Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Tinh thần thể nghiệm của thiền

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13586)
II. Tinh thần thể nghiệm của thiền

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

Ý CHỈ BẤT LẬP VĂN TỰ


II. TINH THẦN THỂ NGHIỆM CỦA THIỀN

Nói “giáo ngoại biệt truyền”, nói “bất lập văn tự”, với tinh thần đó, thiền môn luôn đòi hỏi người học phải tự thể nghiệm thực sự nơi chính mình, bằng một sức sống chân thật ngay trong lòng mình, chớ không thể chỉ hiểu suông. Phật pháp sâu xa màu nhiệm đã trải qua thời gian dài của sự truyền bá, mà phương tiện truyền bácõi Ta Bà này lại là ngôn ngữ văn tự, vì vậy con người dần dần lọt vào cái khuôn chữ nghĩa, thiếu mất sức sống chân thật nơi tự tâm, đó là điều Phật Tổ hằng lo lắng. Nếu khôngsự thể nghiệm ấy, thì làm sao có sự chuyển hóa tập khí chính mình, có sức thắng được phiền não sanh tử? Khẩu đầu thiền, thiền đầu môi, là câu mà các Thiền sư thường quở trách, mình có vượt khỏi được chưa?

Hòa thượng Châu Hoằng, một hôm Sư đang chép kinh Thập Thiện, có ông tăng đến nói với Sư:

- Trong pháp của tôi thì một hạt bụi chẳng lập, đâu bày ra mười hạnh (thập thiện) làm gì?

Hòa thượng Châu Hoằng liền bảo:

- Năm uẩn lăng xăng, bốn đại dẫy đầy, sao bảo là không hạt bụi?

Tăng nói:

- Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có.

Bất ngờ Sư tát cho ông một tát tai bảo:

- Hạng học nói suông như mè, như lúa, chưa đúng hãy nói lại!

Tăng không đáp được bực bội đứng dậy. Sư cười bảo:

- Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao ông chẳng phủi đi?

Nói “một hạt bụi chẳng lập” nghe hay qua nhưng bị tát một cái liền bực bội thì có lập hay không? Ngay đó thì “bốn đại vốn không, năm ấm chẳng phải có” đã bay đi đâu mất rồi! Do đó, Hòa thượng Châu Hoằng mới bảo: “Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao chẳng phủi đi?” Chớ nói suông vô ích!

Bởi vậy Thiền tông rất chú trọng đến sự thể nghiệm, thường quở trách thiền trên chót lưỡi và hay đả phá kiến giải suông, đưa người thẳng vào. Nan-in, một Thiền sư Nhật thuộc thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), nhân một hôm có vị giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Thiền sư rót trà mời ông. Tách trà đã đầy, nhưng Thiền sư cứ tự nhiên rót tiếp không ngừng. Nước tràn ra ngoài. Vị giáo sư không kềm được nữa, phải thốt lên:

- Đầy tràn rồi! Xin thầy đừng rót nữa!

Thiền sư Nan-in thong thả bảo:

- Cũng giống như tách nước này, trong ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông thì làm sao tôi còn có chỗ để tỏ bày thiền cho ông được, trừ khi ông chịu cạn cái tách của ông trước đi!

Thật là một ý nghĩa thâm thúy! Câu chuyện ngầm nói lến, người đến với thiền mà torng đầu còn chứa đầy ắp những kiến thức vay mượn, ôm một khối to khái niệm hiểu biết thì còn mong gì tiếp nhận được nữa! Như thế là đến để phô bày kiến thức, đâu phải đến để học thiền!

  • Thiền nhổ đinh tháo chốt, không lập một pháp.

Chính vì lẽ trên, thiền vốn không lập một pháp thật, không có gì để cho người nhận, chỉ cốt nhổ đinh tháo chốt, cởi mở tình chấp cho người, khiến người tự sống dậy. Hỏi: Thế nào là Phật. Đáp: Ba cân gai. Thì có gì để hiểu? Có gì để nhận? Chừng nào trong đầu bạn còn có một khái niệm, cón có một kiến giải chắc thật thì Thiền sư vẫn còn đập phá để cho trong lòng bạn thật rỗng rang không một vật mới mong khế hợp cơ thiền. Hãy nhìn Huệ Nam bị Từ Minh mắng chửi! Sư ở pháp hội của Thiền sư Thê Hiền được cử làm thư ký. Chợt Thê Hiền tịch, quận thú mời Từ Minh đến trụ trì. Được tin này Sư rất vui mừng, có cơ hội để nghiệm xét lời Văn Duyệt nói với Sư trước kia, lúc ở Tây Sơn, Duyệt đã thúc đẩy Sư đến gặp Từ Minh.

Khi Từ Minh đến, Sư trông thấy ngài thì thân tâm đều cung kính. Kế nghe Từ Minh luận nói, phần nhiều ngài chê các nơi, mỗi điều đều trách là thuộc tà giải. Chính chỗ Sư được mật chỉ nơi Phần Đàm cũng bị bác bỏ. Sư nhớ lại lời nói của Văn Duyêt lúc trước rất đúng. Sư liền thay đổi quan niệm nói:

- Đại trượng phu trong thâm tâm cứ nghi ngại hoài sao?

Sư liền vào thất Từ Minh thưa:

- Huệ Nam tối dốt, trông đạo mà chưa thấy. Giờ tham thiền khi hôm, nghe thầy dạy, như người đi lạc đường được xe chỉ nam. Cúi xin Hòa thượng đại từ bố thí pháp khiến cho con được hết nghi ngờ?

Từ Minh cười bảo:

- Thư ký đã lãnh đồ chúngdu phương nổi tiếng khắp tùng lâm,nếu còn có nghi ngờ thì chẳng khổ cầu như vậy, hãy ngồi mà thương lượng (bàn bạc).

Từ Minh liền gọi thị giả đem ghế mời Sư ngồi. Sư vẫn từ chối và thành khẩn tha thiết cầu chỉ dạy.

Từ Minh bảo:
- Thư ký học thiền Vân Môn ắt thông được yếu chỉ ấy. Như nói: “Tha Động Sơn ba gậy” Động Sơn khi ấy nên đánh hay chẳng nên đánh?
Sư thưa:
- Nên đánh.
Từ Minh nghiêm nghị bảo:
- Nghe tiếng “ba gậy” liền cho là nên ăn gậy, vậy ông từ sáng đến chiều nghe chim kêu, trống đánh, tiếng chuông, tiếng bảng cũng nên ăn ba gậy. Thế thì ăn gậy đến lúc nào mới thôi?
Sư chỉ nhìn sững mà thôi.
Từ Minh lại bảo:
- Tôi lúc đầu nghi không thể làm thầy ông. Giờ đây đã đủ tư cách làm thầy ông. Ông hãy lễ bái đi!
lễ bái xong, đứng dậy. Từ Minh nhắc lại lời trước:
- Nếu ông lãnh hội đựơc ý chỉ Vân Môn thì, Triệu Châu thường nói: “Bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá, thử chỉ ra chỗ khám phá xem?”
Sư mặt nóng hực, mồ hôi xuất hạn, không biết đáp thế nào, bị Từ Minh đuổi ra.
Hôm sau Sư lại vào thất, bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn mọi người bên cạnh nói:
- Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng chửi đâu phải phải quy cũ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười bảo:
- Đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này Sư đại ngộ. Như vậy Từ Minh mắng chửi Huệ Nam có gì lạ? Bởi Huệ Nam đã là thư ký, đã từng chứa một bụng thiền rồi, lại kẹt theo lời, theo tiếng, nên Từ Minh mắng chửi cho nó xẹp, nó bể đi, cho hết còn chỗ để bám, mới bừng dậy sức sống mới. Nếu cứ để nó óch ách trong lòng, nó nặng trĩu trong đầu thì lại nuôi lớn ngã kiến và luôn bao bọc chung quanh một lớp si mê vô hình này, làm sao có kẻ hở để lóe sáng. Nghe mắng chửi hiểu là mắng chửi, tức là theo tiếng snah hiểu nữa rồi. Vì vậy Từ Minh đánh thức: “Đó là mắng chửi sao?” liền đó Huệ Nam chợt tỉnh dậy, vượt qua mọi khái niệm trong đầu.
Còn đây, Tuyết Phong hỏi Hòa thượng Đức Sơn:
- Việc trong tông thừa con có phần chăng?
Đức Sơn đánh cho một gậy bảo:
- Nó cái gì?
Sư liền như thùng lủng đáy.
Thùng lủng đáy tức lọt tuốt tất cả, không còn chứa lại một chút gì. Vậy mà ở Ngao Sơn, Sư còn thú thật với Nam Đầu: “Tôi thật còn chưa ổn.” Và chính nhờ Nam Đầu trợ giúp mới thành đạo tại Ngao Sơn này.

 " Chẳng mai một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương".

Hoàng Bá đã từng nhắc nhỏ, cảnh tỉnh cho người học thiền như thế. Bởi các ngài đã từng nếm qua việc này, từng kinh nghiệm xương máu nên mới nói ra những lời thành thật như trên. Người kiến giải cho đó là tầm thường. Người chứng nghiệm thì cảm sâu tận xương tủy, khó nói hết bằng lời, do đó rất thấm thía!

  • Thể nghiệm ở đâu?

Đã biết thiền cần phải thể nghiệm, không thể nói suông, nhưng thể nghiệm ở đâu?
Hỏi ở đâu lại là chưa biết thiền. Có ở đâu là thuộc cái bên ngoài, là đi vào chữ nghĩa nữa rồi. Thiền là phải thể nghiệm nơi tự tâm thôi, không thể có ở đâu khác. Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Khi ở ngay tâm, tâm chẳng lường biết thì thế nào?
Sư bảo:
- Lường biếtai?
Sư bảo:
- Không hai kẻ.
Đã ở ngay tâm, còn hỏi gì nữa? Hỏi như thế là chứng tỏ mình đang ở ngoài rồi. Bởi vậy trong đây vừa hỏi ở đâu, là xa mất ngay. Bởi, có ở đâu tức đặt thành chỗ nơi; mà có chỗ nơi tức bị dời đổi, đi vào luân hồi, xoay chuyển không biết ngày dừng!
Bảo Triệt cùng Đơn Hà đi đến núi Ma Cốc, Sư liền nói:
- Tôi đến trong đó trụ.
Đơn Hà bảo:
- Trụ tức lại trở về, có cái này không?
Sư nói:
- Trân trọng!
Đây cho thấy rõ hễ vừa có trụ tức thành có chỗ, mà có chỗ là rơi lại sanh tử, là quên mất chính mình. Với tâm phàm thì luôn luôn phải tìm chỗ nơi, bởi vì nó đang sống theo duyên, mất duyên thì chới với, mờ mịt. Kinh Lăng Nghiêm Phật đâu từng chẳng bảo A Nan: “Nếu thật là tâm tánh ông thì nó phải rời tiền trần mà có toàn tánh. Nếu rời tiền trần mà không có toàn tánh thì không phải thật.” Rõ ràng tâm duyên thì luôn bám vào tiền trần, nghĩa là luôn luôn tìm có bạn, không bạn thì dường như không có. Đó là sống lệ thuộc, sống nươgn tựa vất vưởng nên gọi đó là sống trong hư vọng. Trong khi đó chính mình đang hiện hữu ngay mọi hành động hằng ngày lại không biết.
Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:
- Những bậc lão túc các nơi trọn nói tiếp vật lợi sanh, bỗng gặp người có ba thứ bệnh đến thì làm sao tiếp?
Bệnh mù thì cầm chùy, dựng phất họ chẳng thấy. Bệnh điếc thì ngôn ngữ tam muội họ chẳng nghe. Bệnh câm thì dạy họ nói lại nói chẳng được. Vậy thì phải làm sao tiếp? Nếu tiếp chẳng được người này thì Phật pháp không còn linh nghiệm.
Có vị tăng đem việc này hỏi ngài Vận Môn. Vân Môn bảo:
- Ông lễ bái đi!
Tăng lễ bái xong đứng dậy. Vân Môn lấy cây gậy đưa tới, tăng lùi lại sau, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh mù.
Vân Môn gọi:
- Lại gần đây!
Tăng tiến lại gần, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh điếc.
Vân Môn dựng cây gậy lên hỏi:
- Lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Chẳng lãnh hội.
Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh câm.
Vị tăng liền tỉnh ngộ.
Người có ba thứ bệnh đó ở đâu?
Có phải là chúng ta đây chăng? Hiện tại thấy, nghe, đáp rõ ràng có thiếu chỗ nào đâu? Trái lại, ngay đó lầm qua mất thì có khác gì đui, điếc, câm! Cần thể nghiệm ngay chỗ này, chớ tìm đâu khác. Chính đó là bài pháp sống! Thiền sư luôn đánh thức người sống lại trong ấy.
Có một Thiền sư Nhật Bản tên Nhất Hưu lúc Sư ở dưới núi Tỉ Duệ, một hôm thấy tín đồ ùn ùn kéo nhau lên n1ui nhân đến kỳ tự viện trên đấy phơi tạng kinh. Theo truyền thuyết thì khi phơi tạng kinh, nếu ai được làn gío thổi trên trang kinh phất qua mình sẽ được tiêu trừ tai ách, tăng trưởng trí tuệ. Vì lẽ đó mà mọi người đua nhau lên núi để mong đón được ngọn gió đó. Thiền sư Nhất Hưu biết vậy, Sư cũng nói:
- Tôi cũng cần phơi tạng kinh.
Nói xong, Sư vạch áo bày trần hông bụng nằm trên bãi cỏ phơi dưới ánh mặt trời. Nhiều tín đồ trông thấy khó chịu, cho là thiếu lịch sự. Vị pháp sưtự viện trên n1ui nghe n1oi, bèn đến khuyên Nhất Hưu chẳng nên làm việc mất oai nghi như thế.
Thiền sư Nhất Hưu thật tình giải thích:
- Các ngài phơi tạng kinh đó là phơi tạng kinh chất, nó biết sanh mối mọt mà chẳng biết hoạt động. Còn tạng kinh của tôi phơi là Tạng kinh sống, nó biết nói pháp, biết làm việc, biết ăn cơm; Người có trí tuệ phải nhận rõ tạng kinh này mới quý giá! (Tinh Vân Thiền Thoại)
Đó là Thiền sư muốn đánh thức cho người hãy xoay lại chính mình, phải thể nghiệm được sức sống chân thật ngay chính mình đây, chỗ đó mới là chỗ đáng quý, mới có giá trị thực sự, không phải hiểu suông, không thể chết ở trên hình tướng bên ngoài.

  • Làm sao thể nghiệm?

Chỗ này phải chín chắn, chớ để bị ngôn ngữ chuyển. Nếu có làm sao tức thành tạo tác rồi và như vậy là không thể có thể nghiệm. Vì đã thành tạo tác là thuộc pháp sanh diệt, đó là cái có thể suy nghĩ, có thể hiểu biết, là vẫn nằm trong tình mê!
Thiền sư Pháp DiễnNgũ Tổ có lần thượng đường bảo:
- Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một cái giàn có người gỗ máy, luiền đến gần xem, thì thấy hoặc đẹp đẽ lạ lùng hoặc xấu xí vô kể, động chuyển đi ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi thấy xong, đến khi chín chắn xem kỹ lại, vốn là miếng vải xanh bọc lại, bên trong có người. Lão tăng nhịn không nổi, bèn đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy bảo: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kẻ ấy hỏi một câu, liền không lời có thể đáp, không lý có thể bày, trong đây có ai vì lão tăng nói được chăng?

 Hôm qua trong ấy rơi cành
Ngày nay trong đây nhổ gốc.

Đó là một bài pháp thiền. Hãy xem Thiền sư Pháp Diễn nói: Lão tăng đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy đáp: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Liền đó Sư không lời có thể đáp, không lý có thể bày. Đã thấy thì tự biết ngay, còn hỏi tên hỏi họ làm gì? Muốn diễn tả bằng lời để hiểu là tự trái xa rồi. Bởi hiểu được nó thì nó thành cái bị hiểu, là thuộc cái bóng thứ hai, không phải thật. Muốn đặt tên cho nó là gượng ép dán nhãn hiệu vào nó , biến nó thành vật để hiểu, tức ngay trước mắt lầm qua! “Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc”, quét sạch hết mọi chỗ cho ông có thể duyên, tự trong ấy sống dậy liền gặp nhau.
Để rõ thêm, chứng ta hãy nghe đoạn nhân duyên Hòa thượng Tùng Sơn với cư sĩ Bàng Uẩn uống trà, cư sĩ đưa tách trà lên hỏi:
- Mỗi người trọn một phần, vì sao nói chẳng được?
Tùng Sơn đáp:
- Sở dĩ nói chẳng được, chỉ vì mỗi người đều trọn có.
- Tại sao a huynh nói được?
- Chẳng thể không lời.
- Rõ ràng! Rõ ràng!
Sư bèn uống trà. Bàng Uẩn nói:
- A huynh uống trà sao chẳng mời khách.
- Ai?
- Bàng Công!
- Sao lại mời!
Đưa tách trà lên, ngưới người đều trọn thấy rõ, còn phải nói thế nào? Việc này đâu ai dối gạt được ai. Uống trà đi là xong. Đã là chính mình sao con2 phải đợ mời? Chỗ này ngôn ngữ làm sao nói hết? Chỉ phải một phen xông thẳng vào, tự sống dậy vỗ tay cười to ha hả là xong. Như Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ tống cho một đạp té nhào. Ngay đó Thủy Lạo đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to nói:
- Trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, chỉ ở trên đầu sợi lông đủ hết thảy.
Đó là đưa người thẳng vào thể nghiệm, không giải thích “làm sao?” “thế nào?” theo chữ nghĩa dài dòng. Thủy Lạo tự cảm nghiệm lấy trực tiếp cũng ra ngoài chỗ suy nghĩ tính trước. Người đứng bên ngoài khó hiểu nổi, dù có hiểu cũng hiểu méo mó theo ngã kiến.
Đạt Quán Dĩnh ở chỗ Hòa thượng Cốc Ẩn, sau khi được thầm khế hội, Sư hỏi:
- Như Thạch Đầu nói: Chấp sự nguyên là mê, khế lý cũng chẳng phải ngộ.
Cốc Ẩn hỏi:
- Ông cho là lời nói thuốc hay lời nói bệnh.
Sư thưa:
- Lời nói thuốc.
Cốc Ẩn quở:
- Ông lấy bệnh làm thuốc, lại đâu có thể được thay!
Sư nói:
- Sự như phong thư được gói kín. Lý như mũi tên thẳng đầu nhọn. Chỗ nhiệm mầu đâu có thêm mà còn cho là bệnh, thật chưa rõ yếu chỉ?
Cốc Ẩn bảo:
- Chỗ nhiệm mầu đến thế đó cũng chỉ gọi là lý sự. Chỗ ý chỉ của Tổ sư, trí biết không thể đến được, huống nữa là sự lý mà hay cùng tột đó sao? Cho nên đức Thế Tôn nói: Lý chướng ngăn ngại cái thấy biết đúng. Sự chướng tiếp nối các sanh tử.
Sư dường như chợt tỉnh cơn mộng thưa:
- Làm sao thọ dụng?
Cốc Ẩn bảo:
- Lời nói chẳng rời khuôn sáo cũ, làm sao ra khỏi ràng buộc.
Sư than:
- Vừa dính môi lưỡi, liền rơi vào ý nghĩ, trọn là cửa chết, rốt cuộc chẳng phải con đường sống vậy.
Chỗ “ý chỉ của Tổ sư” trí biết không thể đến được. Dù người thấy hiểu cao siêu đến đâu mà còn thấy có cái “lý” để khế hợp, là vẫn chưa phải thật hiểu, vì còn bị trí soi đến, còn luận bàn được, chưa gọi là nhiệm mầu. Đến chỗ thật nhiệm mầu thì vượt ngoài ngôn ngữ luận bàn, bỏ xa trí suy luận, chỉ có thể Phật cùng Phật biết đựơc thôi . Đó là chỗ chánh định tự thọ dụng, thiền chứng nghiệm chính ở trong ấy.
Hòa thượng Triệu Châu đã ngầm chỉ ý này qua đoạn nhân duyên có vị tín đồ đến hỏi Sư:
- Tham thiền thế nào mới hay ngộ đạo?
Chợt Sư đứng dậy khỏi tòa nói:
- Tôi cần đi tiểu xong đã.
Sư đi mấy bước, quay đầu lại bảo:
- Ông hãy xem đó! Việc nhỏ như đi tiểu thế ấy mà tôi cũng cần phải tự đi, người khác không thể thay thế được.
Ý Triệu Châu muốn chỉ việc này mình phải tự thể nghiệm ngay chính mình, không thể tìm nới người. Không ai thể nghiệm thay cho mình được. Còn hướng ra ngoài tìm cầu thì chỉ là đạp trên cảnh giới của người khác, chưa thể có sự chứng ngộ chân thật.
Nói thẳng, thiền là ở ngay đây, tại đây! Không thời gian! Vừa kẹt thời gian, liền có không gian, tức cách biệt ngay. Có vị tăng đến hỏi một Thiền sư:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Thiền sư bảo:
- Hãy đến gần đây!
Tăng đi đến gần, Sư bảo:
- Ông lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Dạ không.
Sư bảo:
- Như một ánh chớp đã qua bao a tăng kỳ kiếp.
Trong đây là phải thấy nhanh hơn làn chớp, không cho niệm thứ hai kịp xen vào. Chậm một chút là đã trải qua vô số kiếp rồi. Nhưng nhanh một chút cũng vượt qua vô số kiếp một cách dễ dàng. Bảo: Hãy đến gần đây! Liền đi đến gần. Ngay đây sẵn đủ tất cả! Chỉ phải trống lòng, sạch mọi kiến chấp, thẳng đó liền nhận, không trải qua thứ lớp. Thiền thể nghiệm là VƯỢT KHÔNG GIAN, THỜI GIAN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19717)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23975)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41228)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19706)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24011)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23321)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27512)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26580)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29328)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33212)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20212)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25793)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20928)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31336)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38589)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21451)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44282)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29839)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22148)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45789)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23976)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24402)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33934)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27694)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32155)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21076)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28861)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21601)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28094)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22086)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21450)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19520)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19482)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19846)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19266)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20631)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28311)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31856)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21394)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39639)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21568)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19388)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26415)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24841)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22401)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22564)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20477)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23540)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21249)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24557)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant