Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Ai không bản tâm?

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14123)
II. Ai không bản tâm?

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TÂM YẾU NHÀ THIỀN

II. AI KHÔNG BẢN TÂM?

Đã là bản tâm tức bản thể của chính mình thì ai không có? Không có nó hẳn thành khúc gỗ còn gì? Song hỏi bản tâm là gì lại lúng túng không trả lời thông suốt! Vậy là sao? Đây là chỗ người học đạo cần chín chắn nghiệm xét không thể hời hợt bỏ qua.

Xưa kia, Đại Điên đến chỗ Hòa thượng Thạch Đầu, Thạch Đầu hỏi:
- Cái gì là tâm ông?
Sư thưa:
- Nói năng đó là tâm.
Bị Thạch Đầu nạt đuổi ra. Hơn một tuần, Sư lại đến hỏi:
- Trước đó đã chẳng phải, trừ ngoài cái này, cái gì là tâm?
Thạch Đầu bảo:
- Trừ ngoài nhướng mày, chớp mắt, đem tâm lại.
Sư thưa:
- Không tâm có thể đem lại.
Thạch Đầu bảo:
- Nguyên lại có tâm, sao nói không tâm? Không tâm tức trọn đồng chê bai rồi.
Sư liền tỏ ngộ.
Hỏi: “Gì là tâm?” Đáp: “Nói năng là tâm.” Mới nghe qua dường như phải, không tâm thì cái gì biết nói năng. Tuy nhiên, chỗ này rất dễ hiểu lầm, thành xen lẫn với tướng sanh diệt. Nếu chỉ nhận nói năng là tâm, vậy khi không nói năng thì sao? Không có tâm chăng? Vì vậy Hòa thượng Thạch Đầu nạt đuổi ra để gạn lại chỗ thấy của Đại Điên. Sau đó Đại Điên hỏi lại: “Cái nói năng đó đã chẳng phải thì ngoài cái này ra, cái gì là tâm?” Tức ngoài cái nói năng này còn có cái gì riêng là tâm nữa? Thạch Đầu bảo: “Tức ngoài nhướng mày, chớp mắt, đem tâm tại! Ngài gạn kỹ lại xem Đại Điên đã thấy thấu qua cái dụng kia chân? Quả tang Đại Điên chỉ kẹt trên cái dụng đó, chưa thấu được thể thật, nên đáp: “Không tâm có thể đem lại.” Vậy là Sư chi thấy tâm ở chỗ nhướng mày, chớp mắt đó thôi sao? Vì thế Hòa thượng Thạch Đầu bảo: “Nguyên lai có tâm sao nói không tâm? Nói không tâm tức đồng với chê bai rồi.” Ông đáp không tâm có thể đem lại, vậy cái gì đang trả lời đó? Trong đây cần rõ: Biết nói năng, biết nhướng mày, chớp mắt, nếu thực không có tâm thì cái gì biết làm những việc đó? Song người mê chỉ nhận trên tướng nói năng, tướng nhướng mày chớp mắt tức nhận lầm tướng sanh diệt làm tâm. Chỗ này dễ lẫn lộn với thần ngã của ngoại đạo. Ngoại đạo cũng nói có thần ngã bên trong mới khiến thành ra có nhướng mày chớp mắt, động dụng, khổ vui v.v… Vậy làm sao phân biệt chân giả? Chỗ này cốt phải nhận thấy thấu tột ngay đầu nguồn phát ra mọi tác dụng kia! Chính đó mới là tâm thể thường hiện tiền không thuộc động tịnh. Chỉ nhận nơi tác dụng đó, khi không tác dụng liền lờ mờ lại rơi vào đoạn diệt, nên gọi “trọn đồng với chê bai”. Thần ngã thuộc chỗ này.

Để rõ thêm chỗ này, chúng ta hãy nghe Tổ Tăng Già Nan Đề, một hôm nhân gió thổi trước điện Phật, tiếng linh khuya, Tổ hỏi Già Da Xá Đa:

- Linh kêu hay gió kêu?
Già Da Xá Đa đáp:
- Chẳng phải linh kêu, chẳng phải gió kêu mà tâm con kêu.
Tổ hỏi:
- Tâm như thế nào?
Già Da Xá Đa đáp:
- Đều lặng lẽ.

Tổ Tăng Già Nan Đề muốn gạn xem chỗ thấy của Già Da Xá Đa thế nào nên hỏi: “Linh kêu hay gió kêu?” Già Da Xá Đa đáp: “Tâm con kêu.” Vậy kêu như thế nào? Tâm biết kêu sao? Quả thực nếu không phải là người đã hằng sống trong đó, hẳn đã theo tiếng linh, tiếng gió mà đáp, là rơi vào cái bẫy của Tổ rồi! Linh và gió là cảnh bên ngoài, theo cảnh phân biệt là quên mất mình đang hiện hữu. Chính chỗ này mà hai ông tăng ở chùa Pháp Tánh cãi nhau về gió động và phướn động mãi không thôi, khiến Lục Tổ đang trong hình thức cư sĩ nhịn không được phải xuất hiện để lộ tung tích bảo: Tâm ngài động!”

Ở đây, Già Da Xá Đa bị Tổ gài linh với gió nhưng Sư vốn thường sống trong ấy, luôn luôn có mặt không mê nên đáp rõ: “Tâm con kêu.” Tức nói lên sự hiện hữu chính mình ngay đó! Dù có tiếng gió, tiếng linh nhưng cái gì đang có mặt nhận rõ tiếng kêu đó? Tổ Tăng Già Nan Đề hỏi tiếng gió, tiếng linh nhưng chính đây mới là chỗ nhắm. Vậy là có tâm hay không? Nếu không tâm thì cái gì biết gió thổi linh kêu. Song nếu chỉ nhận cái biết theo tiếng gió, tiếnglinh làm bản tâm thì khi gió im tiếng lặng sẽ ra sao? Tâm kêu ở chỗ nào? Hẳn sẽ là chới với mờ mịt! Do đó Tổ Tăng Già Nan Đề gạn thêm cho tột cùng tâm thể: “Tâm như thế nào?” Đến đây nếu không phải người thực sống trong đó hẳn khó trả lời cho thông. Biết có tâm kêu nhưng cái gì là thể của tâm? Không thể lờ mờ trên tướng sanh diệt kia!

Già Da Xá Đa đáp rõ: “Đều lặng lẽ.” Biết kêu là động, là đối tiếng má có, nếu không đối tiếng liền không, chưa tột được thể. Ở đây, Già Da Xá Đa biết mà đều lặng lẽ, hằng lặng lẽ, tức biết mà lặng. Biết mà lặng là biết nhưng lìa tiếng biết, biết tất cả nhưng vẫn không rời tự thể, đó mới chính là cái biết nhiệm màu, cái biết chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn, vượt ngoài mọi hý luận. Cho nên bản tâm phải đủ hai chữ tịch mà tri, lặng mà biết, biết mà lặng. Do đó nói biết cũng được, nói chẳng biết cũng được, vì có tướng hay không có tướng vẫn hằng biết, không lệ thuộc đối tượng bị biết.

Đi sâu vào thêm, chúng ta nghiệm kỹ đoạn nhân duyên về Bồ tát Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt. Đạo Ngô hỏi Vân Nham:

- Đức Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt, vậy mắt nào là mắt chánh?
Vân Nham đáp:
- Như người ban đêm với tay lại sau mò chiếc gối.
Đạo Ngô nói:
- Tôi hội rồi.
Vân Nham hỏi:
- Hội thế nào?
Đạo Ngô đáp:
- Khắp thân là tay mắt.
Vân Nham nói:
- Nói tột lời chỉ nói được tám phần.
Đạo Ngô hỏi:
- Sư huynh thì sao?
Vân Nham đáp: Toàn thân là tay mắt.

Như vậy, Đạo Ngô nói khắp thân là tay mắt, Vân Nham nói toàn thân là tay mắt, có gì đặc biệt? Giữa đêm tối, với tay lại phái sau mò chiếc gối, thì con mắt ở đâu mà thấy chiếc gối khiến mình đụng biết? Mắt này đâu cần tròng? Song người nghe nói kháp thân là tay mắt, lền tưởgn tượng khắp cả thânmình chỗ nào cũng mọc tay, mọc mắt có ngón, có tròng đầy đủ; Vậy dưới lòng bàn chân cũng phải có hai tròng mắt thì khi đi, đạp xuống đất hẳn bị bụi lấp đầy mắt làm sao thấy? Hơn nữa, một người mà khắp thân mọc đầy tay, đầy mắt thì thân đó phải to đến cỡ nào mới chứa đủ ngàn cánh tay, ngàn con mắt? Và người đó là người sẽ thế nào? Chắc hẳn đó là một quái nhân, ai yếu tinh thần gặp phải cũng té xỉu! Cho nên Vân Nham bảo: “Nói tột lời nói chỉ nói được tám phần” không thể nói hết.

Vân Nham nói “toàn thân” là muốn đánh thức người vượt qua chữ nghĩa đó. Đây là ngầm chỉ thể giác tròn khắp, toàn thân đụng đến đến đâu liền thầm cảm biết ngay, tức chỗ nào cũng có tánh giác biểu lộ không thiếu thì đâu đâu chẳng là tay mắt? Người đã thể nhập bản tâm thì toàn thể đều giác, đụng đến đâu cũng là thể giác hiện bày chưa từng mê, tất cả đều thành diệu dụng sáng gnời nên biểu trưng bằng ngàn cánh tay, ngàn con mắt: sẵn sàng ứng khắp! Người học phải đạt ý ngoài lời, không thể bám theo lời sanh hiểu.

Cảm nhận được chỗ này, vua Đường Trang Tông nói với Thiền sư Tồn Tương ở Hưng Hóa:

- Thẩm thâu Trung Nguyên nhận được hòn ngọc quý mà chưa từng có người trả giá.
Thiền sư Tồn Tương hỏi:
- Xin bệ hạ cho xem!
Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân.
Sư nói:
- Ngọc quý của đấng quân vương ai dám trả giá.
Xem đấy, Thiền sư xin cho xem ngọc quý, vua lấy tay vuốt từ đầu đến chân, là trình ngọc xong. Toàn thân vuốt tới đâu, cảm biết tới đó, rõ ràng không mê thì chính đó là gì? Nghĩa là, tánh giác luôn luôn hiện hữu nơi người, sờ sờ chưa từng vắng mặt mà người người bỏ quên không nhận, lại đi nhận những tướng sanh diệt bên ngoài, nhận cái bóng dáng suy nghĩ theo duyên chợt có chợt không, khiến đành chịu lưu chuyển mãi. Một lẽ thật một trăm phần trăm như vậy còn nghi ngờ gì nữa? Người đã có, sao chúng ta không có? Sa di Cao bảo: “Chỉ là người chẳng chịu nhận thôi!”

Tuy nhiên đã biết có bản tâm đó rồi nhưng phải thấy ở đâu?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19721)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23975)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41228)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19707)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24011)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23321)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27514)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26580)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29329)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33214)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20212)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25793)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20931)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31337)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38593)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21453)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44284)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29839)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42229)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22148)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45791)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23976)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24402)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33934)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27694)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32159)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21077)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28861)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21603)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28095)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22086)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21450)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19520)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19484)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19846)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19268)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29208)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20632)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28311)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31858)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21395)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39640)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21569)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19388)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26416)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24841)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22402)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29149)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22565)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20478)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23540)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21249)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35348)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24557)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant