mình thấy, nghe, hay, biết.

5. Ăn phi thời: Bóng mặt trời quá giữa ngọ mà ăn.

6. Uống rượu: Cho đến một giọt dính vào môi

Thức xoa ma ni phạm 4 giới trước của Sa di thập giới (4 tội căn bản) bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn (diệt tẩn). Phạm bất cứ một pháp nào trong lục pháp đã nêu trên phải bạch nhị yết ma lại và thọ lại lục pháp 2 năm. Nếu phạm các giới khác, chỉ gọi là khuyết hạnh, hối cải liền trừ.

Trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí sô Tỳ nại da quyển 8 có quy định về lục pháp hoặc lục tùy pháp của Thức xoa ma ni, nội dung cùng với Tứ Phần Luật quy định có hơi bất đồng. Nay chép lại như sau:

A. Lục pháp

1. Không được đi đường một mình

2. Không được qua sông một mình

3. Không được chạm vào thân người nam

4. Không được ở chung với người nam

5. Không được làm mai mối cưới gả

6. Không được che giấu Tỳ kheo ni phạm tội trọng

B. Lục tùy pháp

1. Không được cầm vàng bạc thuộc về của mình.

2. Không được cạo lông chỗ kín (dưới nách và đường tiểu tiện).

3. Không được đào đất chỗ ẩm thấp hay sinh cỏ cây.

4. Không được cố ý nhổ cỏ chặt cây.

5. Không được do người đưa mà tự mình lấy thức ăn để ăn.

6. Không được ăn đồ ăn đã xúc chạm.

Trong Tăng Kỳ Luật quyển 39 nói:” Thức xoa ma ni 2 năm phải tùy thuận học 18 việc”. Nhưng trong Tăng Kỳ Luật chưa liệt kê lục pháp và cũng chưa liệt kê lục tùy pháp. Muời tám việc là:”Ăn uống dưới tất cả Tỳ kheo ni, trên tất cả Sa di ni. Đối với Thức xoa bất tịnh thực, Tỳ kheo ni tịnh. Đối với Tỳ kheo ni bất tịnh, đối với Thức xoa cũng bất tịnh. Được cùng Tỳ kheo ni ngủ đồng một phòng ba đêm, cùng Sa di ni cũng chỉ ba đêm. Được Tỳ kheo ni trao thức ăn, trừ hỏa tịnh năm thứ sanh chủng rồi, tự mình nhận thức ăn từ Sa di ni. Tỳ kheo ni không được nói với Thức xoa về Ba la đề mộc xoa (danh tự của giới ngũ thiên thất tụ) của Tỳ kheo ni, chỉ được nói không được dâm, không được trộm, không được giết người. Không được nghe trộm Bố tát, tự tứ. Đến ngày Bố tát, tự tứ, đến trước Thượng tọa, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, thưa như vầy: “Con…..thanh tịnh ức niệm trì”. Nói ba lần như vậy rồi lui ra. Bốn Ba la di sau (Tỳ kheo ni gồm có 8 Ba la di, so với Tỳ kheo ni thì còn có thêm 4 Ba la di sau) là:

1. Cùng với người nam có tâm nhiễm ô xúc chạm thân thể từ nách trở xuống, đầu gối trở lên.

2. Cùng với người nam có tâm nhiễm nắm tay nắm áo vào chỗ khuất, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện, cùng đi, thân dựa vào nhau, cùng hẹn hò.

3. Biết Tỳ kheo ni có tội trọng mà che giấu không nói cho người biết.

4. Thuận tòng cúng dường Tỳ kheo bị tăng cử tội mà không cho cộng trụ.

Nếu phạm một giới nào phải thọ lại lục pháp. Nếu phạm 19 Tăng già bà thi sa trở xuống (Tăng Kỳ Luật, Tỳ kheo ni có 19 giới Tăng tàn, Tứ Phần Luật chỉ có 17 điều ) tất cả làm pháp sám hối Đột kiết la. Nếu phá 5 giới: “Ăn phi thời, ăn vặt, thường nhận vàng bạc và tiền, uống rượu, đeo tràng hoa, tùy theo ngày phạm phải bắt đầu học giới lại”.

Chúng ta thấy trong ba bản luật dẫn ở trên đều có sự quy định bất đồng. Nhưng ở Trung Quốc chỉ hoằng dương Tứ Phần Luật, nếu lấy sự quy định của Tứ Phần Luật làm pháp thức cơ bản của Thức xoa ma ni đương nhiên thích nghi hơn. Còn sự quy định của hai bản luật kia cũng không ngại gì tham khảo tuân hành, trì được thêm một vài giới đều là đáng mừng. Điều đáng tiếc là Phật giáo Trung Quốc trước mắt không có giai đọan Thức xoa ma ni, thời xưatrải qua hay không, tôi chưa từng thấy tài liệu ghi chép. Nói theo luật chế, phái nữ xuất gia nếu trước không trải qua 2 năm Thức xoa ma ni thì không được thọ Tỳ kheo ni giới. Giả sử thọ Tỳ kheo ni giới cũng không đắc giới. Vì thế, tôi rất ước mong chị em Ni chúng đại tâmchí nguyện, có tuân thủ, có thành tín, có năng lực, phải nên vì sự trùng hưng luật thống và luật chế, nỗ lực một phen, không nên cẩu thả lười biếng để vĩnh viễn làm đồ phụ thuộc không ra gì.

Nghi thức Thức xoa ma ni bạch nhị yết ma và thọ lục pháp cũng rất đơn giản, vì hiện nay Phật giáo Trung Quốc đã chẳng tuân hành nên không cần phải ghi ra. Nếu như một mai tuân hành, tự tìm trong luật bản ra ứng dụng cũng không khó.

IV. PHÁP HỐI TỘI

Sau cùng là hối tội, pháp sám hối của tội Đột kiết la. Tội Đột kiết la gồm có hai thứ: Một là cố ý phạm, hai là vô ý phạm. Vì thế, pháp sám hối cũng có hai thứ: Một là đối trước một vị Đại đức sám hối, hai là tự hối trách tâm sám.

Người sám phải đầy đủ oai nghi hướng về một vị Đại đức quỳ gối chấp tay bạch như vầy:”Đại đức ức niệm con là…sa di (ni) cố phạm tội Đột kiết la…nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối, xin Đại đức ức niệm xót thương”. Đại đức thọ sám liền nói: “Tự trách lấy tâm ngươi”. Đáp: “Vâng”.

Tự trách tâm sám cũng nên đầy đủ oai nghi đến trước Phật đốt hương lễ bái, quỳ gối chắp tay bạch: “Con là sa di (ni)…lầm phạm Đột kiết la. Nay phát lồ sám hối không dám làm nữa”. Cũng có người cho rằng lúc tự trách tâm sám không cần ở trước Phật, tùy lúc phạm tâm liền hối lỗi cũng được.

Thức xoa ma ni trừ việc phạm lục pháp có cách xử lý riêng, ngoài ra phạm các điều khác cũng chỉ có một tội Đột kiết la, phương pháp sám hối đồng với Sa disa di ni.

Tỳ kheo không được nhờ Tỳ kheo ni làm sám chủ để hướng về Tỳ kheo ni hối tội. Tỳ kheo ni phải hướng về Thượng tọa Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo thanh tịnh đồng học đồng pháp mà hối tội. Còn Sa di địa vị dưới Tỳ kheo ni, lý đáng có thể hướng Tỳ kheo ni hối tội, nhưng Sa di là người theo Tỳ kheo và trụ ở tự viện của Tỳ kheo, nên cũng không cần phải bỏ chỗ gần đến chỗ xa hướng về Tỳ kheo ni hối tội.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15787)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11093)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53691)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13008)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16544)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15418)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19178)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19957)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15572)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15367)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15160)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20368)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23987)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15509)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13065)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20172)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13301)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29035)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11729)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18323)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16657)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13261)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12822)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13272)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13008)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12902)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13030)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13565)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11734)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17760)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22638)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13468)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14355)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105811)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14622)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19811)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38449)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15552)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34709)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16079)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11370)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15686)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14051)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12846)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12527)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19398)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27049)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13164)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13494)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21631)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17999)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21934)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14234)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16088)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16168)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19143)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant