Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13762)
II. Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TU THIỀNCHỨNG ĐẮC HAY KHÔNG?

II. TU CHỨNG TỨC CHẲNG KHÔNG, NHIỄM Ô CHẲNG THỂ ĐƯỢC

Để rõ việc chứng đắc, chúng ta nghe câu chuyện ngài Hoài Nhượng đến tham vấn Lục Tổ liền sáng tỏ.

Sư đến gặp Lục Tổ, Tổ hỏi:

- Ở đâu đến?

Sư thưa:

- Từ Tung Sơn đến.

Tổ hỏi:

- Vật gì thế ất đến?

Sư không đáp được. Trải qua tám năm Sư có tỉnh bèn đến Tổ thưa:

- Con có chỗ lãnh hội

Tổ hỏi:

- Lãnh hội thế nào?

Sư thưa:

- Nói giống một vật tức chẳng trúng.

Tổ gạn lại:

- Có tu chứng chăng?
Sư thưa:
- Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được.
Tổ bảo:

- Chỉ cái "chẳng nhiễm ô" này, là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.

Qua chỗ đối đáp của ngài Hoài Nhượng, cho thấy Sư đã thật sự có chỗ sống đàng hoàng, không phải chỉ hiểu trên lý suông. Xem Sư trả lời: “Nói giống một vật tức chẳng trúng” chỗ chân thật đó vốn vượt ngoài mọi sự so sánh hiểu biết của thức tình phân biệt. Có chỗ so sánh tức thành cái bị biết rồi. Song Tổ còn e rằng Sư chỉ hiểu trên lý giải thôi mà chưa có chỗ thực chứng, nên gạn lại: “Có tu chứng chăng?” nếu là người kiến giải suông sẽ đáp ngay: “Không có tu chứng.” Vì nó không giống một vẫt thì tu chứng cái gì? Song với Sư thì trả lời chắc thật: “Tu chứng tức chẳng không, nhễm ô chẳng thể được.” Nghĩa là, tuy trong ấy nói giống một vật cũng không trúng, không thể so sánh hiểu biết được, mà không phải là chỗ nói suống, chỉ có trên ngôn ngữ. Trái lại, trong đó có thể chứng nghiệm rõ ràng, người có công phu chân thật khế hợp thì tự cảm nhận không nghi ngờ. Chỉ có một điều là “nhiễm ô nó chẳng thể được", xưa nay nó vốn chưa từng bị nhiễm ô, cũng không có cái gì làm nhiễm ô được nó. Nếu làm nhiễm được nó, nó thành cái vô thường rồi! Đã nhiễm ô chẳng thể được thì nói tu chứngthực không có cái gì khác để tu, để chứng. Lời đáp rất đầy đủ cả hạnh và giải, vì vậy Lục Tổ vừa nghe qua liền ấn chứng ngay: “Chính cái chẳng nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.” Nghĩa là, ông thấy thấu được như thế, là thấu được chỗ sống của chư Phật. Chư Phật thành Phật là do giác ngộ chỗ này và sống viên mãn, trọn vẹn trong đó mà thành thôi. Rời chỗ đó thì Phật hết là Phật, nên nói là chỗ "hộ niệm", tức giữ gìn không thể sót mất. Ông đã như thế thì ta cũng như thế, tức chỗ thấy của ông khế hợp chỗ thấy của ta, không còn cách biệt, đó là ấn chứng, là truyền tâm ấn. Người đứng bên ngoài nghe nói truyền tâm ấn, liền tưởng tượng có cái gì đặc biệt để trao truyền khiến mình không hiểu nổi, từ đó nảy sinh ra những cách truyền lạ lùng bí mật. Quả là lầm lẫn ý Tổ, trở thành xuyên tạc và dối gạt lẫn nhau. Người học thiền phải chín chắn nhận rõ chỗ này!

* KHI NÓI KHÔNG CHỨNG ĐẮC

Trong nhà thiền khi nói vô sở đắc là có ý chỉ sâu xa trong đó.
+ Thứ nhất, là ngầm chỉ cái sẵn có
. Nghĩa là, thể chân thật vốn là tự tánh sẵn có, không do công phu tạo tác bên ngoài mà thành, không do ai truyền trao cho được. Bởi vậy, với ngài Thần Tú: “Luôn luôn siêng lau chùi” là chỗ thấy còn trên hình thức công phu tạo tác bên ngoài, chưa thấu được chỗ “vốn chẳng thể nhiễm ô” nên chưa được vào cửa Tổ. Lục Tổ: “Xưa nay không một vật” thì có gì được mất trong ấy nữa? Liền đó được vào cửa.

Còn kia, Bá Trượng hỏi Mã Tổ:

- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Mã Tổ đáp:

- Chính là chỗ ông bỏ thân mạng.

Muốn biết chỉ thú hay yếu chỉ Phật pháp, chính là chỗ bỏ thân mạng của ông. Chỗ đó làm sao hiểu? Tức phải bặt hết mọi chỗ nương tựa, không còn gì để bám víu, để suy nghĩ hiểu biết. Trong đó còn ai được? Được cái gì ?

Xưa có vị Tỳ kheo hỏi Thế Tôn:

- Theo chỗ thấy của con thì đối trong pháp của Thế Tôn, vừa có chỗ chứng là chưa phải, vậy Thế Tôn sẽ chỉ dạy cái gì?

Thế Tôn bảo:

- Này Tỳ kheo! Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông.

Lời Phật thật sâu xa thay! "Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông". Ngay câu hỏi đó chính là câu trả lời rồi, còn suy tìm cái gì khác nữa đều chẳng phải. Câu hỏi rất hay, câu đáp rất chính xác, người nhạy bén liền đó tự nhận là xong.

Kinh Kim Cang, Phật bảo Trưởng lão Tu Bồ Đề: “Thật khôngpháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Phật Nhiên Đăng tức chẳng thọ ký cho Ta: ‘Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.’ Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì vậy Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, nói lời thế này: ‘Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.’”

Tức lúc đó Phật còn là vị Bồ tát, hiện thân làm đồng tử Thiện Tuệ cúng dường phật Nhiên Đăng năm cành hoa sen xanh, trải tóc lót bùn cho Phật đi qua, được Phật Nhiên Đăng thọ ký trải qua chín mươi mốt kiếp sau sẽ thành Phậtcõi Ta bà này, hiệu là Thích Mâu Ni.

Người học trên văn nghĩa liền hiểu, do Phật Nhiên Đang thọ ký nên Phật Thích Ca mới được thành. Không ngờ đây là một ý nghĩa sâu xa vượt ngoài văn tự. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho được, tại sao Phật Nhiên Đang không trao cho ngay lúc đó đi mà phải thọ ký xa tít chín mươi một kiếp về sau này, lúc đó ai trao cho ai mà thành? Rồi thành với một cái hiệu là "Thích Ca Mâu Ni". Phật ở cái hiệu đó chăng? Rõ ràng trong đây có ngầm ý chỉ: "Thành đó" là thành cái vốn sẵn có của phật Thích Ca thôi, Phật Nhiên Đăng không có trao cho một cái gì khác. Thọ ký chỉ là một phương tiện để xác chứng niềm tin vững vàng cho người, chớ không phải do thọ ký mới có được. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho, thì ngay lúc đó Phật Nhiên Đăng đã trao cho đồng tử Thiện Tuệ rồi, đâu đợi phải thọ ký xa xôi về sau! Người tu Phật không thể lầm trên điểm này!

+ Thứ hai, nói không chứng đắc là trừ sạch tướng ngã. Bời người tu mà thấy có được Đạo, được ngộ, liền có tự đắc, tự mãn, tự kiêu trở thành thiền bệnh. Đâu biết, vừa thấy có được tức có nhiễm ô rồi! Là rớt bên ngoài cửa Tổ . Do đó, nhà thiền rất cẩn thận điểm này.

Như Hòa thượng Nam Tuyền, một hôm cúng trai Mã Tổ, Sư bèn hỏi trong chúng:

- Cúng trai Mã TổMã Tổ có đến chăng?

Không ai trả lời được. Lúc đó Lương Giới còn là Sa di, liền bước ra thưa:

- Đợi có bạn liền đến.

Nam Tuyền bảo:

- Chú nhỏ tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.

Sư liền thưa:

- Hòa thượng chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.

Cúng trai Mã Tổ, hỏi: “Mã Tổ có đến chăng?” là hỏi Mã Tổ nào? Đây là ngầm chỉ pháp thân. Pháp thân thì không hình tướng nên đâu có đến đi. Nhưng nếu một bề trống rỗng không ngơ thì để làm gì? Lương Giới đáp: “Đợi có bạn liền đến.” Nghĩa là, tuy pháp thân vốn vô tướng mà không phải là rỗng suông, không ngơ. Trái lại nếu có bạn, tức đủ duyên, người có công phu khế hợp, thì nó liền hiện, liền tự cảm nhận ngay. Sư đáp rất khéo, nên ngài Nam Tuyền khen: “Tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.” Nếu là người khác nghe vậy hẳn tự thấy hài lòng, thành mắc kẹt. Lương Giới tự biết mình, không bị lời nói bên ngoài lừa, nên thưa: “Chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.” Nếu lầm nhận tiếng khen đó để lộ tướng ngã ra, tức liền thành bệnh, chớ vội vui mừng!

Cũng như trường hợp Thiền sư Nghĩa Huyền lúc còn ở với Hòa thượng Hoàng Bá. Một hôm Sư đang ngồi trước tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, Sư liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, rồi trở về phương trượng. Sư đi theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu bên cạnh, Hoàng Bá nói với Thủ tọa:

- Vị tăng này tuy là hậu sanh lại biết có việc này!

Thủ tọa nói:

- Ông Hòa thượng gót chân chẳng chấm đất, lại đi chứng cứ cho kẻ hậu sanh.

Hoàng Bá liền tự vả miệng một cái. Thủ tọa nói:

- Biết là được.

Chỗ đặc biệt trong nhà thiền là thế. Hoàng Bá cảm hứng, thuận tiện bên cạnh có Thủ tọa liền thốt lời khen Nghĩa Huyền. Thủ tọa không khen hùa theo mà nhắc khéo. Hoàng Bá tự thấy đã nói hớ rồi, nên tự vả miệng, không để cho người tự mãn, tự đắc. Đây là những kinh nghiệm cảnh tỉnh cho người, chưa gì đã tự mãn cho mình đã ngộ cao, ngộ sâu, cần nghiệm xét.

Có vị tăng hỏi Thiền sư Cư Độn:

- Người xưa được cái gì liền thôi đi.

Sư đáp:

- Như giặc vào nhà trống.

Sở dĩ được chỗ thôi dứt, được an ổn thật sự là do đâu? “Như giặc vào nhà trống” vậy là có được cái gì ? Thấy có được cái này, có được cái nọ, chứa đầy một bụng là nguy. Nếu thấy có được là phải có mất, vì đó là chỗ cho giặc vào lấy của, thì hẳn là chưa “thôi đi” được. Phải tâm trống sạch như giặc vào nhà trống, không có gì để lấy thì nó tự bỏ đi. Cũng vậy, tâm bặt mọi niệm được mất, không chứa giữ một chút gì thì tự nó an, khỏi lo trừ dẹp. Trái lại, cứ lo tìm cầu chứa đựng đầy trong đó mà muốn an thì khó an. Ngươi muốn An phải nghiệm sâu, nghiệm kỹ chỗ này!

* KHI NÓI CÓ CHỨNG ĐẮC

Trong nhà thiền có lúc chư Tổ cũng thường nhắc nhở người tu: Phải thật tu, thật ngộ, thật chứng. Như Thiền sư Phật Giám bảo: “Tham phải thật tham, ngộ phải thật ngộ, hãy tham cứu cùng tột suốt đến đáy của giáo lý.” Vậy là thật có chứng chăng ? Bởi đây là ý các ngài muốn nhắc người học, phải có công phu thực hành chân thật, có chỗ sống vững vàng, tránh rơi vào chỗ nói lý suông, thiền trên môi lưỡi. Tức là, chỉ lấy cái hiểu của chư Tổ làm cái hiểu của mình, chỉ lo lý luận mà không được mà không có thực sống. Để gõ tỉnh cho hạng người này nên các ngài bảo phải thực tu, thực chứng đàng hoàng mới có đạo lực thắng được nghiệp phiền não. Không phải nói thế là bảo chúng ta thấy thật có chỗ chứng, chỗ đắc.

Như Vương Thường Thị đến chỗ Lâm Tế, ông đi đến trước tăng đường xem xong, bèn bảo:

- Tăng cả nhà này có xem kinh chăng?

Lâm tế đáp:

- Chẳng xem kinh.

Ông hỏi:

- Có học thiền chăng?

Lâm tế đáp:

- Chẳng học thiền.

Ông hỏi:

- Kinh chẳng xem, thiền cũng chẳng học, cuối cùng làm cái gì?

Lâm tế đáp:

- Thảy dạy họ làm Phật, làm Tổ.

Người mới nghe qua, thấy có cao mạn hay không? Chỉ dạy làm Phật, làm Tổ thôi là sao? Đây là đánh thức tâm niệm lo đeo đuổi theo bên ngoài, bám vào công phu rỗng suông sanh diệt, phải thực sống trở lại sức sống chân thật. Làm Phật, làm Tổ đâu phải là chuyện nói suông mà được? Người không hiểu, lầm chấp theo chữ nghĩa, cho ta là tu cao làm Phật làm Tổ thôi, trở thành kiêu mạn, tự đắc, đó là bệnh. Cho nên chư Tổ thường nhắc: “Mạt vàng tuy quý, rơi vào tròng mắt cũng thành bệnh.” Mắt vốn là torng sáng, không chấp nhận chứa thêm một chút gì nữa. Bụi rơi vào cũng bệnh mà mạt vàng rơi vào cũng bệnh. Kinh Lăng Nghiêm Phật đã ân cần nhắc rõ: “Nếu khởi cái hiểu Thánh tức rơi vào bọn tà. Chẳng khởi tâm Thánh tức là cảnh giới lành.” (Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà. Bất khởi thánh tâm tực thiện cảnh giới.)

Vừa khởi tâm chứng Thánh. Thấy mình là Thánh tức đi lệch ra ngoài rồi, là tạo cơ hội cho bọn ma xen vào, phá hoại huệ mạng của mình. Đó là điều phải luôn luôn nhớ! Do đó, các ngài nói “được” nhưng không cho chúng ta chấp có “được”, nhằm khiến mình quên công phu tạo tác, tự thể nhập tự tánh sẵn có muôn thuở. Bởi vậy, tuy thực chứng thực đắc không nghi ngờ, mà không thể lầm cho là thật có chỗ được, người học phải nhận kỹ!

Hòa thượng Hoáng Bá từng bảo: “Giả sử ông tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái SẴN CÓ ” Ngài Hoàng Bá xác định rõ ràng, dù người công phu lâu dài trải qua thời gian cả ba vô số kiếp, cùng người ngay một niệm hiện tiền đây chứng được, cũng chỉ là chứng cái sẵn có nơi mình thôi, kỳ thật không có cái gì thêm bớt sai khác. Bởi bao nhiêu công phu lâu dài kia cũng chỉ là "trở về chỗ sẵn có" này thôi. Nếu khởi một niệm “TA có cái riêng được hơn người” tức liền mê ngay!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19717)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23974)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41228)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19706)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24011)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23319)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27512)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26579)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29328)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33212)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20211)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25792)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20928)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31336)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38589)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21451)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44282)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29839)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22147)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45789)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23976)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24400)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29288)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33934)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27694)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32155)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21075)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28859)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21601)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28091)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22085)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21448)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19520)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19480)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19845)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19266)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20630)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28311)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31855)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21394)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39639)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21568)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19388)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26414)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24841)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22401)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22564)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20477)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23538)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21249)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24557)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant