Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bốn Mươi Lăm: Vạn Pháp Qui Nhất Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15637)
Tắc thứ Bốn Mươi Lăm: Vạn Pháp Qui Nhất Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI LĂM

VẠN PHÁP QUI NHẤT CỦA TRIỆU CHÂU

 

THÙY: Muốn nói là nói, vô song trên đời. Muốn làm là làm, toàn cơ chẳng nhượng. Như đánh đá lửa, như ánh điện chớp. Gió táp lửa hực, thác lũ qua kiếm. Cầm kềm búa hướng thượng lên, khó tránh cùn nhụt líu lưỡi. Đề ra một con đường. Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Vạn pháp qui về một, một qui về đâu?” Triệu Châu nói, “Lúc ở Thanh Châu tôi có may một cái áo vải nặng bẩy cân.”

BÌNH: Nếu như “muốn đi là đi”, thì lập tức xỏ mũi tất cả các lão hòa thượng trong thiên hạ, chẳng ai làm gì được các ông. Lúc nước đến tự nhiên thành dòng. Nếu như các ông trù trừ, thì lão tăng ở dưới chân các ông Phật pháp vốn giản dị, không hề ở chỗ văn tự ngôn ngữ rườm rà. Có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Vạn pháp qui về một, một qui về đâu?” Triệu Châu lại đáp, “Lúc ở Thanh Châu tôi có may một cái áo vải nặng bảy cân.” Nếu như các ông dựa vào ngôn ngữ mà phân biện, các ông nhận lầm điểm giữa cán cân. Nếu như không dựa vào ngôn ngữ mà phân biện, thì Triệu Châu nói như thế các ông làm được gì bây giờ? Công án này tuy khó thấy song dễ hiểu; tuy dễ hiểu song khó thấy. Khó như núi bạc tường sắt, dễ thì lập tức hiểu rõ. Không có chỗ để các ông cân nhắc thị phi. Cống án này giống như Phổ Hóa nói, “ Mai có trai hội trong Từ Bi Viện.”

Một hôm có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Trúc qua?” Triệu Châu nói, “Cây trắc bá ngoài sân.” Ông tăng nói, “Hòa thượng đừng dùng cảnh mà dậy thiên hạ. Triệu Châu nói, “ Lão tăng chưa bao giờ dùng cảnh để dạy thiên hạ cả.” Nhìn xem Triệu Châu xoay chuyển được ở chỗ cùng cực không thể xoay chuyển được, tự nhiên chum trời chum đất. Nếu như không chuyển được, lập tức bị trở ngại ngay.Thử nói xem, Triệu Châubàn luận về Phật pháp hay không? Nếu như bảo là có, thì Triệu Châu có từng bao giờ nói tâm nói tính nói huyền nói diệu đâu? Nếu như bảo Triệu Châu không có Phật pháp chỉ thú, thầy ta đã từng bao giờ cô phụ câu hỏi của các ông đâu?

Há không nghe nói, có ông tăng hỏi Mộc Bình Hòa Thượng, “ Thế nào là đại ý của Phật pháp?” Mộc Bình nói, “ Trái dưa hấu này mới lớn chứ!” Có ông tăng hỏi bậc cổ đức kia, “Núi sâu vách đứng, nơi không bóng người kia có Phật pháp hay chăng?” Cổ đức nói, “ Có”. Ông tăng hỏi, “ Thế nào là Phật pháp trong thâm sơn?” Cổ đức nói, “Những tảng đá lớn thì lớn, những tảng đá nhỏ thì nhỏ.”

Nhìn loại công án này, mờ mịt ở chỗ nào? Tuyết Đậu biết chỗ cốt yếu, cho nên mới làm tụng để giải nghĩa cho các ông.

TỤNG

Gói trọn sát lên mũi trùy cũ,

Chiếc áo bảy cân mấy người hay?

Bây giờ ném nó xuống Tây Hồ,

Không mang gió mát, đem cho ai?

BÌNH: Trong mười tám (cách đặt) câu hỏi, đây gọi là “câu hỏi gói trọn”. Tuyết Đậu nói, “Gói trọn sát lên mũi trùy cũ.”Gói trọn tất cả rồi đem nó qui về một. Ông tăng này muốn dồn Triệu Châu, song Triệu Châu quả thật là tay chuyên gia. Luôn luôn có con đường xuất thân ở những chỗ không thể nào xoay chuyển được. Dám mở cái miệng lớn, bèn nói, “ Lúc ở Thanh Châu tôi có may một có áo vải nặng bảy cân.” Tuyết Đậu nói, “ Cái áo bảy cân này có bao nhiêu người biết được?”

“Bây giờ ném nó xuống Tây Hồ.” Vạn pháp quay về một, ngay cái một này Triệu Châu cũng chẳng cần. Cả cái áo bảy cân này thầy ta cũng không muốn cho nên mới ném nó ngay xuống Tây Hồ. Khi Tuyết Đậu ở tại ngọn Thúy Phong ở Động Đình phía dưới có Tây Hồ.

“Không mang gió mát, đem cho ai?” Đây là để đề cập đến lòi Triệu Châu dạy chúng rằng, “Nếu các ông đi về bắt tôi đặt lên cho các ông, nếu các ông đi về nam tôi lấy xuống cho các ông. Cho dù là các ông từ nơi của Tuyết PhongVân Cư đến đi nữa, các ông vẫn chỉ là những gã khiêng ván.” Tuyết Đậu nói, “Gió mát như vậy biết đem cho ai?” “Đặt lên” có nghĩa là nói tâm nói tính hói huyền nói diệu cho các ông, đủ thứ phương tiện. Nếu như “ lấy xuống” thì chẳng còn nhiều nghĩa lý huyền diệu như thế nữa.

Có một số người khiêng một gánh Thiền đến nơi của Triệu Châu, song chẳng sử dụng được một chút nào, Triệu Châu lập tức gỡ gánh nặng, khiến họ siêu thoát tự tại không một chút chấp trước. Đó chính là ý nghịa của câu nói “ngộ rồi cũng giống như chưa ngộ.”

Người bây giờ đều hiểu theo lối vô sự. Có kẻ nói, “Không có mê không có ngộ, chẳng cần phải tìm kiếm gì nữa. Lúc Phật chưa xuất thế, lúc ngài Đạt Ma chưa qua xứ này, cũng không thể không như thế. Như thế thì Phật phải ra đời để làm gì? Đạt Ma phải từ Tây Trúc đến để làm gì?” Tất cả những lời nói này có gì là nhằm nhò? Cần phải giác ngộ thấu triệt, thì lúc đó như xưa núi lại là núi sông lại là sông, cho đến tất cả vạn pháp đều tự hiển hiện. Lúc ấy các ông mới có thể bắt đầu làm người vô sự được.

Há không nghe Long Nha nói, “Học đạo trước hết phải vì ngộ, giống như náo nức đua thuyền rồng. tuy là nhàn nhã như lúc trước, song phải thắng rồi mới nghỉ được.” Còn như câu chuyện về chiếc áo bảy cân này của Triệu Châu, xem cổ nhân nói năng như thế, như vàng như ngọc. Sư núi tôi nói như vậy, các ông lắng nghe như vậy, đều là “đặt lên”. Song thử nói xem thế nào là “lấy xuống”? Thử về nhà ngồi suy ngẫm xem.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14776)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11843)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12774)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10357)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12074)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15305)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11092)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10553)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12485)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16439)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14325)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11804)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14820)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12043)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16868)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11595)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12747)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11354)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12069)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52179)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15481)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13979)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11455)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13194)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12795)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13233)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17927)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12464)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12661)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54220)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14439)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9938)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13831)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58006)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14519)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20160)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13804)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15416)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17506)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13326)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11942)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13499)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14677)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12502)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12163)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12074)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13301)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12551)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13673)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13338)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25616)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12190)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14567)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11873)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42089)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28358)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38831)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14733)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12711)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant