Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Một sức sống sáng tạo

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13437)
II. Một sức sống sáng tạo

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

Ý CHỈ GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN


II. MỘT SỨC SỐNG SÁNG TẠO

Học Phật nói chung, học thiền nói riêng, là phải học cái sống, học cái linh diệu sáng ngời luôn hiện hữu, không thể học cái chết, cái đóng khung con người khiến mất đi sức sống tự tại. Chính bản hoài của đức Phật ra đời là nhằm khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, đó gọi là một nhân duyên của việc to tát nhất thế gian – đại sự nhân duyên. Song tri kiến Phật đó ở đâu mà khai thị? Rõ ràng không thể tìm nó trong sách vở, giấy mực hay văn tự chữ nghĩa, vì đó là những khuôn chết. Chính ngay buổi đầu khi Phật thành đạo, Ngài đã định nhập Niết bàn không muốn nói pháp, vì thấy chỗ đó rất khó hiểu, ngôn ngữ không thể nói đến được. Phải đợi Phạm thiên thỉnh cầu ba lần Phật mới tùy thuận hứa khả. Vậy có nói ra là Phật bất đắc dĩ, là phương tiện mà nói, không thể cho đó là chỗ cứu cánh.

Trong bài kinh Thánh Cầu thuộc kinh Trung Bộ, Phật đã tự thuật như sau: “Này các Tỳ kheo! Rồi ta suy nghĩ như sau: Pháp này do Ta chứng được thực là sâu kín khó thấy, khó chứng, tịch tĩnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới thấu hiểu.”

Trong đó Phật đã tự nói rõ, Pháp do Ngài chứng được, nó vượt ngoài lý luận, sâu kín khó thấy, không thể tìm trong văn tự chữ nghĩa. Đó là Phật ngầm nhắc trước rồi, vậy mà đệ tử sau này vẫn cứ kẹt, chỉ lo phân tích câu văn, chia chẻ ngôn cú, vạch tìm chữ nghĩa, lấy đó làm sự nghiệp.

Trước kia Thiền sư Thần Tán đã từng đánh thức vị bổn sư của mình khi vị này đang ngồi xem kinh bên cửa sổ. Lúc đó, có con ong chui đầu vào tấm giấy dán ở cửa sổ để tìm lối ra nhưng ra không được. Sư trông thấy, chợt nói:

- Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, cứ vùi đầu vào giấy cũ, biết năm nào mới ra được!

Sư liền nói bài kệ:

Cửa không chẳng chịu ra

Quá ngu chui cửa sổ

Trăm năm dùi giấy cũ

Ngày nào mới được qua?

Xem kinh mà không sáng được ý kinh là đang vùi đầu vào giấy cũ, vào ý nghĩa chết mà Phật đã nói hơn hai ngàn năm rồi. Cần nhận rõ: Ánh sáng chân thật đang phóng qua sáu cửa, chiếu khắp mọi nơi, mọi lúc, giấy mực đâu thể ghi được ánh sáng này. Kìa, ngay khi xem kinh thì cái gì đang rọi vào quyển kinh đó? Cái gì đang lật từng trang, từng trang kia? Thấy lại điểm sáng này mới là then chốt. Chỗ này phải có một sức sống sáng tạo, vươn lên mới cảm thông được với Phật Tổ.

Trong kinh Kim Cang, khi Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi tên kinh, Phật đáp: “Kinh này tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.” Song vừa nói tên kinh xong Phật liền bảo: “Nói Bát Nhã Ba La Mật tức chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật.” Tại sao lạ vậy? Thông thường giáo lýthế gian, vị chủ xướng nói ra thì phải bảo xem đây là khuôn vàng thước ngọc, là lời thánh thiêng liêng, không được đụng đến, không được phủ nhận. Trái lại ở đây, Phật vừa nói xong liền phủi ngay, vậy nói làm gì? Nhưng đó mới là chỉ lẽ thật. Bởi cái tên Kim Cang Bát Nhã đó đâu phải là bản thân Bát Nhã thật. Phải nhảy qua cái tên đó, thấy lại nơi chính mình, mở mang trí tuệ nơi tâm mình, mới cảm được ánh sáng Kim Cang Bát Nhã chân thật. Lời thánh thiêng liêngthiêng liêng ở chỗ đó, đâu phải thiêng liêng ở những trang, những hàng chữ kia. Nhà Thiền nói “giáo ngoại biệt truyền” chính là ý này! Như Tổ Lâm Tế từng bảo: “Như 12 phần giáo đều là lời nói biểu hiện bên ngoài, người học chẳng lãnh hội, liền nhằm trên những câu nói biểu hiện bên ngoài sanh hiểu, đều là nương tựa, rơi vào nhân quả, chưa khỏi sanh tử trong ba cõi. Nếu ông muốn sống chết đi ở thong dong tự tại thì ngay đây hãy nhận rõ “người nghe pháp” không hình không tướng, không gốc không rễ, không chỗ trụ, tự nhiên sống động, ứng ra có muôn thứ phương cách hành động, chỗ dùng chỉ là không chỗ.”

Rõ ràng ngay hiện tiền đây, ai cũng có sẵn “người đang nghe” ấy. Người này không có trong sách vở, kinh điển, giấy mực, không có gì ghi chép được nó, mà nó luôn có mặt với chúng ta. Đó mới là bộ kinh sống, là lời Phật sống. Nhưng chú ý: Nó ứng ra muôn thứ hành động song chỗ dùng chỉ là ‘không chỗ’. Sao gọi là chỗ dùng chỉ là không chỗ? Vì nó ứng dụng ra tất cả mà không ở một chỗ nào, không trụ vào đâu hết nên nó vẫn nguyên vẹn là nó, vẫn luôn hiện tiền không mê. Nếu vừa có chỗ tức liền vắng mặt ngay chỗ đó!

Vì nhận được chỗ này nên thiền luôn luôn sáng tạo, không bắt chước theo lối mòn, không đạp theo dấu cũ đã chết.

Chẳng hạn về TÁNH THẤY. Kinh Pháp Hoa khai thị tri kiến Phật qua tánh thấy bằng hình ảnh Phật phóng quang giữa chân mày soi suốt đến các cõi ở phương đông, trên thấu trời sắc cứu cánh, dưới thấu cả địa ngục, nhưng chỉ người trong pháp hội thấy thôi, người ngoài không thấy được.

Trong nhà Thiền, thì Thiền sư Thiện Đạo một hôm thượng đường cầm cây gậy chỉ và nói: “Chư Phật quá khứ thì cũng chỉ thế ấy!” ‘Chư Phật quá khứ cũng chỉ thế ấy’ là ở cây gậy sao? Ở kinh Pháp Hoa thì phóng quang, ở đây thì cầm gậy chỉ, có gì khác? Song chính khi cầm gậy chỉ đó, tức đã phóng quang soi đến tròng mắt của mỗi người đang có mặt rồi! Chỗ này người ngoài cuộc làm sao thấy được? Phải mở con mắt thiền thôi.

Hoặc kinh Lăng Nghiêm, Phật giơ tay xòe nắm, phóng ánh sáng qua bên phải bên trái A Nan để khai thị tánh thấy. Thiền sư thì giơ phất tử, chỉ lồng đèn, giơ ngón tay, đâu bắt buộc phải y khuôn phóng hào quang mới được.

Như có vị tăng hỏi Hòa thượng Càn Phong:

- Mười phương Bạc già phạm đều đồng một con đường Niết bàn, thế nào là đầu đường?

Sư lấy cây gậy vạch một đường trong hư không, bảo:

- Đây này!

Vậy ngay khi vạch đường gậy đó, có phóng quang chăng? Phải thấy hào quang đó, nó không thuộc tướng xanh, vàng, đỏ, trắng. Chỗ này vốn vượt ngoài chữ nghĩa, không thể suy nghĩ bắt chước.

Về TÁNH NGHE, như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo La Hầu La đánh chuông khai thị cho A Nan: “Tiếng có, tiếng không, tánh nghe vẫn thường trụ.”

Thiền sư thì gọi dạ vẫn đánh thức cho người.

Như bà già đến Thiền sư Đại Đồng thưa:

- Nhà tôi vừa mất trâu, thỉnh thầy bói cho một quẻ xem!

Sư gọi:

- Bà lão!

Bà ứng:

- Dạ!

Sư bảo:

- Đây rồi!

Bà liền vui vẻ ra về, nhận rõ trâu chẳng mất đi đâu. Trâu mất là do theo tiếng mà quên mình. Nghe gọi liền dạ, thì trâu vẫn sẵn đó, rất là ngoan!

Hoặc có vị tăng đến hỏi Hòa thượng Huyền Sa:

- Học nhân mới vào tòng lâm, xin thầy chỉ cho đường vào!

Sư bảo:

- Ông có nghe tiếng nước khe Yển chảy chăng?

Tăng thưa:

- Dạ nghe.

Sư bảo:

- Từ trong ấy mà vào.

Rõ ràng cũng ý đó nhưng Thiền sư dùng rất sáng tạo, đâu cố định phải đánh chuông mới được. Tôn giả A Nan từ tiếng chuông mà vào, thì ở đây ông tăng từ tiếng nước khe mà vào. Bởi then chốt là ở ngay người đang có mặt, không phải ở tiếng chuông hay tiếng nước.

Bởi vậy đối trong nhà Thiền, không thể bắt chước theo lối mòn của người mà phải có chỗ sống chân thật. Bắt chước để nuôi dưỡng tập khí của mình, đó là bệnh không phải thiền.

Như trường hợp hai huynh đệ Tarzan và Ekido đang đi đến ngã quẹo trên con đường lầy lội sau cơn mưa, hai người gặp cô gái xinh xắn trong chiếc áo kimono đứng tần ngần trước khoảng đường lầy. Tarzan không nghĩ ngợi bảo ngay:

- Đi thôi này cô bé!

Tarzan đưa tay nhấc bổng cô gái đưa qua quãng đường lầy.

Từ đó về đến chùa Ekido không buồn nói chuyện một tiếng. Đến chùa Ekido chịu hết nỗi bèn nói với Tarzan:

- Chúng ta là người tu hành, không được gần người nữ, sao sư huynh lại làm như vậy?

Tarzan cười bảo:

- À, tôi đã bỏ cô ấy xuống bên đường đó rồi, còn anh anh mang về tới đây sao?

Giờ đây người học thiền đọc qua chuyện này thấy thích thú rồi cũng bắt chước làm lại để tỏ ra mình là người tự tại, không ngờ chính đó là đã rơi vào cái khuôn của người xưa. Có người đã làm rồi, nay làm lại là đã bắt chước, trong đó chỉ ngầm biểu lộ cái ta, cho thấy ta là người đạt lý thiền sâu xa, tự tại nhưng ở mặt tráiche đậy tâm phóng túng của mình. Như vậy tức đã lộ bản ngã trong đó, lại lầm cho là thiền. Rất nguy! Phải biết chúng ta học ở đó là học yếu nghĩa: Qua rồi liền thôi, không mang theo mãi trong lòng để chịu khổ. Làm rồi không để lại dấu vết trong tâm. Chứ không phải bắt chước y khuôn ở hình tướng.

Người học thiền từng đọc chuyện Thiền sư Thiên Nhiên ở Đơn Hà, thấy đoạn Sư đến chùa Huệ Lâm gặp lúc trời rét, Sư bèn thỉnh tượng Phật bằng gỗ xuống đem đốt để sưởi ấm. Viện chủ Hướng thấy vậy liền quở trách:

- Sao đốt tượng Phật của tôi?

Sư lấy gậy bới tro nói:

- Tôi đốt để lấy xá lợi.

Viện chủ bảo:

- Phật gỗ làm gì có xá lợi?

Sư nói:

- Nếu như thế sao ông lại trách tôi?

Ngay đó Viện chủ rụng lông mày. Sau có bài kệ:

Đơn Hà đốt Phật gỗ

Viện chủ rụng lông mày.

Giờ đây cũng bắt chước thỉnh tượng Phật đem đốt, hoặc bảo là tượng gỗ, tượng đá rồi khinh thường không lễ lạy, là mang họa! Đã có người làm rồi, mình làm lại là thừa, hơn nữa trở thành ngã mạn tội lỗi mà không hay biết thì càng đọa sâu. Khó cứu!

Trên đây là ngài Đơn Hà đánh thức ông Viện chủ, khiến ông vượt qua những phương tiện bên ngoài, thấy lại Phật sống ngay chính mình. Người học thiền cốt đạt được ý sống đó, chớ bắt chước theo việc làm e thành lố bịch.

Để rõ thêm ý này, chúng ta đọc kỹ câu chuyện sau đây:

Trong hội chúng của Thiền sư Bạch Ẩn, có một tăng điên nghĩ rằng mình đã chứng đạt nhất tính với Phật. Ông xé kinh sách và dùng làm giấy vệ sinh. Những thầy khác bắt ông phải sám hối nhưng ông không chịu nghe, còn ngạo nghễ vặn lại:

- Có lỗi gì khi dùng kinh Phật chùi đít Phật?

Có người mách việc này với Bạch Ẩn. Ngài bèn hỏi ông ta:

- Người ta nói anh dùng giấy kinh để đi cầu, phải không?

- Vâng! Chính tôi là Phật. Có lỗi gì khi dùng giấy Phật lau đít Phật?

Bạch Ẩn bảo:

- Anh lầm rồi! Nếu là đít Phật tại sao dùng giấy cũ đã viết rồi? Anh phải chùi bằng giấy trắng sạch.

Vị tăng điên xấu hổsám hối.

Câu nói của ông tăng điên “kinh Phật chùi đít Phật”, mới nghe qua tưởng chừng như phải, song với người mắt sáng thấy rõ chỉ là người nói rỗng. Đã là đít Phật thì phải dùng giấy trắng sạch, tức là thấy thấu trước khi nói năng phân biệt, chưa rơi vào chữ nghĩa thì mới khế hợp. Còn ở đây ông bắt chước theo lối mòn cũ rích, tâm ông còn phàm phu thì đít ông là đít chúng sanh chứ đít Phật gì? Đây là gạt người thôi! Bởi vậy người học thiền phải thật sự mở sáng mắt tâm, tự có sức sống chân thật rõ ràng mới không lầm lẫn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19704)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23964)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41221)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19698)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23994)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23313)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27508)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20200)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25782)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20916)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31322)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38580)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21445)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29834)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42219)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45769)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23961)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29282)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33921)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27684)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28855)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21586)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19471)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19837)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19251)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29189)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28304)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33190)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21378)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39630)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21552)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19381)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26399)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24832)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29136)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22560)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23519)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35329)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant